Bãi sao



Truyện ngắn: Bãi sao
Tác giả: Tân Thời

"Hàng mi em rớt ánh sao
Em đi chân đất khuất vào cõi anh."
— Hoàng Cầm, Đi bên em.

Bãi sao.

Khi máy bay tấp xuống sân bay tỉnh K, Nga đã mệt rũ. Tai nàng thường đau nhói mỗi khi áp suất thay đổi, dù đã bịt tai thì vẫn không áp nổi cơn say máy bay. Điều duy nhất an ủi nàng là khi máy bay chuẩn bị hạ cánh, nàng có thể trông thấy bãi biển xanh bên bờ cát trắng từ trên cao.

Nắng rải trên bờ cát lấp lánh xà cừ, cái mùa khô ráo gợi nàng đến thuở ấu thơ nhìn những lò nung hầm hập. Lửa, cát và thủy tinh là ba thứ luôn hiện hữu suốt thời non dại mà suốt quãng thời gian ở nơi xa nàng tưởng mình đã chẳng còn nhung nhớ. Nhưng cũng như những người con xa quê lâu ngày khác, chỉ cần trông thấy bãi cát trắng là bao nỗi bâng khuâng trong lòng lại như sóng tấp vào bờ. Nga xuống sân bay, để quê hương đón nàng bằng cơn gió phơn khô quen thuộc.

Trước lúc bay, Nga đã nhắn một tiếng trong nhóm gia đình. Lần này nàng về gần sinh nhật, Nga đoán có thể mẹ hoặc bác cả đến đón, nhưng khi lấy hành lý xong ra ngoài khu đưa đón, Nga lại trông thấy một bóng người mà nàng tưởng chỉ còn có thể bắt gặp trong những thước phim trên mạng xã hội.

Ngay khi nàng ngừng bước, Huân cũng vừa lúc thấy nàng. Anh khoác sơ mi xanh bên ngoài chiếc áo phông trắng, trên cổ vẫn đeo sợi dây gắn mảnh đá tam giác lệch mà lần cuối nàng thấy trong thước phim anh quay ở khu đồ lưu niệm cửa khẩu tỉnh L. Nước da anh trắng hơn một chút so với lần cuối nàng gặp. Nga đoán là dưới cái nắng cái gió cố hương, nó sẽ lại sớm ngăm lại màu bánh mật thân thuộc của anh thôi.

Thấy Huân bước về phía mình, Nga chủ động hỏi:

"Anh về từ bao giờ thế?” Em chẳng thấy anh nhắn gì cả. Nàng vốn định hỏi thêm câu sau, rồi lại nghĩ, Huân chẳng có việc gì phải báo cáo với nàng lịch trình của anh.

“Mới về mấy ngày.” Huân đáp: “Nghe tin em về, mẹ bảo anh ra đón em.”

"Bác cả lúc nào cũng chu đáo như thế.” Nga cười: "Lần này bay vội, em chẳng kịp mua gì cho bác.”

"Về là được rồi.”

Huân lấy chiếc va-li từ tay nàng rồi xoay người, cất bước. Nga không vội đuổi theo mà nhìn bóng lưng anh. Cả Huân và nàng đều đã qua lắm cái tuổi xuân xanh, thế nhưng bóng lưng anh thoạt trông vẫn hệt thuở ấy.

Đi thêm vài bước, Huân chợt ngoảnh lại:

“Hay lại không định về nữa?”

Nghe anh hỏi thế, Nga bèn nhoẻn cười, rảo bước đuổi theo anh.

"Nếu em bảo không muốn về…” Nàng song hành với anh, hỏi đùa: "Anh sẽ dẫn em đi đâu đây?”

Huân liếc mắt nhìn nàng, không đáp. Anh không đáp lại là chuyện thường tình, Nga đã quen với sự trầm lặng, u uẩn của anh suốt quá trình nàng trưởng thành. Nụ cười đã bặt tích trên môi anh cùng với sự ra đi của anh thời niên thiếu. Trừ những khi trò chuyện với mẹ nuôi anh, Nga gần như không thấy Huân mỉm cười vào dịp nào khác nữa.

Huân cất va-li nàng lên xe. Nga ngồi vào ghế phụ lái, chủ động mở quạt thông gió rồi nhìn anh lái xe ra sân bay. Lâu rồi không gặp Huân, lúc gặp lại chẳng có đề tài trò chuyện. Nga vốn không phải người quá ít nói nhưng mỗi khi ở cạnh Huân, nàng thường chẳng biết nói gì. Hoặc chăng, tĩnh lặng vốn là bầu không khí nên có giữa đôi bên. Ngày bé, nàng đã luôn yên lặng ngắm nhìn bước chân anh trên cát. Nga đưa mắt ra bờ cát trải dài con đường chiếc xe đi qua, bỗng như nghe thấy tiếng hò lao động xa xăm vọng đến, tiếng kẻng thuyền chài chiều chiều ra khơi, tiếng những guồng máy ép khuôn, mài khắc thủy tinh láng bóng.

“Hôm nay biển xanh thật anh nhỉ?”

Khi nói câu đó, nàng liếc Huân qua gương chiếu hậu. Anh vẫn nhìn phía trước, dường như chẳng nghe thấy tiếng nàng. Nga từng trông thấy nhiều bãi biển ngát xanh bên kia hàng dừa tươi mát, nhưng vùng biển quê nàng vẫn đem lại cảm giác gần gũi lạ lùng mỗi lần trở về.

"Ra biển không?”

Nga ngỡ câu nói kia vọng đến từ thinh không. Nàng quay lại, thấy Huân trông vẫn trầm lặng như cũ. Ánh nắng phản quang từ mặt kính lên đôi mắt nâu. Nga ngắm nhìn cái nắng quen thuộc rọi trên gương mặt quen thuộc, chốc sau ngoảnh lại phía biển xanh.

"Ừm, đến nơi đó đi.” Nàng nói: "Tới bãi sao.”

Bãi sao là cách Huân gọi bãi cát hồi nhỏ họ thường ghé. Cát ở đó là loại cát trắng chứa hàm lượng silica cao. Ban ngày, nắng chiếu xuống những hạt cát lấp lánh như bảo thạch; buổi đêm, ánh trăng phản chiếu lên bờ cát loang loáng như những vì sao li ti ngụ nơi trần thế. Cảnh tượng ấy ép vào tâm trí nàng một khuôn mẫu, cái khuôn hình ảnh về một bãi bờ rơi rớt ánh sao.

Vừa xuống bãi đậu, Nga đã cởi đôi giày dưới chân nàng, để nó lại trên xe rồi bước xuống. Hơi nóng hầm hập từ mặt đường bốc lên lòng bàn chân, Nga rùng mình, dậm chân mấy cái mới làm quen được với sự nóng bỏng rộp da đó. Nàng nhón chân, xoay nửa vòng cung trên nền bê tông. Quay lại, nàng vừa vặn chạm mắt với anh đang tới gần.

"Đừng đi chân trần.” Huân nhắc nàng.

Nga nhìn đôi giày anh đeo, không nói gì. Nàng không thích những đôi giày thô kệch ấy. Những đôi giày che khuất đôi chân khỏe khoắn và tinh tế của anh, đôi chân thổi hồn những điệu nhảy trong cát. Đôi khi Nga còn nghe thấy tiếng trống Ginăng rền nén mà dứt khoát, gọn gàng trong từng nhịp chân anh, lẫn vào tiếng kèn Saranai vút cao, thổn thức. Từng nhịp chân là từng nhịp tim đập rộn trong lồng ngực Nga thời bé thơ mà giờ nàng đã vứt bỏ dưới lòng biển kia, không thể lấy lại.

“Anh cũng cởi giày thử đi.” Nàng chợt nói, giọng nửa bông đùa: “Dùng lòng bàn chân anh cảm nhận mùa hè quê hương.”

Hai người đối diện nhau. Cách biệt chiều cao giữa họ đã dừng lại ở nhiều năm trước. Nga ngước gương mặt đanh và lạnh như thép của anh, gương mặt trái ngược với đôi mắt rực lên như lò lửa, họa lại cái sự tương phản kỳ khôi của quá trình nung nóng hợp kim. Họ nhìn nhau một chớp mắt tia lửa lóe. Huân thở dài, cúi xuống. Anh choàng tay nàng qua vai anh rồi bế nàng lên khỏi mặt đất.

"Đôi chân là tài sản quý giá nhất của nghệ sĩ múa. Em múa chuyên nghiệp mười mấy năm rồi, còn cần nhắc điều căn bản này sao?”

Nga khúc khích cười. Huân chỉ bế nàng một đoạn đường cho đến khi họ băng qua hàng phi lao mà ra tới bờ biển. Khoảnh khắc được anh đặt xuống cát, Nga bỗng như quay trở về hai mươi năm trước, cái hôm đánh dấu cho bước ngoặt đời nàng.

Nàng ngoảnh lại, hít một hơi gió lẫn mùi mằn mặn của muối biển, sải bước dài trên trên nền cát trắng phau. Nàng tháo sợi ruy băng đỏ xuống khỏi mái tóc, vòng nó quanh lọn tóc dài rồi buộc lại thành một chiếc đuôi ngựa.

“Chắc anh còn nhớ.” Nga ôn tồn kể. “Hồi nhỏ, có một buổi tối anh bế em ra đây. Anh chỉ cho em ba thứ: trời sao trên đầu, biển sao ngoài khơi và bãi sao dưới chân chúng ta. Anh nói mỗi bước chân trên cát là dấu tích của một vì sao rơi. Tối đó, em thật sự tin rằng chúng ta là hai ngôi sao lưu lạc.”

Nói đến đây, nàng bật cười, chuyển giọng thủ thỉ: “Nghe trẻ con anh nhỉ? Nhưng mà điệu múa hôm đó của anh đẹp lắm đấy. Đến giờ em vẫn không quên nổi.”

Đó là điệu múa khởi điểm hai thập kỷ hành trình với nghiệp múa của nàng. Hai thập kỷ nàng bước chân trần trên cát. Hai thập kỷ biêng biếc tuổi xuân. Giờ Nga vẫn trẻ, lại chẳng đủ trẻ để gọi về những vụng dại ban sơ.

Nàng vươn tay, sải bước dài, duỗi thẳng mũi chân và cất lên những bước nhảy đầu tiên. Bước nhảy thời-không đưa nàng về buổi tối hai mươi năm trước, dừng ngay cái thời-khắc nàng điêu đứng trong điệu múa của Huân. Cát tóe lên khi nàng mạnh mẽ dậm xuống, rơi rớt theo dòng khi nàng nhấc chân lên. Những ngón tay nàng khum khum chụm lại rồi họa nửa vòng cung. Nàng vung chân, hất lên dải cát lấp lánh, diễn họa những chuyển động đã in hằn trong hai thập kỷ tâm trí bằng ngôn ngữ thân thể. Ánh chiều cam cam hắt quầng sáng ngược thân hình mảnh mai, tạc một vầng hào quang quanh nàng như quầng lửa ánh trên người Shiva. Tay phải trên ngài cầm trống damaru, tay trái trên cầm ngọn lửa; tay phải dưới làm thủ ấn mudra ban phúc, tay trái dưới vắt ngang trong thế cân bằng. Chân phải ngài đạp lên quỷ Apasmara, chân trái giơ cao, ngài múa trong vòng lửa. Lửa khởi sinh mọi thứ và đốt trụi mọi thứ. Nàng đốt trụi hai thập kỷ của mình bằng điệu múa dẫn nàng vào con đường này, chấm dứt hai thập niên đằng đẵng ruổi theo bông hoa trên đá.

Khi Nga dừng điệu múa, ánh hoàng hôn vừa vặn buông xuống sau lưng nàng. Vầng dương đỏ lửa ánh lên trên gương mặt trang nghiêm của Huân. Nàng bước về phía anh, mồ hôi vương khắp da dẻ, nhưng đôi mắt thì rực lên ánh lửa tàn ngày.

"Sắp sinh nhật em rồi.” Nàng đề nghị: "Sinh nhật thứ 28 của em, anh có thể biên đạo cho em một bài múa không?”

Nga đã nhuần thấm cá tính chẳng thích vòng vo của Huân. Nàng không hỏi rào trước: “Anh có thể tặng em một món quà không?” mà hỏi thẳng luôn. Càng đưa ra câu hỏi thẳng thắn, nàng sẽ càng sớm nhận được câu trả lời dứt khoát.

Câu trả lời của Huân là một cái lắc đầu. Nga biết anh sẽ từ chối. Nàng thở một hơi dài, thả một lời ứng đối nhẹ tênh.

"Em định sẽ ngừng múa.”

Dẫu biểu cảm của Huân chẳng mấy thay đổi, Nga để ý đôi mày anh thoáng nhíu một cái rất nhẹ.

"Lần trước biểu diễn, anh thấy phong độ em vẫn tốt.”

“Phong độ tốt hay không chẳng liên quan đến việc em còn muốn tiếp tục hay không.” Nga nghiêm túc nói: “Em đã nghĩ rất lâu rồi, đã trốn tránh đủ rồi mới nói với anh. Lần này em về nhà gặp mặt gia đình cũng vì chuyện này, em định sẽ tổ chức một buổi biểu diễn nhỏ ở thành phố vào sinh nhật rồi sau đó sẽ nói chuyện với gia đình.”

Huân nhìn nàng, không đáp. Nga trông những bước chân trên cát hai vì sao để lại, khẽ nhắm mắt.

"Thầy à.” Nàng gọi anh bằng danh xưng đã gần mười hai năm không gọi.

"Thầy giúp em biên đạo bài múa cuối cùng trong sự nghiệp em đi.”

*

Huân là con nuôi của bác cả nhà Nga, hơn nàng tám tuổi. Suốt tuổi thơ nàng, Huân còn gần gũi nàng hơn cha mẹ. Trong quãng thời gian cha mẹ nàng bận rộn trong căn xưởng đúc thủy tinh của gia đình, Nga đã luôn bám lấy Huân. Dù trông anh chẳng có vẻ gì là thích trẻ con, thi thoảng anh vẫn dắt nàng dạo quanh bờ biển.

Nàng và Huân quen thân với những bãi cát. Cát trắng, cát vàng, cát của biển, cát thủy tinh. Nàng lớn lên bên những bãi cát trắng phau bên bờ biển tắm đẫm sắc xanh của trời. Đêm về, ánh trăng chiếu xuống những hạt cát lấp lánh. Năm Huân mười lăm tuổi, anh bế nàng bé nhỏ trong vòng ôm, chỉ nàng ba thứ: phía trên đỉnh đầu là trời sao, xa xăm ngoài khơi là biển sao và bãi cát anh và nàng đang dạo bước là một bãi sao trần thế. Huân đặt nàng xuống cát. Cát trườn vào những ngón chân bé nhỏ của nàng, mềm mịn nhưng dùng dằng, linh động nhưng tù túng. Huân bảo, cát là những tảng đá vỡ vụn, phong hóa trong nhiều thiên niên kỷ mới thành. Nguyên bản của cát là đá nên hiếm loài thực vật nào sinh trưởng tốt tươi trên cát.

Nga lon ton theo Huân loanh quanh bãi nhặt những vỏ sò, vỏ ốc trôi dạt từ biển vào. Sóng biển đều đặn tập vào bờ. Nàng ngẩng đầu, thấy Huân cầm một chiếc vỏ ốc hình sao, soi lên trước ánh trăng. Thấy nàng nhìn mình chăm chú, Huân cúi xuống, bảo nàng:

“Chìa tay.”

Nga ngoan ngoãn chìa tay ra. Huân đặt vỏ ốc hình sao vào lòng bàn tay mũm mĩm của nàng rồi cất bước về rìa biển. Hết nhìn vỏ sao năm cánh trong lòng bàn tay, Nga lại nhìn người thiếu niên chân trần trên cát.

Trời sao và biển đêm trở thành tấm phông nền cho Huân. Bàn chân khỏe khoắn xoay nửa vòng cung. Anh dậm chân xuống, cát bắn lên cao. Anh nâng chân lên, cát lún phún chảy xuống. Dòng chảy của cát như hòa làm một với thân thể anh. Như vị tư tế di chuyển dòng cát, như những người thợ đúc thủy tinh trong căn xưởng, Huân cũng hun đúc nên từ cát một điệu múa phi thường bằng đôi chân ma thuật. Nàng giương to đôi mắt, nhìn chằm chằm thiếu niên đang nhảy múa trên cát mà cảm tưởng trên người anh phất phơ tấm lụa mỏng manh.

Sau lưng anh là mặt biển, Nga lại thấy những ánh lửa bập bùng. Trong cặp mắt ngây thơ bé nhỏ của Nga ngày ấy hiện hữu lên bức tượng những vũ công Champa trong tòa tháp Chàm mà nàng mới được cha mẹ đưa xem. Mẹ bảo đó là những vũ công của những vị thần gây dựng đế chế cát. Cát đắp nặn những tòa tháp cao và cũng ùn ùn chảy rão. Vạn sự đều biến thiên theo dòng chảy của cát.

Thứ in đậm nhất trong tâm trí Nga thuở ấu thơ là đôi chân trần sa mạc.

*

Lúc Huân chở Nga về tới nhà thì đã qua giờ cơm tối. Vợ chồng chú ba và cô tư đều không có nhà, chỉ có mấy đứa em từ lớn tới bé nhảy nhót trong sân bãi. Bố mẹ Nga và bác cả đang ngồi phòng khách. Thấy hai người về, mẹ Nga là người đầu tiên lên tiếng:

"Sao hai đứa về muộn thế? Đã ăn uống gì chưa?"

"Tụi con ăn rồi." Nga đáp thay người anh họ kiệm lời: "Con mới xuống máy bay, không có khẩu vị nên bảo anh Huân chở con đi ăn nem nướng ấy mà. Đi đâu con cũng chẳng nếm được vị nem nướng quê mình."

Huân chỉ vào chào mẹ với cậu mợ rồi lại lái xe về nhà riêng của anh. Nga trông theo bóng anh mất hút, còn chưa kịp cất va-li thì mẹ nàng đã hỏi:

"Sao lại gầy đi nữa thế con bé này?"

"Con vẫn vậy mà." Nga nói: "Lần này con về vội quá, chẳng mua được quà cho mọi người."

"Quà cáp nỗi gì." Mẹ nàng phẩy tay, ra chiều than thở: "Tôi chỉ cần cô mang về cho tôi một tấm chồng thôi."

"Thế thì lại không được rồi." Nụ cười vẫn vững vàng trên gương mặt nàng, song ánh mắt Nga không còn vui như ban nãy. Nàng đã đoán trước rằng về nhà sẽ phải đối diện với tình cảnh giục cưới, tuy nhiên, nàng không ngờ lại nhanh đến mức này.

Mẹ kéo nàng xuống ghế, hỏi thêm:

"Thế có người yêu chưa?"

"Không có ai đâu. Con bận lắm, lịch đi diễn kín mít, làm gì có thời gian yêu đương."

Dứt lời, nàng không muốn tiếp tục đề tài này nên chuyển ngay chủ đề:

“Đây, con kể mọi người nghe. Lần này đoàn múa con sang Ấn giao lưu. Khẩu vị đồ ăn ở đó hơi nặng, không hợp miệng bằng hồi con bên Thái, nhưng con được học bài bản về nguồn gốc điệu Nataraja của thần Shiva… cái điệu mà hồi nhỏ mẹ từng dẫn con đi xem phù điêu vũ công Chăm á ở tháp Chàm ấy. Người Chăm bên mình cũng thờ Shiva, nhưng theo kiểu Bàlamôn giáo bản địa chứ không giống kiểu thờ trong Hindu giáo chính thống Ấn Độ. Cơ mà, trên phù điêu thì đường nét vũ công vẫn giống Nataraja cực kỳ…"

"Mày định tiếp tục múa may đến bao giờ?"

Nga ngừng nói. Nàng không thích khi mình đang nói có người xen ngang, nhưng người lên tiếng là ông bố khó tính của nàng, nàng chỉ đành nén cơn bực bội xuống, tươi cười.

"Lần nào con gái ba về ba cũng nhắc đi nhắc lại chuyện này, mẹ ơi, bác ơi…” Nàng quay sang tìm kiếm phương án trợ giúp từ người thân: “Con mới xuống máy bay, uể oải quá à, mọi người nói ba giúp con đi.”

Mẹ nàng và bác cả nhìn nhau. Bố Nga trưởng nam trong nhà, thường ngày chuyện thờ tự gia tiên và mồ mả ông bà đều đến tay bố nàng nên cũng có tiếng nói nhất. Trong chuyện cưới xin, mẹ nàng cũng về phe bố nàng nên cũng không muốn nàng cứ đi biểu diễn mãi. Tâm tưởng thế hệ cha mẹ Nga đều gắn với chuyện an cư lạc nghiệp, nề nếp gia phong. Nga là con gái lớn trong nhà. Hai người họ mong muốn nàng lấy chồng rồi về tiếp quản xưởng thủy tinh của gia đình cũng là chuyện thường tình. Tuy nhiên, chí hướng Nga lại không đặt ở đó nên nàng chẳng đoái hoài đến căn xưởng. Cũng bởi việc này mà mỗi lần về nhà, ít nhiều nàng sẽ lại khắc khẩu với cha nên mấy năm nay, số lượng nàng về chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mẹ nàng cũng nhận ra sự xa cách ấy nhưng chẳng còn cách nào bắc cầu thông thương.

Sau cùng, vẫn là bác cả lên tiếng hòa giải:

"Thôi thôi, lâu lắm con gái chú mới về, chú bớt nói một câu xem nào.”

"Con gái em em nói một hai câu thì đã sao.” Bố Nga hoạnh họe: “Cũng do tấm gương xấu của thằng Huân, ba mươi mấy tuổi rồi vẫn chẳng yên bề, lại để em nó nhìn rồi học theo.”

"Con không học theo anh.” Nga phản bác: “Ba đừng cái gì cũng đổ cho anh, ba không thấy mình quá đáng ư?”

"Còn không phải nó dẫn mày vào cái con đường múa may này…”

"Được rồi, mình bớt nói lại, chị cả còn ở đây, sao lại nói thằng Huân thế chứ!” Mẹ nàng ngắt lời cha nàng: "Con Nga nó lớn rồi, nó tự biết!”

Nga ngán ngẩm nghĩ, có lẽ căn xưởng thủy tinh vẫn luôn ám vào gia đình nàng. Mỗi lần nói chuyện, bầu không khí lại căng phồng như khối thủy tinh nóng chảy, phồng lên dưới nhiệt, nực nội đến phát điên. Nàng luôn muốn chạy trốn khỏi sự o hẹp ấy.

“Bác cả, ba, mẹ, con mới xuống máy bay, còn hơi mệt. Con xin phép đi nghỉ trước đây.” Dứt lời, Nga đứng dậy, xách va-li vào phòng.

Căn phòng nàng từng ở suốt từ nhỏ tới lớn đã được sửa sang lại vài lần. Nga mở tủ, xếp quần áo, đồ diễn và đủ thứ trang điểm linh tinh từ va-li vào. Nàng mở cánh tủ lớn, thấy chiếc hộp vuông cất gọn một góc thì không khỏi tần ngần. Sợi ruy băng trên đó trùng màu với sợi ruy băng buộc trên tóc nàng. Nga bê chiếc hộp lên, mở ra, bần thần nhìn đôi giày múa nhỏ đã ngả màu bên trong hồi lâu. Có lẽ nàng sẽ còn nhìn mãi nếu không nghe thấy tiếng gõ cửa và giọng nói bác cả vọng vào.

“Bác vào nhé Nga.”

“Dạ vâng!” Nga giật mình, cất chiếc hộp kia đi rồi ra mở cửa.

Bác cả nàng trông phúc hậu. Mỗi khi trò chuyện với bác, Nga lại cảm thấy nhẹ nhõm hơn hẳn lúc nói chuyện với cha mẹ nàng. Nàng mời bác vào phòng, vừa định đi rót nước cho bác liền nghe bác nói.

"Nga này, lần này về con tính ở lại bao lâu?”

"Con tính ở qua sinh nhật.” Nga nói: "Nhà biểu diễn thành phố gửi lời mời, hôm sinh nhật con với anh Huân sẽ biểu diễn ở đó luôn.”

"Thằng Huân cũng biểu diễn à?” Bác cả ngạc nhiên.

"Chưa quyết định ạ, còn tùy thuộc vào ý anh bác ạ.” Nga dí dỏm nói đùa: “Cũng may mà anh đồng ý biên đạo múa cho con rồi, không con đành nhờ bác thương thuyết giúp con đó!”

"Bác không can thiệp vào quyết định của nó đâu.”

Bác cả nói xong lại nhìn nàng. Dù không phải mẹ con ruột, đôi lúc Nga lại thấy đôi mắt của Huân rất giống bác cả, đều là những đôi mắt có thể xuyên thấu lòng dạ người khác. Bác cả đưa tay vuốt nhẹ mái tóc đen dài của nàng, ôn tồn nói:

“Lắm lúc bác thấy con rất giống nó.”

Nga còn chưa hiểu bác thấy nàng giống Huân ở điểm nào thì lại nghe bác giãi bày:

"Thực ra, có chuyện này bác đắn đo mãi mới quyết định hỏi con. Nga, bác nhìn con từ nhỏ lớn lên, thấy con chỉ thường thân cận với Huân. Con gắn bó với nó từ nhỏ, chính nó cũng là người đưa con vào con đường múa. Hai đứa con đến ngần này tuổi vẫn chưa lập gia đình. Bầu không khí giữa hai đứa con cũng khác. Con nói thật bác nghe, bác không giận, giữa hai đứa con…”

Hơi thở Nga thoáng bặt tăm trong cái ngập ngừng thoáng chốc. Nàng lờ mờ nhận ra điều bác cả muốn nói. Chỉ là, nàng không ngờ bác sẽ nói hẳn thành lời.

“Hai đứa con, thích nhau phải không?”

*

Huân là người anh đầu tiên, người bạn đầu tiên, thần tượng đầu tiên, tiền bối đầu tiên và người thầy đầu tiên của Nga.

Bảy tuổi rưỡi, nàng bắt đầu học múa chỉ vì muốn theo bước anh. Ngày thường, trông Huân giống như những thiếu niên vùng duyên hải khác với dáng người cao ráo và nước da ngăm ngăm bánh mật. Nhưng khi đôi chân anh bắt đầu di chuyển, Huân từ tòa tháp Chàm đầy chất sử thi trở thành dòng cát lững lờ dựng nên cái nôi văn hóa quanh sông Ấn-Hằng rực rỡ. Bước chân trên cát của anh như một giấc mơ. Hằng hà sa số ngôn từ cũng không đủ để Nga tỏ bày vẻ đẹp của giấc mơ ấy.

Việc luyện múa chẳng vui chút nào. Nga phải đối mặt với những buổi tập giãn cơ mỗi ngày. Thời gian đầu, chân nàng luôn đau nhức và động tác thì vụng về. Một lần nàng cùng Huân ra bãi sao, Nga chợt kéo tay anh, hỏi phải đến bao giờ đôi chân của nàng mới điều khiển được dòng cát ấy như anh.

Thay vì trả lời, Huân bảo nàng theo anh đến một nơi. Nga đi xe khách cùng anh đến bãi cát tỉnh N, nơi được cho là có khí hậu khô nóng nhất dải đất chữ S, nắng gió hun đúc những cồn cát mênh mông. Anh và nàng bước đi dưới mùa nắng thiêu. Huân dắt tay nàng và chỉ nàng ba thứ: phía trên đỉnh đầu là mặt trời, bên kia cồn cát là gió hanh từ dãy Trường Sơn và dưới chân họ là một “Con Đường Tơ Lụa”.

“Đây là một trong những bãi cát lớn nhất đất nước.” Huân nói: “Muốn đi bộ qua hết cũng mất cả nửa ngày. Bãi cát này dài gấp mấy lần bãi sao gần nhà mình, nhưng so với những hoang mạc trên thế giới, nó vẫn chỉ là một bãi cát quá đỗi nhỏ bé.”

Đôi mắt anh trải rộng xa xăm. Nga chưa từng đặt chân lên con đường Tơ Lụa nổi tiếng nối liền Á- u. Con đường từng in dấu chân biết bao thương nhân, học giả, đoàn lữ hành và những giấc mộng trải dài từ phương Đông đến tận bên kia bờ Địa Trung Hải. Hương trầm, lụa là, đá quý và tri thức ghi dấu trong mỗi bước chân những vị lữ khách sải bước trên con đường kia. Huân bảo, những nghệ nhân múa như bọn họ cũng thế. Mỗi người dấn thân vào cái giới nghệ thuật này cũng đều bước đi trên một hoang mạc vô biên. Đôi khi hoang mạc ấy là những con sông băng vùng cực mà những người bên vành đai xích đạo như anh và nàng khó lòng thấu hiểu. Lại đôi khi, chúng là những bãi cát đi hoài không thấy điểm kết thúc.

“Bước trên con đường này không hề vui vẻ.” Huân lấy từ trong ba-lô một chiếc hộp buộc ruy băng đỏ, đưa cho nàng.

“Em sẽ phải đối mặt với những buổi luyện tập cường độ cao, mất cả tháng luyện đi luyện lại một bài biên đạo mà đôi khi còn không được gọi ra sân khấu. Em phải ăn theo một chế độ dinh dưỡng nhất định, phải đối mặt với chấn thương lúc nào cũng có thể xảy ra và phải quen với cảm giác chán chường và mệt mỏi lặp đi lặp lại mỗi ngày thức giấc. Thậm chí, nếu tham gia những cuộc thi, em sẽ biết đến thắng thua, những đêm trắng trằn trọc sau mỗi lần thất bại. Tất cả những điều đó, không điều gì mang lại niềm vui cho em.”

Nga tháo sợi ruy băng đỏ buộc trên chiếc hộp kia, quấn nó lên tay và mở hộp. Bên trong chiếc hộp là một đôi giày múa giản đơn.

“Nhưng nếu em có đủ lý do và dũng khí, đủ lì lợm và đam mê thì cứ đi cho đến khi đôi giày này mòn.” Anh cụp mắt, nói thêm: “Đủ mòn là được.”

Nga cúi xuống, nhìn đôi giày múa trắng phau trong hộp, chốc sau chợt hỏi:

“Vì sao anh lại bắt đầu múa hả anh?”

Nga ngước nhìn anh nhưng Huân không nhìn nàng. Anh phóng mắt ra xa xăm bãi cát. Ánh mắt anh cháy bỏng như mặt trời và giọng nói anh khô hanh tựa cát.

“Anh muốn tìm một bông hoa.” Huân nói: “Anh luôn muốn tìm một bông hoa trên đá. Bãi cát là những tảng đá bị phong hóa nhiều thiên niên kỷ mà thành, thế nên anh phải bước đi trên con đường này mới tìm thấy bông hoa kia.”

Năm ấy, Nga không hiểu lời anh. Sau cùng, Huân vẫn chẳng nói nàng hay rằng phải làm sao mới có thể nhảy múa giống như anh. Nhưng kể từ khi nhận đôi giày múa, Nga cũng ngừng hỏi anh những câu như vậy. Nàng bắt đầu luyện tập với mong muốn đôi giày sẽ sớm mòn.

Có những hôm, Nga ôm đôi chân đau nhức vào nằm gọn một góc giường, nhưng chỉ cần mở máy, xem một thước phim quay cảnh Huân biểu diễn, dường như thứ đau đớn vật lý ấy lại trở thành liều thuốc kích thích tinh thần nàng. Nga không nhớ nổi nàng đã vượt qua giai đoạn khởi đầu ấy thế nào. Những buổi tập giãn cơ trở thành thói quen mỗi khi thức dậy, những bài tập múa được nàng lặp đi lặp lại nhiều lần không biết mệt. Nàng muốn một ngày nào đó có thể biểu diễn cùng Huân trên một sân khấu. Bóng lưng anh là ánh sao sáng chói nhất bãi sao. Nga bước từng bước theo anh, bắt đầu tham gia những buổi biểu diễn nhỏ, gia nhập những nhóm múa địa phương, đạt được vài thành tích nho nhỏ.

Những bài biên đạo của Huân dành cho nàng cũng được đánh giá rất tốt, chẳng mấy chốc, anh tốt nghiệp và nhận được giấy mời nhập học từ trường múa ở thành phố H. Năm ấy anh mới lột xác từ thiếu niên thành thanh niên, vẫn mang trên mình cái nhiệt huyết tràn trề tuổi trẻ. Anh không kế nghiệp và làm việc tại xưởng thủy tinh của gia đình mà chọn vào thành phố H học và biểu diễn múa chuyên sâu. Ngoại trừ bác cả, trong gia đình không ủng hộ quyết định của anh, tuy nhiên vì Huân chỉ là con nuôi nên mọi người cũng không tiện xen vào. Sau nhiều ngày bàn bạc, người trong nhà đành mặc kệ anh, thế là hè năm ấy Huân xách ba-lô tới thành phố H.

Lúc Huân mới đến nơi khác học, Nga cũng hơi buồn. Đôi giày Huân tặng nàng đã mòn, Nga cất đôi giày kia vào chiếc hộp quà Huân tặng nàng vào sinh nhật mấy năm trước và thay bằng những đôi giày khác. Nàng tiếp tục luyện múa, đầu cấp hai đã trở thành múa chính trong những buổi biểu diễn thiếu niên. Sau những giờ học múa, thi thoảng nàng sẽ dạo quanh bãi sao, nhìn những hạt cát lấp lánh trong ánh hoàng hôn và đếm những bước chân trên cát.

Nàng đếm cả ngày Huân trở về.

*

Tết năm đó, Huân về thật. Đi cùng anh còn có một người bạn thân quen từ trường múa: dáng người cao ráo, làn da trắng trẻo, ánh mắt lanh lợi thuộc về một chàng trai lớn lên giữa phố thị phồn hoa.

Người bạn nọ tên Chương, trước theo học ba-lê nhưng sau chuyển sang múa đương đại. Tính Chương dễ gần hơn Huân, là kiểu người xởi lởi, gặp ai cũng nói chuyện được. Anh không ngại người lạ, thấy Huân còn có một đứa em họ cũng đang đi biểu diễn thì hỏi xem những đoạn băng quay lại. Huân mở cho Chương bài biểu diễn gần nhất của nàng, anh vừa xem vừa tấm tắc:

"Bài múa của em ấy là do cậu biên đạo đấy à? Đẹp thật, mỗi động tác đều mang theo ý nghĩa. Cậu hợp làm biên đạo múa lắm."

"Giết thời gian thôi.” Huân lắc đầu: “Sau này tôi không định dạy múa."

“Vậy là cậu chỉ biên đạo cho em cậu thôi à? Mà động tác của em ấy cũng đẹp thật, mới cấp hai đã giỏi như thế rồi.” Chương quay sang hỏi Nga: “Sau này em có định biểu diễn chuyên nghiệp giống bọn anh không?”

Nga vô thức liếc Huân, tìm kiếm đáp án trong đôi mắt anh. Thế nhưng, nàng chẳng trông thấy gì ở đó.

“Vâng, em có ạ.” Nga mỉm cười: “Em định lên cấp ba sẽ chuyển tới trường múa trong thành phố các anh.”

“Òa, sớm vậy ư?” Chương trầm trồ một thoáng rồi nảy ra ý tưởng: "Em muốn xem đoạn băng bọn anh biểu diễn không?"

"Này." Huân phản đối.

"Cậu ngại gì chứ? Biểu diễn là để người khác thấy. Cho em gái cậu xem thì có gì đâu mà.” Chương huých Huân một cái, vừa mở Nga xem buổi tuyển chọn gần nhất của họ vừa hí hửng kể: “Này nhé, em không biết đâu Nga à, thằng Huân nhà em là đứa mới giỏi nhất trong khóa bọn anh luôn đấy. Các thầy cô khen nó quá trời, toàn để nó biểu diễn mẫu cho các học viên khác cùng xem.”

Giữa chừng, điện thoại Chương reo. Anh xin phép ra ngoài nghe máy. Đúng lúc ấy, đoạn băng phát đến phần biểu diễn của chính anh. Từng học ba lê nên động tác của Chương bài bản và đầy kỹ thuật, một phong cách hoàn toàn khác với Huân. Dù chỉ mặc trang phục múa bó sát, giản dị, từng chuyển động của anh vẫn khiến Nga ngỡ ngàng. Hiếm khi nàng trông thấy một màn biểu diễn nhuần nhị và tinh xảo như thế, dường như cả cơ thể Chương đều biết nói thành lời.

Nàng liếc Huân, thấy anh đăm đăm nhìn người trên màn hình, đôi mày khẽ nhíu lại.

"Cậu ấy... giỏi thật."

Khi anh nói câu đó, ánh mắt vẫn không rời khỏi màn hình ti vi. Nga nhìn thấy trong mắt anh một thứ cảm xúc mà khi ấy nàng chưa thể gọi tên. Mãi đến sau này, khi Huân đã đi rất xa, nàng mới có dịp ngồi xem lại những đoạn băng biểu diễn cũ. Trong một đoạn, nàng bắt gặp chính ánh nhìn của mình hướng về phía Huân giống hệt ánh mắt anh từng dành cho Chương. Chỉ đến khi ấy, nàng mới gọi tên được ý nghĩa của ánh mắt anh năm nào.

Có lẽ, Chương chính là bông hoa trên đá mà Huân luôn kiếm tìm.

Tần suất người nọ xuất hiện trong cuộc sống của Huân ngày càng nhiều. Ngay cả khi về nhà hoặc những ngày tranh thủ biên đạo cho Nga một bài biểu diễn mới, Huân cũng thường xuyên nói về Chương. Hình như, Huân vẫn luôn ngưỡng mộ và cả ghen tỵ với Chương dù tài năng của hai người họ chẳng cùng một kiểu. Nga mang máng hiểu vì đôi khi nàng cũng đón nhận những ánh mắt như thế mỗi lần được gọi tên làm múa chính hoặc được giải thưởng cuộc thi. Thi thoảng, Huân bảo nàng rất giống Chương. Nàng hỏi tại sao anh nghĩ thế, Huân đáp: “Phía sau ánh hào quang của hai người là nước mắt của muôn vàn người khác.”

Sau này, có hai lần Nga thấy Huân rơi nước mắt vì Chương. Một lần anh khóc khi trở về từ một buổi diễn. Nga nghe lời bác cả vào phòng an ủi, lại thấy anh đang ngồi bên giường, nhìn màn biểu diễn của Chương và lặng lẽ rơi nước mắt. Lần thứ hai, anh khóc khi Chương bị tai nạn, bại liệt hai chân. Anh khóc vì Chương không thể đứng dậy nữa.

Một thời gian sau khi giành quán quân tại một cuộc thi múa quốc tế, Huân cũng rút khỏi ánh đèn sân khấu chuyên nghiệp. Anh biến mất khỏi những sàn diễn lớn và trở thành một nghệ sĩ đường phố. Nga còn không biết tin đó cho đến ngày nàng tình cờ thấy có người quay lại màn biểu diễn của Huân và đăng lên mạng xã hội “Tích Tắc”. Thước phim đó bùng nổ và sau đó không lâu, Huân tự lập kênh và đăng những đoạn băng anh biểu diễn ở mọi nơi anh tới.

Càng ngày, anh càng vời xa nàng hơn. Họ vốn đã chẳng trò chuyện nhiều. Cuộc sống của anh chỉ xoay quanh múa và những hình thái nghệ thuật phụ cận. Nga bắt đầu học múa để kết nối với anh. Nàng không nghĩ, dù đã theo bước anh trên con đường này, duyên phận giữa anh với nàng vẫn có thể bị cắt đứt.

"Tôi không còn gì để dạy em nữa."

Lần cuối trở về thu xếp đồ đạc, Huân đã nói vậy với nàng. Trước chữ “tôi”, nàng gọi Huân là thầy. Sau chữ “tôi”, nàng gọi Huân là anh. Câu nói ấy là đường kẻ chia cách bầu trời và hoang mạc sỏi đá. Khi ấy, Nga không thể chấp nhận nổi việc anh rời khỏi căn nhà này để đến xứ sở của những hàng bạch dương. Bọn họ vốn thuộc về mặt trời, không phải xứ tuyết lạnh lẽo vùng hàn đới. Nàng nhất quyết hỏi anh lý do.

"Từ đầu, anh vốn đã chẳng có gì để dạy em rồi." Huân bình thản nhìn nàng: “Em cũng không cần những bài biên đạo của anh để có thể chiến thắng. Em là kiểu người sẽ luôn chiến thắng.”

“Anh cũng thế mà.” Nga chỉ những giải thưởng, bằng khen và kỷ niệm chương anh bỏ lại: “Anh sinh ra để biểu diễn trên sân khấu, em không hiểu tại sao trong thời điểm huy hoàng nhất mà anh lại từ bỏ.”

“Anh không từ bỏ.” Huân kéo khóa va-li, bình tĩnh nói: “Anh chỉ không tìm được gì từ ở việc biểu diễn chuyên nghiệp nữa. Nơi đó không có bông hoa anh cần.”

Nói xong, anh kéo va-li ra khỏi căn phòng và khép cửa lại. Nga thẫn thờ đứng đó, cảm tưởng có thứ gì đó trong lòng nàng đã chết rục.

Từ độ ấy, Huân không bao giờ trở lại bãi sao kia nữa.

*

Lúc Nga và Huân tới nhà biểu diễn thành phố, nàng không khỏi bùi ngùi. Hai mươi năm gắn bó với nghiệp múa, gần một nửa quãng đường suốt thuở non dại, vụng về ấy nàng đã sống cùng sân khấu này.

Nga từng biểu diễn hàng chục bài múa, tham gia không ít cuộc thi, giành được những giải thưởng trên bục đài gỗ lợp. Sự nghiệp của Nga có thể nói là suôn sẻ và phong gấm hơn nhiều người khác. Nàng có người hướng dẫn, có điều kiện theo đuổi việc múa từ nhỏ và đặc biệt, nàng có tài.

Cái tài ở đây, nhiều người sẽ bảo ấy là vốn sẵn tính trời, vài người cho rằng nàng lo lót cửa sau, riêng Nga cảm thấy nó là một cái bóng. Cái bóng tài năng phủ lên mỗi người trong ngành nghệ thuật, dù là Nga hay Huân cũng chẳng là ngoại lệ. Đối với Huân, cái bóng ấy là Chương. Còn với nàng, Huân sẽ luôn là cái bóng lớn nhất.

Nga bước lên con đường này vì đã chứng kiến tài năng của anh. Nàng cũng mắc kẹt trên đó vì thứ tài năng ấy.

Lúc Nga mới đến trường múa ở thành phố H, từng có người nói rằng họ không thấy được nhiệt huyết ở nàng. Nàng múa như một cỗ máy điêu luyện, thậm chí còn siêu việt hơn máy móc vì mỗi bài múa của nàng kể một câu chuyện bằng xúc cảm từ ngôn ngữ hình thể. Nhưng họ không thấy ở nàng một thứ đam mê hừng hực như lửa, thứ đam mê mà Nga từng dễ dàng bắt gặp nơi Huân, Chương và sau này là Tú.

Còn nàng, chưa bao giờ nàng thấy mình giống họ.

"Tự dưng em nhớ đến buổi phỏng vấn đầu tiên của đài địa phương lúc em giành quán quân cuộc thi múa ở đây." Nga cười: "Phóng viên đấy hỏi em cảm thấy gì khi biểu diễn bài múa kia và khi giành được huy chương vàng. Anh biết lúc đó em đã trả lời thế nào không?"

"Tôi từng nghe câu trả lời đó rồi."

"Anh nhớ không?"

"Em nói, đó là dấu chân đầu tiên của em trên cát. Em cảm thấy rất bình thường."

Khi thấy anh còn nhớ, Nga mỉm cười. Chốc sau, nàng lại thở dài.

"Sau này em mới biết câu trả lời như vậy không hợp tình. Em bảo mình thấy bình thường khi giành được thành tựu mà nhiều người phải nỗ lực rất nhiều vẫn không chạm tới thì nghe có vẻ quá kiêu ngạo. Người ta luôn cho rằng việc gặt hái thành công từ nỗ lực phải xúc động, phải bật khóc vì hạnh phúc hoặc bật cười mãn nguyện thì mới là thường tình. Còn nếu em dửng dưng trước thành tựu của em thì người ta sẽ cảm thấy phía sau đó có nội tình, có thể vì em mua giải và biết chắc chắn rồi nên mới chẳng cảm thấy gì. Sau đó em đã cố tỏ ra vui vẻ hơn mỗi khi đạt được giải thưởng gì đó. Nhưng thực sự, em chỉ thấy nó giống như bao ngày."

Nàng bước lên sân khấu, nhìn Huân và những hàng ghế trống phía dưới. Vài ngày nữa thôi, những hàng ghế ấy sẽ đầy ắp người ngồi xem. Huân ngước lên, chợt cất tiếng:

"Lúc đó tôi nghĩ, em sẽ là người tiến xa hơn bất cứ ai trên con đường này."

Nga hơi ngạc nhiên, không nghĩ cũng có lúc Huân bộc lộ một ý nghĩ nào đó thành lời. Mặc dù lớn lên trong một đại gia đình, số lần nàng với Huân trò chuyện riêng tư chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nga chẳng rõ liệu Huân có bao giờ chia sẻ với nàng điều gì khác ngoài những bài múa, một vài bộ phim về lòng đam mê với nghệ thuật (đôi khi ấy là sự hy sinh đến cực đoan như "Thiên Nga Đen" chẳng hạn, Nga thường bật cười vì tên nàng cũng là Thiên Nga) và thi thoảng là những câu chuyện lẻ tẻ về Chương. Mỗi khi ở cạnh nhau, cả anh và nàng đều chẳng nói gì về bản thân lẫn người kia, giống như giữa họ có một mảnh kính thủy tinh dày cách ngăn hoặc là họ đã tri kỷ đến mức hiểu nhau mà chẳng cần bày tỏ thành lời.

Nàng rời khỏi Huân hơn một thập kỷ. Có đôi khi nàng vẫn tình cờ gặp anh trong những buổi họp Tết gia đình. Dù đã tách khỏi đại gia đình từ thành niên, hằng năm anh vẫn đều đặn gửi tiền và sắm sửa, xây mới cho người mẹ nuôi của anh. Nga thấy nụ cười bác cả luôn tươi rói mỗi khi đón anh về. Bác hỏi về vùng đất có sông băng giá lạnh mà anh từng không quen, hỏi về phong tục tập quán xứ người. Rồi bác lại hỏi anh có ăn đủ no, mặc đủ ấm không. Huân nói, anh nhớ nhất là những món nước đất Việt. Không đâu tìm được hương vị bún sứa như ở quê nhà. Nên có xa anh cũng chẳng xa mãi được.

Bố mẹ nàng đôi khi cũng hỏi thăm tình hình anh, nhưng thiết thực hơn, hỏi anh bao giờ lập gia đình.

"Như mẹ cháu cũng tốt lắm chú."

Bố nàng nói sao giống nhau được, bác cả góa chồng trẻ, còn Huân làm gì đã có gia đình. Bác cả bèn xen vào, cười bảo chúng ta là gia đình của nó còn gì rồi đưa anh rời đi. Từ đầu đến cuối, Nga không nói với anh một lời và chỉ chạm mắt anh một lần khi bố nàng hỏi về việc lập gia đình.

Huân sẽ không lập gia đình đâu, nàng đinh ninh. Nga biết nàng và Huân là hai kiểu người đối lập nhau, chỉ có điểm đó là tương đồng. Đôi khi Nga không rõ, mối quan hệ giữa nàng và Huân là anh em, là thầy trò, là tri kỷ, hay chỉ là những người lạ tình cờ cùng đặt chân lên một bãi cát.

"Thực ra, em không thích múa đến thế." Thấy Huân bước lên sân khấu, Nga chợt nói: "Đến giờ, em chẳng hiểu sao mình lại có thể dành ra hai mươi năm vì nó nữa."

Nàng luôn thấy mỗi ngày phải lặp đi lặp lại những bài khởi động, những động tác múa thật nhàm chán. Mỗi khi nàng lại những bài biểu diễn nàng lại thấy chúng tẻ nhạt. Huân vùi mình vào những lần biểu diễn, hiến dâng toàn bộ thời gian, tâm sức, vui buồn của anh cho nghiệp múa và cũng đã bị nó bóp chết trên đỉnh cao. Anh như vì sao rơi xuống giữa thời khắc sáng chói nhất. Mọi người đều tiếc nhớ anh. Có rất nhiều đêm, Nga nhìn chằm chằm trần nhà và tự hỏi nàng đang làm gì với cuộc đời mình. Nàng bước lên con đường này vì thần tượng là Huân, vậy khi Huân biến mất, tại sao nàng vẫn tiếp tục thêm một thập kỷ nữa?

Ánh sáng chiếu xuống khán đài im ắng. Huân vươn tay về phía nàng.

“Em hiểu rõ nhất lý do mà.”

*

Sân khấu xẻ nửa ánh sáng. Luồng sáng đỏ từ chiếc đèn trên cao chiếu xuống bóng người đứng nghiêng phía bên trái sân. Một tay Huân khép trước ngực, tay còn lại đưa ngang vai. Đến giây thứ mười, khi tiếng đàn đá lanh canh lẫn cùng nốt nhạc, sống lưng anh đột ngột đổ xuống. Anh oằn mình, cơ thể uốn rạp trên sàn. Anh xoay người, chống tay đẩy ngược thân thể lên rồi lại hạ xuống.

Phía bên phải, Nga lẳng lặng dõi mắt theo người đàn ông. Bóng hình Huân in bóng trong đôi mắt rực lửa của nàng. Sau vài nhịp, gót chân nàng bỗng kéo về phía sau. Nàng vươn tay về phía anh, duỗi chân, lả lướt trượt trên sàn.

Tiết tấu nhạc đẩy nhanh, xen lẫn những tiếng lạo xạo, lách cách của những viên sỏi va chạm và tiếng dùi gõ trên đàn đá. Hai người di chuyển song song, liên tục lướt qua nhau, không mảy may chạm tay nhưng động tác lại đồng bộ toàn phần. Cơ thể Nga và Huân đều gập xuống, rõ từng khớp cơ thể, thả rơi đôi cánh tay và nghiêng người, lệch trục. Họ quỳ xuống cùng một lúc, lưng hướng về phía sau, đều ngửa đầu nhìn lên ánh đèn lóe lên như ánh sao trên trần sân khấu.

Thuở thiếu niên, Nga vẫn luôn tự hỏi: tại sao một người từng rực cháy đến thế lại dứt áo rời khỏi bãi sao?

Đến tận khoảnh khắc được anh dẫn bước, nàng vẫn như chưa thể tin, Huân thực sự quay về với nàng trong bài múa này. Bãi sao trải dài những hạt cát lấm tấm. Nàng bé nhỏ nằm trong vòng tay anh, lấy làm lạ khi cơ thể anh lại ấm áp như vậy. Huân ôm nàng đi giữa triền gió và cất lên thanh âm khô queo của cát: “Đi theo anh, em sẽ chẳng bao giờ được an ổn,” như thể chính anh là một ngọn lửa sẽ thiêu rụi bất cứ ai bước gần.

Nhưng Nga chưa từng thấy mình bất hạnh. Chính Huân là người trao cho nàng ngọn lửa đầu tiên. Từ đó về sau, dẫu có ngã bao nhiêu lần trên sàn gỗ, nàng vẫn không tài nào quên được bãi sao ngày ấy.

*

Cùng năm Huân đi xa xứ, Chương trở thành giảng viên tại trường múa. Nga thường xuyên gặp anh trong các buổi học. Chương vẫn nhiệt tình và hăng say như thuở nàng mới gặp anh. Có lẽ do khoảng trống mà Huân để lại, Nga trò chuyện với Chương nhiều hơn. Nàng hỏi về quá trình anh hồi phục sau tai nạn, trạng thái tâm lý của anh và lý do anh còn quay trở lại nơi này.

"Thời gian đầu, anh không thể chấp nhận việc mình không thể đứng trên đôi chân của mình nữa. Đôi chân là tất cả của một diễn viên múa mà.” Chương ngậm cười: “Nhưng rồi anh nhận ra mình đã sống với nó cả cuộc đời, anh không thể tưởng tượng một cuộc sống thiếu vắng nó được."

"Nên thầy trở thành giảng viên sao?" Nga giúp Chương đẩy xe lăn vào khán đài, nhìn tốp học viên tham dự đợt tuyển chọn mới biểu diễn. "Thầy không cảm thấy, phải phó thác những gì thầy chưa đạt được lên đôi chân người khác còn đau đớn hơn từ bỏ ư?”

Chương im lặng vài giây, đôi mắt đăm đăm dõi theo những đôi chân bước lên bục. Bài biểu diễn của học viên kết thúc, anh chợt nói:

“Huân gọi nghề nghiệp này là nghệ sĩ múa, trong khi tôi lại gọi là diễn viên múa. Hai cách gọi khác nhau phản ánh tư tưởng khác nhau. Diễn viên có phần quần chúng hơn, trong khi nghệ sĩ nghe xa cách và cô độc hơn. Huân từng bảo tôi, bất cứ thứ gì chúng ta làm trên sân khấu đều là hóa hình của sự cô độc. Thi nhân mê mẩn chữ "độc". Độc ẩm, độc chước, độc thoại, độc hành, độc tấu, độc diễn, làm gì cũng đều là làm một mình. Tôi thì không chịu nổi sự cô độc được như Huân. Xét cho cùng, tôi múa là để tìm kiếm những người giống mình.”

Nga nhìn đỉnh đầu của người thanh niên trên xe lăn không chớp mắt, cảm giác trái tim đắp nặn từ vụn cát của nàng chợt vỡ ra. Chính bản thân nàng cũng vỡ lẽ.

Thực ra, Nga không yêu bãi cát đến thế. Nàng không yêu đến thế thứ cát dính dấp vào kẽ chân, không yêu thứ cát nung chảy trong lò rồi được người ta thổi thành những bình thủy tinh bóng loáng. Đúng hơn, nàng yêu bước chân người trên cát. Bãi cát đẹp vì có dấu chân người. Nàng yêu xiết bao điệu múa trên cát của Huân ngày ấy. Mỗi khi anh di chuyển, những hạt cát lấp lánh xoay chuyển cùng bàn chân anh tuyệt diệu. Nàng yêu tất thảy những con người vẫn luôn miệt mài bước đi trên Con Đường Tơ Lụa.

Nàng không ngờ, người giống Chương nhất chẳng phải Huân mà là chính bản thân nàng. Nga sững lại trong giây lát, bối rối ngước mắt về phía sân khấu. Nàng bắt gặp một học viên mới có vóc dáng mảnh mai bước ra bục.

Giây phút thiếu nữ kia cất lên điệu múa, nàng bỗng thấy một ảo giác. Những dải cát ẩn hiện theo bước chân cô. Khi cô dẫm chân xuống đất, nàng tưởng như cát từ đó tung tóe bắn lên. Khi cô nhấc chân lên, dòng cát kia chảy xuống. Nga trân trân ngắm nhìn điệu múa thô sơ từ người con gái trông chẳng có vẻ gì là nổi bật. Điệu múa của cô gợi cho nàng cảm giác y hệt khoảnh khắc nàng từng chứng kiến Huân múa nhiều năm về trước.

Thời khắc ấy, Nga nghĩ, có lẽ nàng đã tìm thấy một bông hoa trên đá.

“Học viên này không ổn.” Một giảng viên lên tiếng: “Có lẽ nên loại em ấy.”

Nga thấy chiếc xe lăn của Chương tự chuyển động. Chiếc xe lăn của Chương tự chuyển động. Nàng nhìn anh tự đẩy xe lăn đến gần sân khấu, lên tiếng trước vị giám khảo kia.

“Em ấy rất có tiềm năng.”

Giảng viên ngạc nhiên nhìn anh, chốc sau lắc đầu: "Tôi thấy cô bé ấy không có kỹ thuật cơ bản, hẳn là chưa từng học bài bản từ nhỏ. Khung xương của cô bé lại được định hình rồi, trong tương lai khó phát triển thêm lắm."

Nga lại không nghĩ vậy. Thiếu nữ đó chắc chắn là một bông hoa trên đá. Điệu múa của cô ấy khiến nàng cảm nhận được một loại khát khao đến tuyệt vọng. Nàng biết, cô ấy là kiểu người có thể hy sinh mọi thứ, kể cả bản thân, để được đi trên bãi cát kia. Dường như Chương cũng cùng ý nghĩ với nàng. Anh thuyết phục những giảng viên khác cả một buổi chiều, sau đó còn gọi thiếu nữ ấy lại, hỏi chuyện cô.

"Em tên gì?"

Thiếu nữ rụt rè đáp: "Em tên là Tú ạ."

"Thầy là giáo viên trong trường, trước đây em từng học múa bài bản chưa?"

"Em... không có điều kiện đi học." Tú lí nhí nói: "Em chỉ... em đến đây là để chấm dứt ước mơ của mình."

Nói xong câu ấy, Tú không dám đặt mắt vào vị giáo viên mà ngẩng lên, tình cờ chạm mắt với Nga. Chỉ một ánh mắt thôi nàng liền biết, đây không phải thời điểm ước mơ của cô chấm dứt, mà chỉ là điểm mở đầu. Trong lòng nàng bỗng dâng lên một nỗi vui tưởng chừng đã héo rũ từ thời khắc Huân rời đi. Nàng không giấu sự hồ hởi, tươi cười khi đón chào Tú vào trường múa.

Sự xuất hiện của Tú sẽ lấp đầy khoảng trống Huân để lại. Nàng tin rằng bản thân đã tìm thấy một ngọn lửa mới giúp nàng tiếp tục cất bước trong những chuỗi ngày mỏi mệt, chán chường trên bãi cát.

*

Ánh sáng bàng bạc chiếu lên cơ thể bất động như tượng tạc.

Ánh đèn thu lại, chỉ còn ánh sáng vàng vọt chiếu xuống sàn gỗ. Huân bước tới, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Nga. Lần đầu tiên từ lúc tiếng nhạc ngân vang, da thịt họ tiếp xúc với nhau. Chạm tay anh qua lớp lụa mỏng của trang phục múa bó sát, Nga mỉm cười và nhắm mắt. Bầu không khí trên sân khấu lắng dần, ánh đèn hắt lên nền gỗ sáng lóa. Sàn diễn lạnh nhưng cũng thật dịu dàng. Huân làm trụ, Nga nhảy lên, bắt lấy tay anh và xoay người. Tay anh siết lấy eo nàng, đỡ nàng, quay một vòng ngược chiều kim đồng hồ rồi đẩy nàng lên không trung. Nga thuận theo thế xoay, lưng cong như cánh cung, tay xòe bung như hoa nở rồi rơi xuống ngay sau đó.

Cú tiếp đất hoàn mỹ, tay anh lại lần nữa giữ lấy tay nàng. Ý cười lấp lánh rộ trên môi nàng nhưng rồi ngay lập tức tàn phai khi anh buông tay. Huân sải một vòng cung rộng, bước rời khỏi điểm sáng.

Nga quỳ gối, một tay đưa về phía anh khuất dần trong bóng tồi rồi từ từ thu lại. Nàng bó gối, lặng lẽ ôm lấy chính mình.

*

Nga với Tú nhanh chóng trở nên thân thiết. Nghỉ hè, Nga dẫn Tú về quê chơi, dẫn cô đến bãi sao gần nhà mà nàng tự hỏi không biết Huân có từng dẫn Chương đến đây hay không. Năm ấy họ đều là những thanh nữ phơi phới xuân thì. Tú cùng Nga dạo bước trên dải cát trắng phau, nhưng đôi mắt cô không nhìn xuống lớp cát như Nga. Cô hướng mắt ra biển, thầm thì.

"Đây là lần đầu tiên mình thấy biển."

"Trước kia cậu ở đâu?" Nga hỏi.

"Một chỗ hoang vắng, ít dân cư lắm." Tú trầm trồ: “Nơi cậu sống tốt thật, vừa có cát vừa có biển. Chỗ mình không có biển, hạn hán quanh năm, cháy rừng quanh năm, thiếu nước quanh năm. Mình thực sự muốn một lần được trông thấy biển.”

Nghe câu chuyện Tú kể, Nga dần hiểu, niềm khao khát và tuyệt vọng trong những điệu múa của cô bắt nguồn từ một tuổi thơ thiếu thốn. Cuộc sống khó khăn buộc những người dân ở đó phải thích nghi như loài xương rồng sa mạc, trở nên mạnh mẽ và gai góc bên ngoài và tích trữ nguồn nước bên trong để sống sót. Tú chính là bông hoa xương rồng rực rỡ.

“Cậu giống biển lắm đó Nga.”

“So sánh kỳ cục vậy.” Nga bật cười, chỉ lên trời: “Còn cậu thì giống ngôi sao á! Tú chính là ngôi sao mà.”

Tú ngước nhìn theo hướng tay cô, thấy dải sao lấp lánh trên thềm trời thênh thênh.

“Ước gì những điều cậu nói có thể trở thành sự thật.”

Có Tú, bước đường của nàng không còn cô độc nữa. Họ đã bên nhau qua nhiều mùa tập luyện, chia nhau từng lần bàn chân đau nhức, từng phút vỡ òa trên sân khấu. Có những đêm, Nga nhớ lại những bước chân họ lẫn vào nhau trên bãi cát, trăng thanh vành vạnh chiếu lên hai chiếc bóng của họ và mỉm cười. Nếu Tú không xuất hiện, nàng chẳng rõ có thể khỏa lấp nỗi trống trải trong lòng bằng cách nào kia nữa.

Thế nhưng, giống như thời gian chầm chậm chảy trôi, thanh xuân của họ cũng không dừng lại mãi. Nga và Tú bắt đầu có những lối đi riêng. Trong khi Nga chọn du học trao đổi với trường múa thì Tú ở lại trong nước, biểu diễn trong những đoàn múa chỉ được thuê vào những mùa lễ hội. Thi thoảng, Nga gửi những thước phim của những nghệ sĩ múa xuất chúng mà nàng bắt gặp xứ người, phải rất lâu sau Tú mới hồi âm

Những cuộc trò chuyện ngắt quãng dần, Nga mơ hồ cảm giác được sự lạnh lùng của khoảng cách và thời gian. Dù vậy, trong nàng vẫn nuôi niềm hy vọng. Tú là loài hoa sinh trưởng ở nơi khắc nghiệt nhất. Nàng không tin cô sẽ bị cái nắng trên sa mạc kia quật ngã.

Mùa xuân năm ấy, Nga về nước và đi tìm Tú. Khi gặp lại cô vừa biểu diễn xong, nàng cảm giác bản thân như sống lại những thời khắc năm xưa. Điệu múa của Tú vẫn tràn trề nhựa sống và hừng hực một ngọn lửa tưởng như không bao giờ dập tắt. Nhưng đêm về, khi họ ngồi bên cửa sông ngắm mặt nước lững lờ trôi sau lễ hội pháo hoa, Tú chợt thông báo với nàng.

"Mình sắp kết hôn rồi."

Nga sững lại một nhịp, kinh ngạc nhìn cô. Thời khắc ấy, nàng bỗng như thấy lại bóng dáng của Huân nhiều năm trước khi anh rời đi. Tú không nhìn nàng. Cô trông ra những dải đèn loang loáng chiếu xuống mặt sông. Ánh đèn như những con đom đóm khổng lồ lóe lên một chút hy vọng trong đêm tối rồi từ từ chìm nghỉm nơi đáy nước.

"Mình từng nghĩ, chỉ cần cố gắng là có thể theo đuổi những gì mình muốn.” Tú bộc bạch: “Trong suốt những năm tháng ấy, mình lấy cậu làm mục tiêu, hy vọng sẽ có ngày tỏa sáng như cậu. Ngay cả khi cậu đi rồi, mình vẫn giữ một kỳ vọng nho nhỏ là chỉ cần mình tiếp tục, mọi chuyện sẽ tốt thôi. Khi ấy mình ngây thơ quá."

Tú bảo, Nga thật giống biển. Cô đã luôn nghĩ vậy kể từ lần đầu ghé thăm bãi biển chỗ Nga. Đại dương bao bọc quanh Trái Đất này. Nga có thể đi muôn nơi, gặp những nghệ sĩ múa tài ba trên khắp các châu lục và không ngừng trau dồi kỹ năng của nàng. Tú thì không thể. Đôi chân cô gắn chặt với mảnh đất này, chẳng xê dịch đâu được.

“Từ đầu, xuất phát điểm giữa và cậu đã không ngang bằng và cậu chỉ ngày càng xa vời mình hơn." Tú ngước nhìn trời sao, thở dài. "Cậu có thể cảm thấy mình đã bị thực tại đánh gục, còn mình chỉ đang tìm cách thỏa hiệp với nó. Cha mình ốm nặng quá, mình cần tiền. Công việc biểu diễn lẻ tẻ của mình lại không đủ tiền chạy chữa cho ông nên… mình cần khoản hồi môn nhà chồng.”

Nga lặng nghe người nọ giãi bày, hồi lâu mới nói:

“Kết hôn rồi, cậu sẽ nghỉ múa.”

“Ừ, nhà chồng muốn mình sinh con càng sớm càng tốt.”

Khi một diễn viên múa sinh con, sự nghiệp của cô ấy cũng coi như chấm dứt. Nga đã trông thấy kết cục nghiệt ngã của con đường ấy.

“Thầy Chương thì sao?” Nga chợt hỏi. Hồi còn ở trường múa, Nga đã mơ hồ cảm thấy giữa Chương và Tú tồn tại một thứ tình cảm đậm sâu. Chương dìu dắt Tú suốt những năm tháng ấy chỉ để thấy cô rơi vào bước đường này ư?

“Thầy mất rồi.” Tú bình thản nói: “Năm ngoái bệnh của thầy trở nặng, chỉ gắng gượng thêm được một thời gian rồi qua đời. Mình tưởng cậu đã biết.”

Sau hôm ấy, Nga trở lại bãi sao, nhìn sóng biển tấp vào bờ cát trắng phau. Trên trời là trời sao, phía sông nước là sông sao và dưới chân nàng là bãi cao trần thế. Nga nhìn xuống chân mình. Nơi nàng đứng là dấu tích của hằng hà sa số những mảnh sao rơi xuống trần, là mồ chôn những dấu chân ước nguyện. Những đóa hoa nở rồi tàn trên sa mạc, chỉ có đá còn trơ mãi với thời gian. Nàng cứ tiếp tục bước về phía trước, bước hoài, bước mãi, ngoảnh lại chẳng thấy một ai.

Đến đến đi đi, bao lớp người. Bao nhiêu ngôi sao đã sa xuống, bao nhiêu ánh sao đã lụi tàn. Vậy tại sao, tại sao chỉ riêng nàng vẫn kẹt lại bãi sao năm ấy?

*

m nhạc chuyển sang những nhịp trống chậm rãi. Nga một mình bước ra giữa sân khấu, lẻ loi dưới ánh đèn. Nàng vươn tay, uyển chuyển cong mình. Cánh tay đưa lên cao rồi hạ xuống, nàng hất chân, chuyển tiếp một vòng xoay rộng. Ánh sáng theo đó mà lan ra, trải thành một đóa hoa năm cánh trên sàn diễn.

Huân xuất hiện trở lại từ cánh gà. Lần này, anh không vội bước vào nhịp mà đứng lặng đó, đợi Nga tiến lại gần. Hai cánh tay vươn ra, chạm vào nhau, mở thành một khung hình như bông hoa đang nở. Nga xoay chậm trong vòng tay anh rồi được nâng bổng lên không trung, đôi chân rời khỏi mặt đất trong ba nhịp. Họ cùng nhau thực hiện một đoạn múa đôi cuối cùng, ngắn ngủi mà trọn vẹn. Nga thả hồn vào ba phút ba mươi giây ngắn ngủi, như một đóa hoa giữa hoang mạc, nở, rồi tàn.

Tiếng đàn đá bặt tăm, điệu nhạc lắng hẳn. Huân nhẹ nhàng đặt Nga trở lại mặt sàn. Nàng đứng thẳng người, bất động, ánh đèn từ phía dưới hắt lên dáng hình thinh lặng.

Huân lùi bước, rời khỏi ánh sáng, để lại Nga một mình giữa sân khấu trống trải. Nàng đứng đó, đầu ngẩng cao, ánh nhìn hướng lên phía trần sân khấu loáng thoáng ánh sao.

Từ đó đến khi tiếng vỗ tay kết thúc, anh không còn chạm vào nàng thêm lần nào nữa.

Nga theo bước anh vào trong cánh gà. Nhịp tim đập rộn trong lồng ngực nàng vẫn chưa lắng. Bước xuống những bậc thang, nàng chợt ngoảnh lại, ngắm dải đèn chiếu qua khe vào bên trong cánh gà.

“Hôm trước, bác cả hỏi có phải em và anh thích nhau không.” Nàng chợt lên tiếng: “Anh biết em đã đáp thế nào không?”

Bước chân của Huân ngừng lại. Anh hướng mắt về phía nàng.

“Em nói rằng, phải, đúng là con yêu anh ấy.” Nga mỉm cười: “Nhưng không phải kiểu yêu mà muốn kết hôn, sinh con đẻ cái cùng anh ấy. Không phải kiểu yêu đó đâu bác à. Anh ấy là hóa thân của một loại tình yêu đã dẫn lối cho con. Em bảo, bác chỉ cần xem màn biểu diễn của chúng ta là sẽ hiểu được niềm yêu của chúng ta.”

Ánh đèn xung quanh viền bàn sáng như sao, hắt những ánh sao lấp lánh lên làn da và khóe mắt nàng. Chúng chính là ánh sao mà nàng trông thấy ở bãi sao ngày ấy. Nga bỗng nghĩ, nàng có thể sống mãi mỗi lần cất bước lên bục đài kia.

Huân yên lặng. Ánh sáng chỉ lan được tới sau lưng nàng, không tới được chỗ Huân. Dường như, trong khoảnh khắc nào đó, Nga đã thấy anh mỉm cười.

"Thế gian này cần người như em." Thanh âm của anh từ tốn vang lên trong bóng tối: "Và cũng cần những người như Chương, như Tú. Trên bãi cát không chỉ có mỗi một con đường.”

Anh quay lưng, để lại một câu cuối cùng trước khi cất bước.

"Và thế gian này cũng cần những người như tôi."

Nhìn theo bóng lưng Huân, Nga chợt nhận ra sự vị kỷ của anh. Sự vị kỷ Huân vĩnh viễn giấu trong bãi sao ngày ấy cùng với điệu múa trác tuyệt. Anh nói, phải có những người như anh mới có những người như nàng. Anh là cát, dai dẳng và mềm mịn, uyển chuyển và tù đày; là thứ cát khởi sinh từ những tàn tích đá dưới ánh mặt trời. Anh bảo, nàng là hoa. Bông hoa đỏ thắm vươn mình giữa vùng cát mênh mông. Bông hoa ấy là lời nguyền của những tảng đá vỡ.

Giống như Nga nói dối anh về việc kết thúc sự nghiệp của mình, Huân cũng nói dối nàng về hành trình kiếm tìm bông hoa trên đá.


1

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout