Kiếm Tâm


 

 

Truyện ngắn: Kiếm Tâm

Tác giả: Chiết Tri

Núi cao vờn mây. Bóng cây lấp ló trong sương. Trên đỉnh núi cao chót vót ngỡ chạm tới sông sao, có một tòa lầu các sơn son sừng sững trải bao thỏ lặn ác tà. Cách lầu các không xa, xuôi về hướng Tây Nam có một căn nhà nhỏ náu cạnh rừng thông già, ẩn giữa khói sương bảng lảng. Đấy là nơi Kiếm Tâm rèn kiếm.

Sáng nay, Kiếm Tâm không canh lửa lò rèn nữa. Cậu thay quần áo mới, chải mái tóc đã lâu không cắt tỉa rồi búi gọn trên đỉnh đầu, sau đó ôm hộp kiếm rời đi. Đường mòn rợp bóng cây, trời giăng đầy sương giá. Kiếm Tâm ôm hộp kiếm bằng cả hai tay, thẳng lưng ngẩng đầu, bước từng bước vững chãi. Nắng sớm rẽ mây trắng chiếu lên bụi mù, hiện rõ từng vòng uốn lượn như nhắc người rằng nơi đây còn tại trần gian. Nắng cũng chen qua kẽ lá chiếu lên vành tai đỏ ửng của Kiếm Tâm, để cho cậu thở khẽ một hơi dài. Vốn quen sinh hoạt bên lò lửa nóng, cậu suýt không chịu nổi cái rét này.

Kiếm Tâm đi thẳng tới chính viện của lầu các, đẩy cửa bước vào trong. Ở nơi ấy, có một ông lão đang ngồi khoanh chân trên sàn gỗ. Ông lão tuổi ngoài bảy mươi, tóc bạc da mồi, mặc áo vải thô, dáng gầy mà quắc thước. Ông lẳng lặng nhìn Kiếm Tâm đặt hộp kiếm xuống sàn, chờ cậu vái chào xong mới hỏi:

“Con rèn xong rồi à?”

Kiếm Tâm cúi đầu, ngọng nghịu trả lời:

“Thưa thầy… Con đã rèn xong, nhưng…” Cậu chau mày, nói với thầy lại dường như tự nhủ. “Nhưng con vẫn chưa vừa lòng.”

Thầy của Kiếm Tâm im lặng nhìn đứa học trò trong giây lát, sau đó mới vươn tay mở nắp hộp kiếm. Nằm giữa lớp lót nhung mềm mại là một thanh kiếm quý, tiếc rằng nó đã gãy làm đôi.

Kiếm Tâm trộm liếc hộp kiếm rồi vội né đi, nói nhanh:

“Con muốn rèn ra một thanh bảo kiếm tuyệt thế, một thanh kiếm hoàn mỹ nhất thế gian. Nhưng, lần này con lại thất bại rồi.” Cậu uể oải lắc đầu, thất vọng thở than.“Cho nên, con lại bẻ kiếm.”

Ông lão trầm ngâm nhìn thanh kiếm gãy hồi lâu, chợt thở dài rồi đóng kín nắp hộp, sau đó trao lại cho Kiếm Tâm. Đoạn, ông mới hỏi:

“Con lên núi ở đã bao lâu?”

Kiếm Tâm ngơ ngác vuốt ve mặt nhám của hộp gỗ, không rõ vì sao thầy hỏi vậy. Tuy thế, cậu vẫn lễ phép đáp:

“Thưa thầy, con không nhớ. Có lẽ là… thật lâu, đến nỗi con quên cả thời gian.”

“Thời gian là để ghi nhớ chứ chẳng phải để lãng quên đâu, trò à.” Ông lão chậm rãi dặn dò rồi chống tay đứng dậy, từ trên cao nhìn xuống Kiếm Tâm. “Thầy cho rằng con nên xuống núi dạo chơi một vòng.”

Kiếm Tâm hốt hoảng ngước lên, lồm cồm quỳ xuống.

“Không! Thầy ơi, con xin thầy đừng đuổi con đi!” Cậu bò tới níu lấy vạt áo bạc màu của ông lão, rối rít van xin. “Con muốn ở lại nơi này để tiếp tục rèn kiếm. Con không muốn đi đâu cả! Từ nay về sau con không dám bẻ kiếm nữa. Con chừa rồi, thầy ơi!”

Ông lão vỗ nhẹ đỉnh đầu của Kiếm Tâm, ấm giọng khuyên nhủ:

“Thầy nào có đuổi con đi. Nhưng nếu cứ ở lì trên núi, con sẽ không bao giờ tìm thấy kiếm tâm của riêng con.”

Cánh cửa dày nặng của lầu son đột nhiên vang lên một tiếng trầm, tự chuyển động mở ra, để mặc gió núi lùa vào trong nhà, thổi bay vạt áo của thầy và trò.

“Mỗi thanh kiếm đều có lòng kiêu hãnh của riêng nó. Một thanh bảo kiếm tuyệt thế càng sẽ không lựa chọn ra đời dưới lưỡi búa của một thợ rèn khuyết thiếu kiếm tâm, bởi người không có kiếm tâm là không tài nào hiểu kiếm.”

Ông lão chậm rãi nâng tay. Gió nghe theo lệnh, quấn quanh Kiếm Tâm rồi cuốn cậu bay lên cao.

“Đi đi con, đi để tìm kiếm kiếm tâm của riêng con. Thầy tin con, con nhất định sẽ thành công.”

Kiếm Tâm lưu luyến vươn tay, nước mắt lưng tròng. Chưa kịp nói hết câu từ biệt, gió đã mang cậu lướt xuyên qua những tầng mây, rời xa chốn thần tiên diễm ảo. Chớp mắt, lầu son như trượt về phía chân trời, lẩn khuất sau những áng mây mông lung, lưu lại trong đáy mắt kẻ tha hương chỉ còn là một bóng hình phiếu diễu⁽¹⁾.


***


Tháng ba năm Canh Tuất, cỏ xanh mơn mởn trải mấy dặm xa. Cỏ đón sương thấm mềm đất cứng, càng gần sông hồ đất càng thêm lầy lội. Có một cậu bé độ chừng sáu, bảy tuổi đang khập khễnh băng qua thảm cỏ bạt ngàn. Cậu ôm chặt một hộp gỗ dài, ánh mắt hoang mang hướng về phương xa, tựa chú chim non lạc mất lối về nhà. Cậu bé ấy chính là Kiếm Tâm.

Kiếm Tâm đang rất đói bụng, thế nhưng cậu không có tiền để mua đồ ăn, cũng không biết phải làm thế nào để tìm kiếm thức ăn. Càng đói bụng, Kiếm Tâm càng thêm nhớ thầy.

“Thầy ơi, con đói quá.”

Cậu vừa than vừa ngồi thụp xuống, vạch cỏ tìm hái mấy nhánh non. Cỏ mùa xuân mươn mướt ngọt ngào, cậu ăn vài cọng cũng chẳng sao. Có điều hiệu quả chống đói không cao, chẳng mấy chốc, bụng của Kiếm Tâm lại xót ruột, cồn cào. Cứ thế, cậu vừa đi vừa ngắt cỏ, vài ba bước thì nhai một cọng. Chợt, ở phía trước vang lên giọng nói tò mò:

“Sao cậu không vớt cá lên ăn, hoặc trèo cây tìm trứng chim mà nướng tạm?”

Kiếm Tâm giật mình ngẩng lên, thấy một cậu bé trạc tuổi cậu đang đứng cách đó không xa. Cậu bé đã quan sát Kiếm Tâm được một lúc lâu, lúc này mới tò mò hỏi thăm:

“Trông cậu lạ lắm. Cậu từ nơi khác lánh nạn đến đây à?”

Kiếm Tâm định phủ nhận, thế nhưng cậu đột nhiên im bặt, âm thầm xem lại chính mình. Cậu bây giờ trông thật tàn tạ, đầu xù tóc rối, áo rách quần dơ, giày chỉ còn một chiếc, chiếc kia đã chìm trong bãi sình lầy. Ngoại trừ hộp kiếm đeo sau lưng, trên người cậu đã chẳng thể tìm ra món đồ có giá trị nào khác. Vừa đói vừa nghèo, Kiếm Tâm chợt nhận ra cậu chẳng khác gì người dân đi chạy nạn.

Thấy Kiếm Tâm gật đầu, đứa bé trai bèn duỗi cổ cảnh giác nhìn quanh. Sau đó, cậu ta nhảy hai ba bước đến bên cạnh Kiếm Tâm, hỏi:

“Chỉ có mình cậu đến đây thôi á?”

Kiếm Tâm lại gật đầu, cậu quả thật một thân một mình. Lúc này, cậu bé kia mới nhoẻn miệng cười:

“May quá, nếu chỉ có mình cậu thì tớ lo liệu được đấy! Mau theo tớ, tớ dắt cậu đi đơm cá. Trang của tớ ở gần đây lắm. Ở cạnh trang có một con sông, nơi đó cá tôm đầy!”

Cậu bé tóm lấy cánh tay khẳng khiu của Kiếm Tâm, kéo cậu chạy băng băng xuyên qua đồng cỏ, đi thẳng tới con sông chảy ngang qua một thôn trang nhỏ. Hai đứa trẻ chọn một vùng đất thoải, cởi giày rồi giẫm chân trần lên phù sa, để lại những dấu chân nho nhỏ in sâu trên đất bùn, hồ hởi xắn ống quần chuẩn bị bắt cá.

“Không hiểu sao dạo gần đây, có nhiều người từ nơi khác chạy nạn đến đây lắm. May là vùng này đất đai trù phú mới đủ để nuôi sống ngần ấy kẻ tha phương. Có điều, Bồ chính không dám tiếp mọi người vào trang sinh sống. Ông sợ bọn tay sai của Thái thú chú ý đến lại viện cớ xuất binh, đàn áp dân thường rồi tráo thành quân công.”

“Trang không chứa thì bọn họ đi đâu?”

“Có vài nhóm trốn vào rừng, hoặc lên núi. Có vài nhóm tiếp tục đi tìm nơi chịu cưu mang họ.” Cậu bé vừa trả lời vừa bẻ một nhánh cây, cầm đá vót nhọn một đầu rồi nhảy xuống bãi bồi, thoăn thoắt như con mèo nhỏ. Kiếm Tâm chậm chạp hơn chút, nhưng cậu không cần vót cây. Kiếm Tâm có kiếm.

“Cậu có kiếm!” Cậu bé nhìn chằm chằm kiếm của Kiếm Tâm, kinh ngạc thốt lên.

“Kiếm hỏng rồi.” Kiếm Tâm sửa cho đúng.

“Nhưng đấy vẫn là kiếm!”

Cậu bé vươn tay muốn chạm vào kiếm, lại e dè dừng lại vì sợ sẽ làm hư kiếm. Cậu ta xuýt xoa vòng quanh thanh kiếm gãy, đôi mắt đen láy chứa đầy những khát khao.

“Tớ vẫn luôn ước gì mình có một thanh kiếm. Thầy dạy võ bảo rằng phải luyện kiếm đủ mười năm thì tớ mới được phép chạm vào kiếm thật. Thế nhưng tớ chỉ vừa mới bắt đầu luyện võ vào đầu xuân năm nay.” Cậu bé đột nhiên kêu to: “Cậu hiểu không? Năm nay tớ mới bảy tuổi. Phải đến tận năm mười bảy tuổi, tớ mới có được thanh kiếm của riêng tớ. Những mười năm!”

Kiếm Tâm không hiểu lắm.

“Sao cậu không tự tìm một thanh kiếm cho mình mà phải đợi thầy cho phép?”

“Thái thú cấm dân thường tự ý mua bán và sử dụng vũ khí. Ai bị phát hiện sẽ phải chịu tội lao hình.” Cậu bé trả lời với vẻ chán ghét thoáng qua. Cậu ta cúi đầu, co chân đá nước, phụng phịu giải thích. “Chỉ có Lạc hầu, Lạc tướng mới có quyền phân phát binh khí. Tuy nhiên, vẫn bị giới hạn số lượng.” Cậu ta lại ngẩng đầu, khát khao nhìn trời, tựa như đang ước cho mình sớm ngày lớn khôn. “Mười bảy tuổi là lúc tớ trưởng thành, có thể dấn thân binh nghiệp. Khi đó, tớ sẽ có kiếm. Tớ sẽ cầm kiếm để bảo vệ gia đình, bảo vệ dân làng, bảo vệ…”

Cậu bé hơi hé môi, thì thào hai chữ:

“Đất nước.”

“Cậu nhất định sẽ có kiếm.” Kiếm Tâm nói một cách chắc chắn. Cậu thích người bạn mới này.

“Cảm ơn cậu.” Cậu bé thẹn thùng gãi đầu, cho rằng Kiếm Tâm chỉ nói lời khách sáo, nhưng điều đó không quan trọng, bởi vì cậu ta cũng thích Kiếm Tâm. Cậu ta cười nói:

“Chắc cậu đói lắm rồi nhỉ? Xem tớ trổ tài đơm cá đây!” Nói xong, cậu ta hít sâu, nhắm chuẩn một con cá to rồi găm mạnh mũi lao gỗ vào bụng nó. Kiếm Tâm vỗ tay hoan hô, cậu vui mừng vì sắp được ăn một bữa no. Lúc này, cậu bé kia mới chợt nhớ tới một điều.

“Tớ quên mất, cậu tên là gì?”

“Kiếm Tâm.” Kiếm Tâm nhìn chằm chằm con cá, đáp ngắn gọn.

“Còn tớ, tên của tớ là Lũy. Lũ Lũy!” Cậu bé mỉm cười tươi rói, để cho Kiếm Tâm một thoáng thất thần khi ngước lên. Đó là nụ cười đẹp nhất mà cậu từng nhìn thấy, sáng ngời hơn cả mặt trời của buổi trưa ngày hạ.

Trong giây phút ngắn ngủi ấy, Kiếm Tâm cảm thấy, có lẽ cậu sẽ nhớ mãi nụ cười này, khắc ghi đậm trong tim đến lúc sông cạn đá mòn, đến tận khi sao trời ngừng sáng.

Mãi mãi không quên.

___


Kiếm Tâm ở lại trang Cổ Lôi mười năm, tiếp tục nghề cũ, rèn thêm ba nghìn thanh kiếm. Lũ Lũy nay đã trưởng thành, trở thành một chàng trai cao lớn, vạm vỡ; trái lại, Kiếm Tâm vẫn cứ như xưa, giữ nguyên vóc dáng thuở lên sáu, lên bảy.

Vào một sớm đầu xuân năm Canh Tý, Kiếm Tâm dập lò, không rèn kiếm nữa. Cậu nâng hộp kiếm bằng cả hai tay, bước đi trang nghiêm như một kẻ hành hương tìm đến trước cửa nhà Lũ Lũy rồi đứng yên chờ đợi. Đúng lúc này, từ trong nhà có giọng nói dịu dàng vang lên:

“Con có nghe không? Trống đang rền vang!”

“Thưa mẹ, con đã nghe thấy tiếng trống hùng oai từ Mê Linh vọng lại.” Lũ Lũy đáp lời mẹ hỏi, giọng nói vang dội như tiếng voi gầm chốn rừng xanh.

“Con ơi, mau dẫn mọi người đi theo tiếng trống, đó là lời đất nước đang kêu gọi các con. Hai trăm năm nợ nước thù nhà, đến thời khắc này đây, chính là lúc bọn giặc phải trả!”

“Con xin nghe theo lời mẹ dạy. Mẹ ơi, lạy mẹ, con đi.”

Tiếng nói vừa dứt, cánh cửa cót két mở ra. Lũ Lũy bước ra ngoài, không ngờ lại thấy Kiếm Tâm đang đứng đợi ngay trước cửa nhà. Kiếm Tâm nhìn thẳng vào bên trong, khẽ khàng chớp mắt. Nương Tứ đã mất được bốn năm, cậu nhớ bà da diết. Cậu muốn gặp bà thêm một lần cuối.

Giữa gian nhà gỗ đơn sơ, có một người phụ nữ đoan trang ngồi ngay ngắn trên ghế, chăm chút từng mũi kim. Mặt bà tròn phúc hậu như trăng. Bà cười hiền, ấm áp tựa nắng. Khi ánh ban mai xuyên qua cửa chính chiếu vào trong nhà, bóng bà mờ ảo dần rồi tan biến thành làn khói mảnh như tơ, chỉ còn lại tấm lòng son mãi lắng lo về vận mệnh đất nước, và lòng son ấy nay đã được trao lại cho con trai của bà: Lũ Lũy.

Kiếm Tâm lưu luyến rời mắt, thôi tìm kiếm bóng dáng Nương Tứ. Cậu ngẩng đầu nhìn Lũ Lũy, mỉm cười chào người bạn thân từ thuở ấu thơ. Lũ Lũy giờ đây đã lớn khôn, trở thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú nhất vùng. Người có sức mạnh to lớn và tài trí giỏi giang như vậy, một thanh kiếm tầm thường làm sao xứng với chàng. Đắn đo mười năm, cuối cùng, Kiếm Tâm quyết định rèn lại thanh kiếm mà cậu từng bẻ gãy.

“Tớ đã hứa sẽ tặng cậu một thanh bảo kiếm.” Tuy kiếm này chưa thể gọi là tuyệt thế, thậm chí còn có một vết hàn tạm bợ, nhưng đây chắc chắn là thanh kiếm tốt nhất vùng. Kiếm Tâm tuyệt đối tự tin về tài nghệ rèn kiếm của mình. Quả nhiên, Lũ Lũy vui mừng khôn xiết. Chàng trai trẻ dường như nghe thấy có một giọng nói thúc giục chàng mau cầm lấy thanh kiếm kia. Chàng sải mấy bước dài, vội vàng vươn tay nhận lấy hộp kiếm.

“Cậu thành công rồi này.” Lũ Lũy thì thào, lo sợ lớn tiếng sẽ làm thanh kiếm biến mất. Chàng run rẩy mở nắp hộp, say mê nhìn ngắm thanh bảo kiếm chàng hằng ao ước bấy lâu. Lũ Lũy biết Kiếm Tâm có một thanh kiếm quý. Chàng từng tiếc nuối khôn nguôi bởi vì kiếm đã gãy, thật không ngờ sẽ có một ngày Kiếm Tâm rèn lại nó, còn tặng cho chàng.

“Không.” Kiếm Tâm lắc đầu, nhìn Lũ Lũy bằng đôi mắt trong veo. “Tớ thất bại rồi. Lò ở nơi đây sơ sài quá, lửa không đủ nóng để nung chảy thanh kiếm này.”

Lũ Lũy hoang mang nhấc thanh bảo kiếm ra khỏi hộp, dựng mũi kiếm hướng thẳng lên trời. Dưới bầu trời trong xanh, lưỡi kiếm đón nắng ban mai lấp loáng hàn quang. Lũ Lũy nhẹ nhàng xoay kiếm, nhìn ngắm bóng mình phản chiếu trên đó, chợt chàng nhìn thấy chính giữa thanh kiếm có một khe hở rất nhỏ. Chàng nhận ra đấy là vết đứt gãy vốn có của thanh kiếm.

“Vì sao…”

Lũ Lũy chưa kịp nói hết câu, Kiếm Tâm đã biến mất. Cùng lúc đó, thanh kiếm khẽ rung lên. Hai đoạn kiếm gãy tự ghép lại, ngân lên một tiếng rất trong. Lũ Lũy giật mình nhìn một vòng xung quanh, rồi chàng nâng thanh kiếm lên ngang tầm mắt, bàng hoàng khẽ gọi:

“Kiếm Tâm?”

Thanh kiếm giờ đây hoàn hảo như mới, chỉ khi soi kỹ mới có thể nhìn thấy vết xước mờ nằm vắt ngang thân.

Lũ Lũy nhíu mày, lại hỏi:

“Kiếm Tâm?”

Không một lời đáp lại, song Lũ Lũy bỗng thấy lòng yên ổn. Chàng cảm thấy dường như chàng có thể trò chuyện với kiếm, không phải bằng tiếng nói mà thông qua ý niệm, vọng đến từ tận sâu trong tâm thức. Lũ Lũy ôm kiếm, mỉm cười chân thành, bởi vì chàng biết đây là Kiếm Tâm, bạn thân của chàng.

___


Thái thú Giao Châu Tô Định tham lam, độc ác, bạo tàn hại dân. Khi ấy, tại trại Mi Dã, huyện Chu Diễn, phủ Tam Đái đạo Sơn Tây, có người con gái tự xưng cháu ngoại vua Hùng, tên Trưng Trắc. Bà cùng em gái là Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa. Hai bà truyền hịch khắp cõi Nam, hỏi ai văn võ kiêm toàn thì mời mang quân đến giúp.

Tháng Giêng năm Canh Tý, Lũ Lũy rút kiếm, thề báo quốc thù. Chàng dẫn theo ba nghìn trai tráng, tiến về Phong Châu hội quân cùng Trưng Trắc. Từ Nam Hải đến Cửu Chân, rồi Nhật Nam, lại Hợp Phố, nghĩa binh tụ hội gần sáu vạn người. Nghĩa quân tập hợp tại cửa sông Hát, làm lễ tế bái đất trời. Sau đó, họ cử binh đánh một trận lớn, khiến Tô Định đại bại, thu lấy sáu mươi lăm thành ở Lĩnh Nam.

Sau khi khôi phục giang sơn, tháng hai năm Canh Tý, Trưng Trắc lên ngôi vua. Bà phong Lũ Lũy làm Thượng tướng quân, sai chàng về lại Cổ Lôi lập đồn trấn thủ. Lũ Lũy vâng mệnh, rút quân về Cổ Lôi. Chàng chọn một vùng đất trống đưa quân vào đồn trú, sau đó chia ruộng đất cho dân nghèo sinh cơ lập nghiệp. Cậu bé năm nào hằng khát khao vung kiếm bảo vệ sơn hà nay đã toại chí lớn.

Tiếc thay, tạo hóa trêu ngươi.

Hòa bình chẳng được bao lâu, kẻ xâm lăng lại đến. Dựng nước khó, giữ nước càng khó hơn. Bởi lẽ vua là đàn bà, hội quân đã tan đi hết, kẻ ở lại chỉ còn những người thật sự trung với Trưng Vương, bao gồm Lũ Lũy. Lũ Lũy dẫn quân nghênh chiến Mã Viện mấy phen, có thắng có thua. Mãi đến trận đánh cuối cùng, bởi vì chênh lệch quân số giữa đôi bên, chàng không địch lại, bị quân giặc vây cứng tại đất Cổ Lôi.

Chàng trai trẻ năm ấy mới vừa tròn hai mốt.

Chàng anh dũng chém rơi mấy đầu tướng giặc, đến bước đường cùng vẫn quyết chí không hàng. Chàng chạy về tới đầu làng, nơi chôn rau cắt rốn. Thế nhưng giặc đuổi sát sau lưng, chàng sao dám vào làng? Giặc như lang sói, hung tàn, bạo ngược. Chàng không dám đánh cược, sợ gieo họa cho làng.

Lũ Lũy xuống ngựa, vung kiếm kết liễu con chiến mã trung thành. Rồi chàng cầm lên thanh kiếm đã theo chàng chinh chiến suốt ba năm, tự cắt ngang yết hầu, tuẫn tiết. Máu nóng vẩy lên thân kiếm, tràn cả vào vết nứt mờ cạn. Thanh kiếm báu rơi theo chủ nhân đập xuống mặt đất, ngân lên hai tiếng bi thương rồi vỡ làm đôi. Kiếm gãy.

Kiếm Tâm mờ ảo như một linh hồn, không ai nhìn thấy cậu. Cậu bần thần quỳ bên xác Lũ Lũy hồi lâu, một lúc sau mới giật mình ôm xác chàng khóc rống.

Máu đỏ phún ra, lấp vào khoảng trống giữa hai vết gãy như đang cố gắng hàn gắn hai đoạn kiếm. Thế nhưng vô ích, tựa như Kiếm Tâm hằng biết rõ, thanh kiếm này chưa từng sẵn sàng. Kiếm gãy cần về lại lò nung, chìm trong ngọn lửa đủ nóng để nấu chảy thép quý. Kiếm Tâm vẫn luôn đi tìm ngọn lửa đó, và lúc này đây, cậu đã tìm thấy rồi.

Nóng hơn cả lửa, đó là máu.

Không phải lửa trắng, cũng chẳng phải lửa xanh, máu mới là ngọn lửa nóng nhất thế gian. Trời cao đoạt đi người bạn Kiếm Tâm quý trọng nhất, rồi mới bằng lòng để cho cậu nhìn thấy ngọn lửa ấy. Với mồi lửa là lòng son, chất đốt là đảm phách, Kiếm Tâm đã chứng kiến ngọn lửa âm ỉ rồi bùng lên, rền vang như sấm dậy. Máu nóng nhuộm đỏ hai đoạn kiếm báu, chậm rãi nung chảy chúng, tinh luyện lại từ đầu. Quá trình ấy sẽ kéo dài rất lâu, tuy chẳng đến mức thiên trường địa cửu, song vài trăm năm e cũng chỉ như một cái chớp mắt trong cõi hồng trần.


***


Ngày Đinh Tỵ, tháng mười một, năm Bính Tuất, đường làng vẫn còn rộn rịp rất đông. Tiểu thương tranh thủ mấy tháng cuối năm, bày hàng họp chợ, tiếng rao vang lên không ngớt. Giữa một vùng trù phú phồn hoa, thình lình xuất hiện một đứa bé trai có dung mạo bất phàm. Cậu độ mười tuổi, da trắng môi hồng, mắt rạng ngời như sao giữa thinh không, vầng trán cao thông minh sáng láng, ai nhìn vào cũng thấy thích ngay. Vậy mà cậu lại cõng một hộp gỗ lớn vượt qua đầu, từ phía sau nhìn đến hệt một cỗ quan tài. Quan tài vốn là điềm không may, dân chúng ai cũng e ngại dè chừng; lại thêm hộp gỗ quá dài, lê trên đất tạo ra một tràng âm thanh chan chát rợn người, khiến người dân ở hai bên đường phải bịt kín lỗ tai, vội vàng tránh xa. Tuy nhiên, trong đám đông vẫn có người có cái nhìn khác biệt.

“Này, cậu bé, cậu có mệt không? Cái hộp này hẳn là nặng lắm.”

Kiếm Tâm dừng bước, chậm rãi xoay đầu. So với hồi tám trăm năm trước, cậu bây giờ cao hơn, cũng gầy hơn một chút. Cậu thấy vài người chen ra từ trong đám đông, đi đầu là một người đàn ông trung niên tuổi ngoài ba mươi, phong thái nho nhã, diện mạo hiền hòa. Ông ta đi đến đâu, dân chúng xung quanh đều lễ phép cúi đầu, cung kính nhường bước đến đấy.

“Nặng lắm,” Kiếm Tâm trả lời khô khốc. Đã lâu lắm rồi, cậu không trò chuyện cùng ai, “hơn tám trăm năm chứa hết ở trong này.”

Người đàn ông nghe thế thì bật cười, ngỡ rằng cậu chỉ đang đùa cợt. Ông ta chỉ vào hộp gỗ, ân cần hỏi han:

“Nhà cậu ở đâu? Ta sai người giúp cậu đưa nó về nhà.”

Sự chân thành của người đàn ông này khiến Kiếm Tâm nhớ về Lũ Lũy. Vùng đất này vì sao tuyệt đến thế? Luôn có những con người đáng yêu đến mức kẻ lạnh lùng như kiếm cũng không nỡ chối từ.

Khi đáy mắt nóng hổi nhoáng lên một vệt nước trong, cậu vội cúi đầu, nhìn chằm chằm mặt đất.

“Nơi nào có đất của người Nam, nơi đó chính là nhà. Đất ở nơi nào thì nhà tại nơi đó.” Kiếm Tâm nghẹn ngào đáp.

Quê hương đất mẹ của Lũ Lũy cũng là nhà của cậu. Cậu muốn mang Lũ Lũy đi nhìn ngắm từ nhà trước ra tới nhà sau, lên đỉnh non cao rồi xuống thăm biển rộng, Đông Tây Nam Bắc, trọn cả bốn phương. Nhưng có lẽ người đàn ông đã hiểu lầm ý của Kiếm Tâm. Ông ta cả mừng, vỗ tay cảm thán:

“Hay! Cậu bé nói thật là hay! Đất của nước Nam kéo dài tới nơi nào thì nhà của người nước Nam cũng ở tại nơi đó. Há có lẽ đất của mình, nhà của mình lại để kẻ khác chiếm cứ!” Nói đoạn, ông ta chắp tay cáo lỗi, còn nói: “Xin thứ lỗi cho ta, nhưng ta thích cậu quá, vừa mới gặp mà cứ ngỡ đã quen. Nay ta bèn mạo muội mời cậu đến nhà ta chơi, ăn một bữa cơm canh đạm bạc, rồi nhấp vài chén rượu xoàng, có được hay không?”

Không đợi Kiếm Tâm trả lời, hai người hầu của người đàn ông đã đến đỡ hộp gỗ, ý định nâng lên. Nhưng kỳ lạ thay, ai cũng nhìn thấy Kiếm Tâm cõng hộp gỗ bước đi rất nhẹ nhàng, vậy mà hai người đàn ông trưởng thành gắng sức đẩy, nhấc thế nào cũng không thể xê dịch hộp gỗ mảy may. Kiếm Tâm tiếc nuối thở dài:

“Họ mang không đặng.”

Người đàn ông ngạc nhiên ồ lên. Rảo bước đến cạnh hộp gỗ, ông ta lệnh cho hai người hầu tránh qua một bên rồi vén tay áo muốn thử một phen.

“Tôi mạo muội, mong cậu thứ lỗi”, người đàn ông cười nói. Đoạn, ông ta dang chân đứng tấn, thủ thế vững rồi mới dang tay ôm hộp gỗ, thử nhấc lên. Cái hộp gỗ vậy mà nhẹ bẫng, ông ta nhấc nó lên cách mặt đất gần một thước mà chẳng tốn bao nhiêu sức lực. Người đàn ông hồ nghi nhìn sang hai người hầu, nói:

“Nó nhẹ hẫng như không.”

___


Lửa trong lò không phải lúc nào cũng bùng cháy mãnh liệt, nhưng mồi lửa thì muôn đời bất diệt, và nhiên liệu thì muôn đời nối tiếp, chưa từng gián đoạn.

“Xưa có nữ nhi họ Triệu muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông; có nam nhi họ Lý đuổi giặc kiến lập Vạn Xuân, nguyện trả lại cho dân muôn đời thái bình. Xưa có Triệu Việt Vương kế tục nghiệp lớn, thương thay chí lớn chưa thành đã phải trầm mình dưới đáy sông sâu; có Mai Hắc Đế thất thủ thành Vạn An, bi ai táng thân nơi rừng thẳm; còn có Bố Cái Đại Vương vây thành huyết chiến, máu nhuộm đỏ sông Nhị sông Lô, vang danh lẫy lừng chưa được bao năm, chỉ hận trời xanh ganh đố anh tài!” Người đàn ông ngẩng đầu tìm trăng, chỉ tiếc trăng tròn lẩn khuất sau mây, để khách văn chương buồn não nuột.

Ông ta tự xưng mình họ Khúc, tên là Thừa Dụ, vốn là hào trưởng trong vùng. Đêm nay, ông bỗng sinh lòng muốn bày tỏ với Kiếm Tâm rất nhiều, về nỗi hận nước non, về mối thù gia quốc, về nghìn năm gian khổ đọa đày, về thế cuộc trăm năm nay:

“Dám hỏi trời xanh, sao vắng bóng hào kiệt?”

Kiếm Tâm ngoan ngoãn ngồi im trên ghế, nhấp thử một ngụm rượu cay.

“Vì sao ngài phải cất công đi tìm hào kiệt? Ngài vốn là hào kiệt kia mà.”

Tám trăm năm hưng vong, gói gọn trong một hộp dài. Nếu ai có thể vác nó trên vai, thì kẻ đó còn phi thường hơn cả hào kiệt. Nhác thấy bóng dáng Khúc Hạo cõng hộp kiếm chạy vút qua, Kiếm Tâm bèn chân thành nói thêm:

“Con của ngài cũng là hào kiệt. Là rồng, là tiên, là chúa hiền, có tài trị quốc.”

Nghe xong lời của Kiếm Tâm, Khúc Thừa Dụ sang sảng cười to. Ông cười một hồi, lại chuyển thành khóc. Ông vùi mặt vào bàn tay to, giọng nghẹn ngào như tiếng khóc than:

“Giao Châu trải qua ba lần họa Nam Chiếu, bị giày xéo suốt ba năm, gánh chịu biết bao gian khổ lầm than. Ngày hôm qua chiếu chỉ vừa đến nơi: Đường Ý Tông nâng An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân. Tiết độ sứ không phải ai khác, là Lạc điêu Thị ngự Cao Biền. Ta nghe Cao Biền là người tài giỏi, nhưng ông ta làm người ra sao, có cách nhìn về dân chúng An Nam như thế nào, ta hoàn toàn chẳng rõ. Tương lai mờ mịt, khó dò lắm thay!”

Kiếm Tâm lầm bầm:

“Lại đổi tên nữa sao?” Cậu hỏi: “ Lần này là Tĩnh Hải quân ư?”

“Đúng vậy, là Tĩnh Hải quân đấy.” Khúc Thừa Dụ gằn giọng. “Cậu bé à, cậu biết điều này có ý nghĩa gì không?”

Ông nhìn thẳng vào đôi mắt của đứa bé trai. Đấy là một đôi mắt sáng hơn trăng, hồn nhiên hợp tuổi. Ông quý mến nét hồn nhiên ấy, nhưng ông không cho rằng hồn nhiên đồng nghĩa với vô tri.

“Bọn hắn tham dâu tham tằm, đói lúa khát lương. Bọn hắn mê trai mê ngọc, đồi mồi chu sa, ngà voi chim trĩ. Bọn hắn mặc lụa đeo vàng, mỗi ngày đốt trầm hương! Ngoạm một miếng thịt béo trong miệng, bọn hắn tuy không nhai nổi nhưng nào chịu nhả ra. Hôm nay bọn hắn ngoạm nơi này một miếng, ngày mai lại nghiến chỗ kia một lần, thế là mảnh đất này phải hứng chịu biết bao lao khổ, lầm than; bị cắn xé, tranh giành mà khó lòng phản kháng. Nhưng lần này, giặc Nam Chiếu quấy nhiễu, khiến người ngồi trên ngai vàng ở nơi xa kia không còn kiên nhẫn nữa. Hắn muốn nhét cả miếng thịt này vào miệng, nhai nát rồi nuốt hết trong một lần. Hoàng thành cách nơi này quá xa xôi, mà mảnh đất này cần có một người trực tiếp trông coi, giám sát chặt chẽ hơn. Người đó chính là Tiết độ sứ.”

Khúc Thừa Dụ phẫn uất, ngửa đầu uống cạn chung rượu gạo, khóe mắt đỏ bừng.

“Ở tại đất phiên, Tiết độ sứ chẳng khác gì ông vua không ngai. Nếu vua không có đức, thì dân chúng An Nam chỉ còn mỗi một chữ: Nguy!”

Kiếm Tâm đổi rượu thành trà. Rượu không những đắng mà còn thật cay, để bụng cậu bỏng rát, cồn cào. Cậu ngẫm nghĩ một hồi, bỗng thốt ra một câu chẳng ăn nhập gì:

“Trang của ngài thật lớn.”

Khúc Thừa Dụ đặt chung rượu xuống bàn, mỉm cười khiêm nhường:

“Đều là ân trạch của tổ tiên.”

Kiếm Tâm không nghĩ như vậy, lời khen của cậu chân thành hơn cả màu son.

“Cuộc sống của dân chúng ở nơi đây rất tốt. Bọn họ cũng rất mến trọng ngài. Sự mến trọng đó, có thể có một phần nhờ ơn tổ tiên để lại, nhưng phần nhiều vẫn là do chính phẩm giá cao quý của ngài mà kéo dài đến tận hôm nay.”

Kiếm Tâm ngừng một nhịp, gọi Khúc Hạo đến trước mặt. Cậu dựng hộp gỗ đứng thẳng trên đất, nhẹ nhàng mở nắp. Khi ấy, sân đình tối đen bỗng bừng sáng như ban ngày, như thể có ai đó đã giấu hết ánh trăng vào trong hộp, chờ có người mở ra. Khúc Thừa Dụ giật mình đứng bật dậy, trừng mắt nhìn vật ở bên trong. Khúc Hạo đứng cạnh cha, đôi mắt tròn xoe ánh lên sự khát khao ái mộ.

“Đây là một thanh kiếm đang được rèn dang dở.”

Thép đã đỏ, chỉ còn chờ các tay thợ tới gấp và đập. Đó là một quá trình gian khổ bên cạnh lò lửa, yêu cầu người thợ có đủ sức lực lẫn tài hoa, cần cả sự bền gan vững chí, quyết tiến không lùi.

Kiếm Tâm đứng thẳng bên cạnh hộp kiếm, trang trọng đưa ra lời đề nghị:

“Trang của ngài rất lớn, đất đai màu mỡ, ruộng lúa phì nhiêu. Người sống ở đây cũng nhiều nhưng chưa đông đúc. Ngài có ý định mở rộng thêm không?” Bản thân có tướng mạnh, binh hùng, có tiền tài, lương thực, thì sau này muốn làm gì cũng dễ dàng. Nếu ngày sau Tiết độ sứ có lỡ làm chuyện xằng bậy, vậy thì Khúc công cứ dẫn binh đến tìm, gặp mặt thương lượng một phen.

“Ví như xây một lò rèn lớn trong trang chẳng hạn, ngài nghĩ sao về chuyện này?” Rồi khi lửa bùng, khói cuộn, thiên hạ sẽ biết nơi đây có một thanh kiếm báu đang thành hình.

Nếu Lũ Lũy đã trao mồi lửa đầu tiên giúp Kiếm Tâm rèn thép quý, vậy thì nhát búa thứ nhất cũng nên từ người con của mảnh đất này nện xuống. Cậu đã đi tìm người con ấy rất lâu, lên rừng xuống biển, qua không biết bao nhiêu năm tháng. Có những người đã từng xuất hiện như sao sa, nhưng cậu chưa kịp tìm đến nơi, họ đã vội vụt tắt rồi rơi khỏi tinh hà. May sao, giờ đây cậu đến vừa kịp lúc, thậm chí còn tìm thấy tận hai vì sao rực rỡ.

Kiếm Tâm khẽ nghiêng đầu, bắt gặp ánh mắt của Khúc Hạo. Hai đứa trẻ tinh nghịch chớp mắt với nhau, rồi nhoẻn miệng cười tươi rói.

____


Cao Biền nhậm chức.

“Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mọi người đều trễ biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm xong việc của nhà vua mà thôi.” ⁽²⁾

Đối với dân, Biền xem như quan tốt, đáng tiếc y là quan viên nhà Đường. Ở chưa tròn mười năm, vua điều Biền đi. Năm Ất Mùi 875, cháu của Biền là Cao Tầm lên thay. Sau Tầm, Tĩnh Hải quân trải qua Tăng Cổn tự ý bỏ rơi nhiệm vụ mà đi, lại đến Chu Toàn Dục ngu đần chất phác, vô năng bất tài. Mãi đến năm Ất Sửu 905, nơi này mới đón Độc Cô Tổn về làm Tiết độ sứ thứ năm. Có điều con tạo xoay vần, thế sự biến đổi khôn lường. Độc Cô Tổn đến Giao Châu vào mùa xuân, chưa kịp sang hè đã bị điều về Đệ Châu.

“Quan Thứ sử lần này trở về, sống chết khó mà nói. Nhà Đường đã không còn ai gánh vác được giang sơn, loạn thế rồi tất hiện, ta phải làm sao để bảo vệ con dân?”

Khúc Thừa Dụ nay đã rất già. Nhân sinh thất thập cổ lai hy, như Khúc Thừa Dụ ở tuổi này mà vẫn còn minh mẫn quả là hiếm thấy. Nhưng một cụ già hơn bảy mươi sầu lo thế cục như thế này, ngày ăn uống không ngon, đêm ngủ giấc không tròn; ấy nên xem là chuyện may hay chẳng may?

“Thưa bố, ngài có gia tướng toàn tài, đất đai màu mỡ. Ngài còn có binh hùng tướng mạnh, lẫn uy vọng, lòng dân. Ngài sao còn lo lắng?”

Khúc Thừa Dụ nhắm mắt than rằng:

“Phàm là việc binh đao, một khi động mà làm không khéo ắt sẽ có vô số cảnh đầu rơi, máu đổ. Nếu mọi người đã tin tưởng mà đến cậy nhờ ta, ta không dốc sức bảo vệ họ thì thôi, làm sao nỡ nhẫn tâm đẩy họ ra chiến trường?”

Khúc Công khoan hậu, trước sau suy nghĩ cho dân. Khúc Hạo đương tuổi trung niên, hùng tâm chưa mòn, tráng chí chưa cạn, suy nghĩ linh hoạt và cấp tiến hơn bố nhiều.

“Con xem dã tâm của Lương vương không nhỏ, nay y lập một đứa bé lên làm vua, phải chăng có bóng dáng của người xưa?” Khúc Hạo tiến đến gần Khúc Thừa Dụ, thì thầm mấy chữ: “Hiệp Thiên tử dĩ lệnh chư hầu.”⁽³⁾

Khúc Thừa Dụ vuốt râu trầm ngâm, không phủ định cũng chẳng gật đầu.

“Ý con thế nào?”

“Lương vương bễ nghễ thần khi⁽⁴⁾, nhưng dẫu mưu tính sâu xa thế nào thì hiện tại, y vẫn còn là bề tôi của vua, thứ y yêu cầu là chính danh và chính thống. Dựa vào hai điều ấy, chỉ cần khéo léo một chút, con nghĩ chúng ta có thể tranh thủ thời cơ, giành lấy mấy năm bình an cho dân tộc.”

Khúc Thừa Dụ ngừng vuốt râu, ánh mắt sáng bừng, mừng rỡ khôn xiết.

“Thỉnh mệnh Thiên tử!”

“Thưa bố, ý con đúng là như thế! Thành Đại La hiện giờ vắng chủ, mà lòng dân đã ở về phía ta, chi bằng bố con ta thừa cơ dẫn quân vào thành! Sau đó bố hãy gửi biểu xin mệnh nhà Đường tới Trường An. Lương vương vì cầu quan lại ủng hộ, hẳn sẽ thuận lòng không bác bỏ thỉnh cầu của chúng ta. Chỉ cần có sắc phong của Đường Ai Đế, ngài sẽ là quan viên của nhà Đường, có thể hợp pháp nắm lấy chức vụ Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân, danh chính ngôn thuận. Dẫu sau này nhà Đường có tan, quốc gia có loạn, chư hầu cát cứ các phương cũng ngại dấy binh tấn công Tĩnh Hải quân, dân chúng cũng được hưởng thêm vài năm thái bình.”

Khúc Thừa Dụ siết chặt tay con trai, mừng đến rơi lệ.

“Vài năm là đủ! Chỉ cần có hy vọng, ấy đã đủ rồi! Còn chuyện dài lâu hơn nữa, ta không dám mong cầu xa xôi, bố con ta chỉ biết dốc toàn tâm toàn lực!”

“Vâng, con xin ghi nhớ lời bố dạy.”

Hôm ấy, trang Cúc Bồ sôi động khác hẳn thường ngày, người ra kẻ vào như nước, ngựa xe lui tới như nêm. Ở tại một góc vắng của thôn trang, Kiếm Tâm đứng trước cái đe lớn đen tuyền, đôi mắt sáng ngời rực rỡ. Cậu phấn khởi thì thào:

“Nhát búa đầu tiên sắp nện xuống rồi. Đập, gấp, rồi đập, lại gấp, lại đập...”

Âm thanh nhỏ dần rồi im hẳn, nơi đây chỉ còn lại tiếng lửa cháy bập bùng bên trong nhà và tiếng quân lính khuân đồ ngoài sân. Không khí căng thẳng trầm trọng, lại len lỏi chút nô nức mong chờ. Cuối cùng, những nôn nao ấy hóa thành tiếng hoan hô vang trời khi cha con họ Khúc dẫn quân tiến vào thành Đại La. Kể từ đây, sông núi nước Nam lại về với người nước Nam sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc.

Ngày hôm ấy, Kiếm Tâm cõng hộp kiếm đứng trên tường thành, thắp một nén nhang cúng tế Lũ Lũy. Đến tháng bảy năm sau, Kiếm Tâm lại cõng hộp kiếm leo lên tường thành đốt nén nhang thứ hai, khóc Khúc công. Mười năm thấm thoắt trôi nhanh, sao cha ánh sáng chưa tàn, sao con đã vội hầu trời cùng cha. Kiếm Tâm bước lên tường thành Đại La lần thứ ba, thắp nén nhang cuối cùng tiễn đưa Khúc Hạo.

“Sáu tuổi, Hạo đã là anh kiệt. Năm mươi bảy tuổi, Hạo vẫn là anh kiệt.”

Kiếm Tâm trút ngược bầu rượu, vảy nước vẽ một đường dài cắt ngang mặt đá. Xong xuôi, cậu buông tay để bầu rượu rơi xuống đất vỡ toang, chẳng hề bận tâm.

Anh hùng chẳng ngại gian lao, chỉ sầu vì trời cao không thương tiếc.

Đau sao chí lớn chưa thành, tóc xanh đã vội bạc màu thời gian.

Nhang chưa kịp tàn, trời bỗng nổi mưa phùn. Kiếm Tâm lặng lẽ khoác áo tơi, đội mưa rời khỏi thành Đại La. Gió bấc mỗi năm đều về, chỉ có tri âm không thể nào gặp lại.

“Muốn hỏi ông trời, vì sao anh hùng thường vắn số?”

Lệ nóng thấm đẫm vạt áo thô, lữ khách rời đi chẳng quay đầu.


***


Từ thời Ngô, Đinh, Lý, Trần giành năm trăm năm độc lập, đến lúc họ Hồ gây họa, để đất nước rơi vào tay giặc Minh, hoa đã nở rồi tàn mấy bận, trăng khi tròn khi khuyết mấy hồi. Vui buồn hợp tan luân chuyển, sinh ly tử biệt xoay vòng, biển cả rốt cuộc hóa thành một bãi ruộng dâu. Đáng tiếc mặt trời chưa kịp mọc, chỉ khổ phận dân đen phải chết ngạt dưới bùn.


“Hôm nay trời nắng gắt thế?”

Huệ bước ra khỏi quán rượu, đóng cửa cài then. Buổi sáng, quán rượu không mở cửa buôn bán. Mà cho dù có bán thì cả cái tổng Cao Cương này còn có ai rỗi rãi đến nghe hát uống rượu nữa đâu. Phải đến cuối ngày, khi quân Minh rảnh rỗi, quán của nàng mới ồn ào đông vui. Có điều với Huệ, bọn chúng là giặc chứ chẳng phải đồng bào.

Nàng xách rổ bước xuống đường, quần lụa thướt tha, tô thêm chút hồng lên đường làng xám xịt. Sáng là lúc họp chợ. Chợ nay vẫn như chợ xưa, lác đác vài người đàn bà và trẻ con. Nếu lỡ gặp đàn ông, thì đấy cũng là một cụ già lọm khọm lưng cong. Trai tráng trong vùng đều đã bị bắt đi làm lao dịch, làm tôi tớ hết cả rồi.

Huệ vén gọn một lọn tóc, cười mỉa mai:

“Chợ không thay đổi cửa hàng, nhân dân được yên chỗ ở.”

Nàng chỉ sang phải:

“Quét sạch quái gở hung dữ.”⁽⁵⁾

Nàng chỉ sang trái:

“Phát quang hoang dại nhơ bẩn.”⁽⁶⁾

Nói xong, nàng cười duyên thành tiếng:

“Nào, anh chị em ơi, mời mọi người ra đây cùng vui hưởng cuộc thịnh trị của đời thái bình!”⁽⁷⁾

Rồi nàng mua một bó rau muống, nửa cân thịt lợn, bỏ vào trong rổ, đoạn, đi thẳng tới tiệm rèn. Tiệm rèn nằm ở cuối thôn, cách xa chợ, nép dưới tán hoàng lan già. Từ ngày giặc bắt bác thợ cả đi Yên Kinh, lò rèn đã lâu không cháy, mãi cho đến tháng trước mới có một cậu thiếu niên dọn vào.

Tết năm nay, đương lúc cùng các chị em đi hành hương lễ Phật, Huệ tình cờ cứu một thiếu niên nằm ngất trên một hộp gỗ lớn, trôi nổi ở trên sông. Các nàng không vớt nổi hộp gỗ, đành để mặc nó trôi đi, chỉ đưa thiếu niên về quán rượu. Cậu thiếu niên đó tự xưng là Tâm, dáng vẻ không giống con nhà tầm thường. Tâm ở với các nàng vài tháng, rồi mới xin dời sang tiệm rèn này.

Bên trong tiệm rèn chật hẹp, trần thấp gần như chạm tới đỉnh đầu, có một người thiếu niên khoảng chừng mười hai tuổi đang chuẩn bị nhúng thỏi sắt nóng vào lu nước lạnh. Khi tiếng xèo vang lên cùng khói trắng phun ra ngợp khắp nhà, Huệ dừng lại một thoáng. Đợi cho sương khói tan hết, nàng mới bước vào.

“Em đang rèn cái gì vậy Tâm?”

Cái bàn duy nhất trong nhà chất kín đồ bừa bộn, Huệ phải dọn bớt mới có khoảng trống để đặt rổ lên.

“Em đang rèn dao mới cho các chị. Dao thái thịt trong bếp đều mòn hết cả lưỡi rồi.”

Huệ nghe thế thì đôi mắt sáng rực rỡ, nàng vội hỏi:

“Thế dao này có giết nổi lợn không?”

Tâm lắc đầu:

“Dao này không giết nổi lợn đâu, chỉ có thể dùng để thái thịt thôi.”

Thấy Huệ thất vọng gục đầu, Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp:

“Với lại, lợn mà thấy các chị cầm dao sắc là chúng sẽ chạy, hoặc sẽ cắn ngược lại ngay.”

Huệ liếc nhìn Tâm, cảm thấy cậu nói cũng có lý. Nàng ngẩng đầu, yêu kiều sửa sang mái tóc, đi đến cạnh Tâm rồi lén lút nhét vào tay cậu một bọc nhỏ. Nàng thì thào, giọng nhẹ như khi cánh hoa đào chạm đất:

“Muối.”

Nhà Minh quản muối của dân chúng rất chặt, ngay cả nước mắm giờ cũng thành thứ xa xỉ trong tầng lớp bình dân. Cực khổ lắm, Huệ mới dành dụm ra được từng ấy muối mang sang cho Tâm. Nàng không để cậu kịp chối từ, nói lảng sang chuyện khác:

“Hôm trước lý trưởng bị quật roi, hôm nay y vẫn còn nằm rên trên giường, chưa gượng dậy nổi.”

“Phạt nặng lắm à chị?” Hôm đó Tâm không có ra xem.

“Đánh thừa sống thiếu chết.” Huệ đá chân, rồi kéo một cái ghế cũ ra ngồi. “Vô vọng thôi. Trai tráng đi sạch cả rồi, vùng này chỉ còn đàn bà, người già và trẻ em. Lý trưởng biết phải chọn ai đi lao dịch bây giờ?”

Huệ ngửa đầu nhìn lên trần. Mái nhà có một lỗ hổng nhỏ, nắng len qua chiếu thành một cột sáng nghiêng nghiêng. Trong cột sáng, nàng thấy rõ từng hạt bụi mịn. Huệ cảm thấy phận mình như hạt bụi. Nhưng hạt bụi ấy may mắn rơi vào nơi có nắng chiếu tới, được hưởng chút ấm áp của thái dương chứ không phải tuyệt vọng nằm trên đất, để người mặc sức giẫm đạp, giày vò.

Huệ đột nhiên hỏi:

“Chị muốn có một cây trâm bạc, em rèn được không?”

“Chị thích kiểu dáng gì?”

Huệ chống tay lên bàn, năm ngón sen hồng nâng má cười duyên.

“Chị thích trâm thật sắc bén, đâm một nhát là lợn ngã ngay, còn phải đâm mấy chục con mà trâm vẫn không mòn, không gãy nữa cơ.”

Lợn có thể sợ dao mổ, nhưng nó sẽ không phòng bị món trang sức nho nhỏ của người phụ nữ đẹp.

Tâm gật đầu, tiếp tục tôi sắt. Sau khi đã rèn đập đủ, lưỡi dao này cần được tôi luyện trong dòng nước mát, nếu không, nó sẽ thật giòn và dễ gãy.

Huệ không quấy rầy Tâm. Nàng bước ra sân sau, xem đồ phơi trên sào đã khô chưa rồi rút mang vào nhà. Nàng chọn mấy tấm áo rách rồi bắc ghế ngồi trước hiên nhà, vừa vá áo vừa hong nắng. Gặp đứa trẻ con nào đi ngang, nàng lại ngoắc vào cho cái bánh, cây kẹo. Lũ trẻ rời đi với nụ cười hồn nhiên tươi rói, mà gương mặt xinh đẹp sắc sảo của nàng cũng càng thêm ấm áp, dịu dàng.

Giữa địa ngục tăm tối, Huệ thấy mình nhiều thêm chút sức sống.

Buổi trưa, trước khi rời đi, Huệ hỏi:

“Tối nay mình bắt lợn tế Thủy thần chứ?”

Tâm lắc đầu:

“Khi nào có trâm bạc thì chị hẵng bắt lợn.”

Nhỡ đâu có con lợn dám chống trả, Huệ không có vật gì phòng thân thì lại nguy. Thế là Huệ chỉ đành thất vọng xách cái rổ không mà về.

Huệ ngày ngóng, đêm trông, chờ đợi từ hôm trăng non đến lúc trăng tròn. Tối hôm rằm, nàng mãn nguyện ngồi trước gương, búi tóc cài trâm, yêu kiều duyên dáng. Thôn làng ban đêm im lìm yên ắng, chỉ có quán rượu của chị em nàng mở là chè chén thâu đêm, đàn ca tới sáng. Quân Minh nghe danh đến thăm rất nhiều, bởi nơi đây có nàng ca nhi nức tiếng cả vùng Tiên Lữ: Đào Nương Thị Huệ.

Tảng sáng hôm sau, vùng Cao Cương xuất hiện bóng dáng mấy người trai trẻ. Bọn họ nương ánh trăng mà di chuyển trong vùng lau sậy cao vượt đầu người. Tiên Lữ vốn là vùng đất trũng, nước đọng nhiều, lau sậy mọc um tùm khắp chốn, là lớp ngụy trang tốt nhất giúp nghĩa quân che mắt quân Minh. Mọi người tuy nhỏ con nhưng bước nhanh thoăn thoắt. Cứ hai người khiêng một cái túi to đi đến bờ sông, buộc thêm đá rồi thít miệng túi thêm một vòng, sau đó lấy đà quẳng túi xuống dòng nước xiết.

“Kính dâng Thủy thần!” có người nén giọng hô lên.

Mọi người cười khẽ, sau đó vòng về, tranh thủ thời gian vận chuyển thêm vài con lợn béo. Cứ thế, chừng vài đêm, sông Càn Đà lại nhận thêm vài ba xác giặc, cuốn nỗi hận nước thù nhà trôi ra tận khơi xa.

___


Người đến từ phương Bắc sợ nhất là cái thời tiết thất thường cùng với độc, xà, trùng, ngải của xứ An Nam. Ngặt nỗi, sợ gì thì gặp nấy. Đất Tiên Lữ tuy trù phú màu mỡ nhưng cũng khắc nghiệt vô cùng: gió tây, sương muối và đầy rẫy côn trùng, đặc biệt là muỗi. Để đối phó với những thứ này, quân Minh bèn may túi vải gai dầu. Đêm đến, chúng chui vào túi để ngủ, rồi nhờ một người ở bên ngoài thắt chặt miệng túi. Như vậy, chúng có thể tránh lạnh, tránh muỗi mà không sợ bị ngạt. Tuy nhiên, phải có một người canh ở ngoài, không được chui vào ngủ trong túi. Bọn lính yêu thích Huệ, giao việc thắt, mở túi cho nàng vài lần. Mỗi lần như thế, Huệ đều làm tốt. Dần dà, quân Minh tin tưởng Huệ, liền giao hẳn việc này cho nàng đào nương.

___


“Hôm nay quân Minh lại kiểm tra quân số.” Huệ chống cằm, mắt trông mong nhìn về một hướng. Nàng tựa như muốn xuyên qua vách tranh mà chứng kiến tận mắt cảnh đong binh, nhìn xem biểu cảm của gã tướng lãnh binh kia. Chắc là trông thú vị lắm.

Huệ cười khanh khách, tiếng nàng cười trong như âm thanh chuông gốm.

“Quân lính dưới trướng hụt gần phân nửa mà giờ hắn mới phát hiện, xem ra cũng là một tướng tài.”

Mấy cô gái cùng Huệ mở quán cũng mỉm cười hả dạ, sau, lại có một nàng lo lắng hỏi:

“Chị đừng coi khinh địch. Nếu quân Minh đã phát giác điều bất thường, liệu chúng ta có nên ngừng giết lợn một thời gian?”

Huệ quả quyết lắc đầu:

“Không. Quân Minh mất tích là do quỷ quái gây ra, nào có liên quan gì đến chúng ta.” Nàng cười chúm chím, “Việc ta cần làm vẫn là giết lợn dâng lên Thủy thần, cầu ngài phù hộ dân làng khỏi tà ma. Còn quỷ quái, nó chỉ sợ thần tiên chứ không sợ người. Nó còn lâu mới chịu dừng tay. Có giỏi” Huệ đãi giọng, “thì bên đấy tự gọi thần tiên của họ sang đây mà phù hộ.”

Các cô gái cười vang. Các nàng không sợ hy sinh, chỉ hận không thể ra tay giết thêm vài con lợn.

Đến đêm, quán rượu vẫn mở cửa như cũ. Tuy trong quân có kẻ mất tích khiến lòng người rối loạn, thế nhưng vẫn có mấy kẻ to gan liều rời doanh trại, đi đến quán rượu chè chén tìm vui. Huệ ôm đàn ngân câu hát, cười đến say lòng hán tử. Bọn lính nâng bát rượu to, lớn giọng kể khổ. Huệ khéo hiểu lòng người, an ủi tiếc thương. Mãi đến khi đèn dầu sắp cạn, nàng mới len lỏi giữa một đống túi to xếp la liệt trên đất, cẩn thận kiểm tra từng miệng túi.

“Đám lính này lén trốn ra ngoài, liệu có ai hay…?” Huệ vừa cột vừa thầm cân nhắc có nên mang toàn bộ bọn hắn đi tế thần hay không.

Các cô gái còn đang chờ đợi Huệ quyết định, bỗng giật mình khi bên ngoài vang lên tiếng quát tháo ồn ào cùng tiếng bước chân rầm rập. Cửa quán rượu bị đá gãy, một tốp quân Minh hung ác tràn vào nhà. Tiếp đó, chúng dạt ra hai bên, chừa một lối đi để nghênh tiếp quan trên. Tên tướng nhà Minh nghênh ngang đi vào, lính tốt vội vàng dọn ghế. Hắn bệ vệ ngồi trên ghế, không nói một lời mà chỉ phất tay. Đám lính nhận lệnh, hung ác xua đuổi, ép các cô gái dồn vào góc nhà. Sau đó, chúng chia ra hai toán: một toán mở miệng túi, đánh thức mấy kẻ đã uống say đến ngất; toán còn lại kiểm tra toàn bộ quán rượu. Một tên lính hầu phát hiện một bầu rượu còn nguyên, bèn bày lên bàn. Tướng nhà Minh không uống, cầm đao hất đổ. Hắn nhìn chằm chằm Huệ, mắt sắc như chim ưng. Chừng lâu sau, mấy kẻ dám trái quân lệnh rốt cuộc tỉnh. Bọn hắn quỳ mọp xuống đất, khóc lóc thảm thiết, dập đầu xin tha. Có kẻ nhát gan sợ chết bèn nảy ra kế ác độc, muốn đổ hết tội cho Huệ.

“Bẩm tướng quân, là ả! Chính ả con hát này ỷ vào mỹ mạo mà quyến rũ các anh em, để họ đi lầm đường lạc lối. Chúng tôi chỉ là người bị hại!”

Những người khác nghe thế cũng nhao nhao nói hùa:

“Đúng vậy, thưa tướng quân, đều là do ả! Những người anh em bị mất tích chắc chắn cũng là do ả gây ra. Mong tướng quân mau mau trị tội ả!”

Cả bọn đồng thanh hô lên:

“Thỉnh tướng quân trị tội ả!”

Đợi bọn lính nói xong, tướng nhà Minh mới quát:

“Con kia, lính của tao mất tích, có phải do mày làm không?”

Tiếng quát vừa dứt, một toán lính đồng loạt rút đao, chĩa thẳng về phía các cô gái.

Các nàng giật mình, co rụt bả vai, sợ hãi dựa sát vào nhau. Huệ tiến lên một bước chắn ở phía trước. Nàng mím môi, trái tim đập thình thịch. Nàng cảm thấy máu dường như đang sôi trào, bỏng rát cả người. Nàng hít sâu, vỗ ngực cười duyên, đáp bằng giọng mềm mại:

“Bẩm, thiếp chỉ là phận nữ nhi, bơ vơ bồ liễu một cành, tài trí đâu để nghĩ kế bày mưu, sức lực đâu để có thể hại người mà không ai hay biết. Thiếp mở quán rượu đón khách, tiếp đãi bạn bè các nơi, nhưng chỉ vì mưu sinh. Nếu hợp tâm ý thì các vị dừng chân lâu chút, mà nhỡ có không hợp nhau thì khách cũng vui vẻ ra về. Chưa từng có người bị nhốt lại nơi đây, cũng chưa hề có ai bị hại trong quán này. Mong tướng quân minh xét.”

Tướng nhà Minh không tin Huệ. Hắn cười khỉnh, nói:

“Đem ả này đi nhấn nước, xem ả có chịu khai hay không.”

Huệ không phản kháng, cũng ngăn các chị em kháng cự. Nếu giặc Minh chỉ nhằm vào mỗi mình nàng, thì nhục hình nào nàng cũng có thể chịu được. 

Đêm nay trăng non chưa kịp già, trời đen kịt hơn mọi khi. Canh bốn qua hơn một nửa, thôn xóm vang lên tiếng chó tru tréo ngắt quãng. Có dân làng nhận ra điều bất thường, nương bóng đêm lẻn đến lò rèn ở cuối thôn. Lúc Kiếm Tâm chạy đến quán rượu, Huệ đã bị quân Minh áp giải đi rồi, chỉ còn các cô gái khóc gục ở bên trong:

“Giặc bắt Huệ đi hiến tế Thủy thần rồi Tâm ơi!”

Kiếm Tâm lại chạy ra bờ sông tìm Huệ. Cũng cùng lúc ấy, vài bóng dáng bỗng xuất hiện giữa những bụi lau. Họ giẫm lên bùn, từ bốn phương tám hướng đổ về bờ sông Càn Đà.

Gió sông lặng ngắt như tờ. Cả thế gian như nín câm. Kiếm Tâm len lỏi giữa vùng lau sậy, im lặng quan sát bờ bên kia. Phía quân Minh tập hợp, đuốc lửa sáng trưng, Huệ bị trói tay, rũ rượi như đóa hoa hàm tiếu gặp phải mưa giông, xác xơ, ướt đẫm. Quân Minh đẩy nàng bước ra sông, rồi lạnh lùng xô nàng xuống nước sâu. Huệ rơi, bất lực như chim quyên gãy cánh. Sông Càn Đà nuốt lấy nàng, đồng thời dang tay đón nhận những đứa con khác lặng lẽ sà vào lòng mình rồi vỗ về, âu yếm. Quân Minh không hề hay biết, kéo quân bốc đồn rút đi nơi khác ngay trong đêm.

Lòng sông vào đêm đen như mực Tàu. Nước tuy không lạnh buốt xương nhưng nặng nề, như thể Kiếm Tâm đang bơi trong giấc mơ đặc quánh trộn mấy đời phồn hoa lẫn bi ca. Nước vuốt mặt. Nước níu tay. Nước thì thầm bằng thứ ngôn ngữ chỉ có kẻ từng trải cơn tử biệt mới hiểu, kể về một trang sử huy hoàng ẩn chứa trong từng hạt phù sa.

Khi Kiếm Tâm tìm thấy Huệ, nàng đang chìm. Váy áo nàng tỏa ra trong nước, đẹp như một đóa hoa nở rộ. Và rồi, ánh sáng đột nhiên xuất hiện. Không phải ánh sáng từ bầu trời mà là thứ ánh sáng nhè nhẹ, nhỏ bé như bụi, nhưng lấp lánh như sao. Ánh sáng ấy có ở khắp nơi, dưới sông, trên bờ, và còn ở xa hơn nữa, đến từ những gương mặt cậu thân quen. Họ đưa Huệ trồi lên mặt sông, nhẹ nhàng như nâng làn khói mỏng. Huệ được chuyền từ tay người này sang người khác, trong bóng tối u ám không trăng sao, trong sự im lặng và những ánh mắt chạm nhau, giữa tiếng hát ngân nga của loài sâu nấp trong vùng lau sậy.

Kiếm Tâm vẫn chưa trồi lên theo. Cách mặt sông, cậu thẫn thờ dõi theo những bóng sáng mờ ảo đưa Huệ đi xa dần. Cậu chợt nhận ra đó nào phải là ánh sáng của ngôi sao. Đó là ánh chớp bạc đến từ những thanh kiếm, thanh đao đã mài sắc bén mới đúng! Kiếm Tâm chợt khóc nấc lên, để rồi sông Càn Đà dịu dàng lau đi giọt nước mắt vừa chực trào ra của cậu.

Cậu biết, họ đã sẵn sàng.


***

Hừng đông, chân trời hửng sáng. Mặt trời còn giấu sau những lớp mây, chỉ có mấy vạt nắng len qua vài kẽ hở, nhuộm một vệt hồng mỏng tang lên lớp sương khói bồng bềnh trên mặt sông. Từ phía cửa Gàn, nơi sông đổ về biển lớn, một ông lão râu tóc bạc phơ đang bước thong thả giữa màn sương. Ông lão từ biển Đông ngược dòng vào Cửu An, rồi từ Cửu An đi thẳng tới Càn Đà. Mỗi khi bàn chân ông giẫm lên nước, mặt sông lại tỏa ra mấy vòng sóng gợn, lăn tăn, vui vẻ như đang chào hỏi khách tới thăm.

Đột nhiên, ông lão dừng lại, rồi ngồi xếp bằng giữa dòng. Ông hơi khom lưng, thò tay mò mẫm dưới lòng sông. Vài khắc sau, ông khẽ cười, vạch nước vớt lên một cậu thiếu niên.

“Kiếm Tâm à, con lớn mau hơn thầy nghĩ đấy.” Ông lão vuốt râu, hài lòng đánh giá.

Kiếm Tâm nằm ngửa trên mặt sông, ngơ ngác nhìn trời. Một chốc hoảng thần, cậu chợt như vừa tỉnh mộng.

“Thầy, ạ?” Cậu hỏi, giọng khàn đặc như đã lâu không nói.

Ông lão vuốt ve vầng trán cao của đứa học trò, hiền từ đáp:

“Ừ, thầy đây.” Rồi ông hỏi: “Chuyến đi thế nào? Kiếm tâm của con ra sao? Con đã rèn nên thanh bảo kiếm tuyệt thế chưa?”

Kiếm Tâm không trả lời thầy ngay. Cậu đưa mắt nhìn về chân trời ở phía Đông, nơi bình minh bắt đầu. Giữa nền trời màu đỏ hồng dịu mắt, cậu thấy được rất nhiều ánh bạc. Chúng rời đi đất, rời đi nước, lơ lửng lên cao để rồi bắt kịp ánh nắng ban mai, sau đó cùng hòa làm một, kéo nhau tiến về phía mặt trời. Kiếm Tâm chợt phát hiện một điều, rằng dẫu đêm đen có dài đến đâu, mặt trời vẫn sẽ luôn xuất hiện, và ngọn lửa Lũ Lũy trao cho cậu cũng y như thế.

Trường tồn.

Vĩnh cửu.

Kiếm Tâm đăm đăm dõi theo mặt trời đang lên cao, khe khẽ đáp:

“Thưa thầy, rồi ạ.”

Kiếm đã rời lò đến tay hoàng đế. Nó không đơn độc mà có vô số huynh đệ cạnh bên. Những thanh kiếm ấy không cần tên, bởi họ đã tự thiêu đốt mình để được sống một đời không hối tiếc. Họ tự nấu chảy mình bằng mồi lửa lòng son. Họ tự rèn đập mình bằng can trường, nghĩa dũng. Họ tự tôi luyện giữa dòng đời, sự thế nhiễu nhương. Chẳng quan tâm năm rộng tháng dài; cười xem những dâu bể, đổi thay. Bọn họ chỉ cần một cơ hội để xuất hiện trên cõi đời, đến được bên cạnh người hữu duyên. 

Cho mặc sức vẫy vùng bốn phương.

Cho thỏa chí tang bồng trời bể. 

Rồi một ngày, khi muôn kiếm tụ về một mối, chính là lúc báu vật tuyệt thế giáng sinh. Sừng sững giữa vũ trụ mênh mang, khí phách tiên rồng hóa kiếm định Càn Khôn.


___________________________________________________________

Chú thích:

(1). Phiếu diễu: xa mờ.

Mỗi ảnh mỗi hình thêm phiếu diễu

Nàng xa tôi quá nói nghe chăng?

                           Huyền ảoĐau thương (Thơ điên, 1937), Phần 1: Hương thơm

Hàn Mặc Tử

(2). Trích lời Cao Biền khi đào kênh, khai đường biển, được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư.

(3). Lợi dụng Thiên tử để sai khiến chư hầu.

(4). Bễ nghễ thần khi: ngấp nghé muốn cướp ngôi vua.

(5), (6), (7). Trích Bài chiếu của vua Minh nói về việc đã bình định được An Nam, thiết lập ba ti và các nha môn quân dân ở Giao Chỉ, được chép trong An Nam chí nguyên.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout