Truyện ngắn: Màu đất nước
Tác giả: Đặng Phúc Nhất
Hòa bình phải đổi bằng xương máu...
Khi trời chưa hé sáng, đêm vẫn lạnh buốt da, đám cỏ bên đường còn khép lá chìm sâu trong giấc mơ sương, trước mặt là con đường dài u u tối, Thắng đã mang lên vai hành lí đơn sơ, hối hả đạp xe ra bến. Tiếng dây sên dão lộp cộp va vào bánh xích không át nổi tiếng những giọt máu nóng trong tim nó đang sôi lên, sùng sục âm vang như tiếng trống trận khải hoàn từ ngàn xưa vọng về.
Vừa rẽ một khúc quanh, bất ngờ, từ nơi nơi, Thắng thấy biết bao người cũng đi như mình, không thân quen, không hẹn trước nhưng cùng về một hướng, cùng cười nói, cùng rơi nước mắt hạnh phúc, cùng hô vang: Bộ đội mình thắng rồi, biên giới yên rồi, đất nước hòa bình rồi. Thắng xúc động, mím môi chùi giọt nước mắt mặn chát còn đương lấp ló ở khóe mi, tự nói với mình: Phải. Rốt cuộc cũng yên rồi. Nó sắp được về nhà rồi.
Gió khuya xuyên qua những tán bằng lăng tím nhạt, thổi mấy sợi tóc mai khe khẽ bay lên, nhẹ nhàng như bàn tay của người từng bao lần vỗ về ru nó vào trong giấc ngủ ngày thơ bé. Dịu dàng mà da diết quá.
Thắng ngẩng đầu nhìn trời, không thấy trăng, chỉ có ánh sao xuyên qua tấm màn đen mà đêm buông lơi trùm phớt lên đôi mắt, trời tối đó, nhưng lòng người thì sáng rực, một thứ ánh sáng bừng ra từ trong tâm hồn, từ trong khối óc, từ trong con tim yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào và yêu những người lính đang chiến đấu bảo vệ quê hương tha thiết. Nhiều đêm, trong những cơn mơ chập choạng, nó thấy mình được về lại mảnh đất quê hương, về lại với đồn biên phòng nơi đất đỏ bụi cuốn trời chiều mờ mịt, với những cánh đồng lúa rực lửa, với những mái nhà đơn sơ nép mình dưới tán cổ thụ um tùm, với ba, với má, với những người anh, người chú khoác trên vai quân hàm màu xanh lá, về với tuổi thiếu niên, cũng là về với… chú Chiến.
Nhớ chú, Thắng lại tưởng đến khoảng kí ức mà nó luôn giữ cho riêng mình.
Ngày đất nước thống nhất, Thắng đã là trẻ mồ côi, ba má nó đều trở thành liệt sĩ, Thắng được những người đồng đội cũ của ba má săn sóc, nuôi cho ăn học. Một lần vô tình, nó nhìn thấy chú Chiến, lúc đó, chú đang gác trong đồn. Vì chú có vóc người hệt như ba nó, nên dù đã đi qua rất xa, Thắng vẫn cố quay lại nhìn. Một cái nhìn tưởng chừng thoáng qua, lại là dòng nước mát tưới lên tâm hồn tưởng đã cằn khô vì chịu quá nhiều đau thương mất mát. Qua lời chúng bạn, Thắng biết, chú là một người lính vừa đi qua chiến tranh, trở về nhà với người mẹ già chưa được bao lâu lại lựa chọn khoác áo xanh, tiếp tục lên đường đi tới vùng lãnh thổ ở rìa đất nước này, để gánh trên vai tránh nhiệm gìn giữ bờ cõi non sông theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc.
Do nó nhìn chú nhiều quá nên chú cũng hay, cũng bắt đầu để ý, rồi chú tới làm thân với nó. Ngày chú xuất hiện trước nhà nó, Thắng thoáng giật mình, bối rối nhìn quanh. Nó thấy, nhà mình đã cũ, mái tranh tường đất xác xơ, tiêu điều nằm heo hút cạnh một con rạch nước đỏ au, lác đác lục bình với mấy ngọn rau muống sông dềnh lên mỗi lần gió nổi. Quạnh quẽ mà thê lương như chính đời của một đứa trẻ không còn mẹ lẫn cha, đời nó.
Chú có chê nhà, chê nó không? Thắng không biết, cũng không dám hỏi, chỉ chọn một góc để chui vào, rồi giương mắt nhìn chú, chằm chằm.
Thấy nó như vậy, ban đầu chú Chiến cũng bối rối lắm, chú tưởng mình làm cho nó sợ nên cũng không dám tới gần, hai chú cháu cứ vậy, người đứng kẻ ngồi, trơ mắt, nhìn nhau. Phải hồi lâu sau, chú mới giới thiệu mình là bộ đội biên phòng, biết nó ở một mình nên chú tới đem cho nó ít gạo ít khô.
- Con ăn đi để có sức mà đi học.
Rồi chú cười, quay đi. Bóng dáng đó không hề giống những chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng trong truyện cổ tích mà chú chỉ để lại trong mắt nó một bóng lưng còm cỏi đen xì với cái đầu rối tung như tổ quạ, nhưng lúc đó, Thắng lại thấy chú đẹp lắm, đẹp vô cùng, đẹp hơn cả những tia nắng sớm mơi rơi lên đồng lúa xanh trên con đường đất đỏ mỗi ngày nó đi học.
Sau nhiều ngày dè chừng, dần dần, Thắng cũng quen với sự săn sóc và cảm giác ấm cúng hệt như người nhà mà chú mang mang lại, nó cũng bắt đầu quan tâm chú, y như cái cách mà chú quan tâm nó. Vậy mà, phải tới tận sau này, khi đã quen thân lắm rồi, chú mới chịu hỏi tên, nó giận hờn bĩu môi, hồi lâu mới nói mình tên Thắng.
Vừa nghe nó nói tên, không biết tại sao mà chú Chiến lại lặng thinh, chú nhìn nó mà ánh mắt lại mông lung xa xăm nhiều lắm. Chắc chú cũng như nó, cũng mượn người trước mặt để nhớ, để tìm kiếm hình bóng hay kí ức về một người, một thời đã xa xôi mà không thể nào còn gặp còn thấy lại được trong đời. Nó nhớ ba, nhớ má, còn chú nhớ ai mà mắt chú rưng rưng?
Rồi ngày rộng tháng dày im lặng mà qua, mới chớp mắt đó, mà đã hai năm ròng, biên giới mỗi lúc lại không yên, phía bên kia gây hấn ngày càng dữ dội. Đất dềnh, gió nổi, mấy cây thốt nốt vùng biên, cứ nương theo hướng gió hơi mưa mà vươn lá vươn thân lấn vào đất lúa.
Chuyện này cũng không phải mới, mà đã liên tục từ lâu, ngay sau ngày giải phóng, những người bên kia biên giới đã nhiều lần quấy phá để nơi đây không có nổi một ngày yên bình. Ban đầu chỉ là gây hấn, lấn cọc, dạo gần đây còn cướp phá khắp nơi. Bão giông nhuốm chân trời, một cơn mưa cũng khiến đất thấm màu đỏ rực. Đám con nít có đứa không còn dám tới trường, cả ngày quanh quẩn nơi sân nhà xó bếp, người lớn cũng ngại đi xa, sợ chẳng may không về kịp giông tố.
Thắng và chú Chiến cũng ít dịp gặp nhau, chú và đồng đội như con thoi trong guồng, chăm chú dệt từng sợi mảnh, từng giây từng phút không dám lơi là, chỉ sợ sơ sẩy một khoảnh khắc thôi, cũng khiến cho cả mảnh lụa đỏ vùng biên đứt đoạn.
Chiều nay, khi mà nhà nhà vừa mới lên đèn, thì sau những rặng cây sậm màu âm u, từ phía xa, mấy vệt pháo sáng màu đỏ cam tung tóe bùng lên. Sáng rực mà bỏng rát. Tiếp theo đó, là một loạt tiếng súng, tiếng pháo nổ vang trời. Là pháo hiệu và súng chỉ thiên. Biên giới lại động rồi. Thắng im lặng nhìn cho đến khi trời tắt sáng, trả lại không gian xám mờ với đám khói lảng lảng bay về từ phía xa xa…
Nó lắc đầu, thở dài một hơi:
- Mắc cái giống ôn gì, không yên ổn được.
Thắng biết, những hôm như vầy, chú Chiến của nó và đồng đội chỉ có thể thức trắng đêm.
Mới bữa trước, tự dưng chú Chiến nói là nó lớn rồi, chú muốn nó vô Thị xã học tiếp, học vì tương lai của nó. Nhưng Thắng biết, đó chỉ là một phần thôi, chủ yếu là do tình hình biên giới căng thẳng, chú không có nhiều thời gian quan tâm săn sóc, chú sợ nó có chuyện gì. Thắng… không muốn đi. Nhưng ở lại thì có giúp ích gì được?
Sau mấy ngày do dự, Thắng đồng ý. Dường như chú Chiến chỉ chờ có vậy, chú hối nó đi liền. Chú nói, chú gửi gắm bạn trong Thị xã rồi, nó cứ việc vô thôi, không cần lo gì nữa hết.
Buổi sáng trước ngày Thắng đi, chú Chiến vội vàng trở về từ đồn, tới quần áo còn chưa kịp thay, từ chân tới đầu sặc mùi thuốc súng và bụi đất. Vẫn cái đầu bù xù, vẫn nước da đen nhẻm và ánh mắt bối rối như ngày đầu, chú nhìn nó thật lâu, ngập ngừng hỏi:
- Đi rồi, còn quay về không?
Thắng khẽ cười, gật đầu chắc nịch:
- Về, về chứ, sao không về được? Con ăn cơm bộ đội, con về làm bộ đội.
Thắng nói với chú Chiến là mình sẽ học y, còn chú Chiến vừa lau vết thương ở cánh tay do đá văng trúng từ tối qua, vừa cằn nhằn biểu nó đi làm cô giáo. Thắng không chịu làm cô giáo. Dù chú nói tới khan cổ rát họng, nó vẫn lắc đầu, vừa lấy chai cồn, thấm bông lau vết thương trên tay chú, vừa nói tỉnh rụi:
- Học y để lỡ sau này mấy chú bị gì, có con lo liệu.
Chú Chiến bị đau, nhe răng hít một cái, rồi đưa tay cốc đầu Thắng, chửi nó khùng.
- Cô sát trùng kiểu này mà đi làm bác sĩ chắc chết người ta quá cô ơi! Cô đi học làm cô giáo dùm tui cái, khổ quá trời mà!
Chú nói, rồi cười, Thắng cũng cười, ôm đầu, nhìn chú. Rồi, bỗng dưng, nó thoáng thấy bóng mình trong ánh mắt ngời sáng của chú, rõ ràng mà trong trẻo. Nó bối rối, ngượng ngùng quay đi. Hình như, chú cũng vậy. Hai chú cháu cùng không nói, cùng phóng tầm mắt ra dãi đất quê hương bạt ngàn. Đằng gần, lúa chín trĩu đồng, áo lớp bụi mờ màu đỏ nhạt. Chỗ xa, thấp thoáng phía chân trời, bầy cò trắng rập rờn vỗ cánh bay… Đất quê… sao mà đẹp mà thương quá thể!
Sáng hôm sau, chú Chiến đưa Thắng ra lộ lớn đón xe đi Thị xã, xe tới rồi mà người không muốn đi, chú phải hối hai ba lần, nó mới chịu bước. Trước khi cửa xe đóng nó còn biểu “Chú! Chờ con về!”. Chú không trả lời, cứ cười vậy thôi.
Xe lăn bánh, chầm chậm nhanh dần, Thắng nhoài người, quay lại nhìn chú, không biết tại sao, nó cứ muốn khắc ghi hình bóng chú thật sâu trong tim mình. Bụi đỏ bay lên, làm hình ảnh chú trở nên lờ mờ, nó xót quá, đáy mắt cứ ầng ậc dâng lên thứ nước không nguồn mặn chát.
Xe sắp vào khúc quanh, bỗng dưng, nó nghe từ đằng xa, tiếng chú Chiến hô lên thật lớn:
- Đồng chí Thắng, đất lửa có màu gì?
Thắng không biết vì sao chú gọi mình là đồng chí, nhưng vẫn cao giọng trả lời, gần như ngay tức khắc:
- Đất lửa, màu vàng.
Chú Chiến không hỏi vì sao đất lửa có màu vàng, chỉ đứng nơi đó, vẫy tay chào tạm biệt và cười, rạng rỡ, nụ cười mà mấy năm nay Thắng vẫn chưa giờ phút nào quên.
Chú đã hứa chờ nó về, nó cũng đã hứa chờ ngày về với chú.
Chờ. Chờ suốt mấy năm, rốt cuộc cũng chờ được ngày này.
Vừa hay tin mấy chú dẹp xong Khơ me đỏ, Thắng đã không thể đợi thêm giây phút nào được nữa. Hơn hai năm nay, trọ học trong Thị xã, thư từ vẫn nhận đều nhưng nó chưa từng được gặp lại chú. Nó nhớ chú, cũng nhớ những chú khác. Không biết từ hồi nó không còn ở đó, mấy chú có khỏe không.
Ngay từ khi biết tin đám giặc ngoại biên đánh vào mấy xã biên giới, giết hại đồng bào, Thắng vừa nhập học được ít bữa đã muốn bỏ ngang mà về. Nhưng dù cho nó có tới bến bao nhiêu lần, hỏi bao nhiêu chiếc xe, từ xe khách tới xe ôm, ai cũng từ chối, chỉ thành thực khuyên:
- Ngoài ngoải giờ căng lắm, mới hôm mười ba*, tụi nó cho quân đánh càn không biết bao nhiêu bận rồi, người chết như ngóe, giờ em muốn đi, tụi anh cũng không dám chở, mà cho dù có bình an tới nơi được, cũng thêm vướng bận cho mấy ảnh chứ giúp ích được gì. Thôi, nghe lời anh, ở lợi, chờ thi cử học hành xong rồi tính.
Thắng nghe mà giận lắm, giận tím ruột xanh gan, nó là con nhà lính, đâu phải loại hèn nhát sợ sệt, ai cũng không chở thì nó đi bộ chứ có đáng gì? Nghĩ là làm, Thắng nai nịt gọn gàng, lên đường ngay trong hôm đó. Mình nó cõng ba lô đi suốt ba tiếng đồng hồ, dọc đường chỉ thấy người ta chạy ngược về chứ đâu có ai đi cùng hướng nó.
Đường về biên giới còn xa, nhưng lửa tang thương đã len lỏi vào từng tấc đất, gốc cây, ngọn cỏ quê hương rồi bùng lên dữ dội, đốt rụi cả nửa mảnh trăng rằm khiến cho đêm Trung Thu ấy trở thành vết cắt đau thương, dù qua bao năm vẫn nhỏ máu, vẫn buốt nhói từng ngày. Người người nhà nhà, ai nấy đều căm đều giận. Nếu không trả được thù này, thì sao sống yên được? Thắng ngược đường ngược gió, dù chân đã mỏi, dù người đã mệt, nhưng tim thoi thúc nó vẫn đi, vẫn hướng về mảnh đất đỏ nơi chôn nhau cắt rốn.
Trời về khuya, đường sá vắng tanh chỉ có sương bay mờ mịt. Ở chiều ngược lại, một bóng lưng còng lầm lũi đạp xe chậm chạp hiện ra, là một bà già. Thắng không nhìn kĩ, đi lướt qua, nhưng cụ bà lại kêu giật ngược tên nó:
- Thắng ơi! Là Thắng đúng không? Con đi đâu về đó? Quay lại đi con!
Bà ấy quen mình sao? Thắng tự hỏi.
Trong cái nhìn ngờ vực của Thắng, cụ dừng xe, chạy tới níu tay nó. Dù Thắng bao lần muốn rút tay ra, bà vẫn không buông, bà giữ nó bằng tất cả sức lực mà mình có thể. Đôi con ngươi mờ đục ẩn dưới hai mí mắt chằng chịt dấu vết thời gian nhìn thẳng vào mắt nó, nói bằng giọng mũi nghẹn ngào:
- Con ơi! Đừng đi! Tụi nó dặn bà rồi, có gặp con thì biểu con ở lợi.
Bà ấy khóc sao? Sao mà lại khóc? Phải mất vài phút, Thắng mới nhận ra đây là cụ bà hay cùng nó nấu cơm cho bộ đội trong đồn. Bà về đây rồi, còn mấy chú thì sao? Chú Chiến của nó thì sao? Người trong xóm thì sao? Bà bỏ đất bỏ quê về đây luôn rồi sao?
Cụ bà lắc đầu, vỗ mu bàn tay nó, bà an ủi nó, mà giọng bà buồn thiu.
- Không! Bà về mua thuốc rồi bà ra. Bà với bà con xóm mình… ở quê giữ đất. Ai cũng đi hết thì còn gì đất cát với nước non hả con?
- Bà về sao không cho con về? Con đâu có sợ.
Thắng quyết tâm từng lời, dân mình tới con nít còn biết cầm tre vót chông, nó lớn bằng này rồi mà không lẽ chịu thua tụi nhỏ? Cái đám đó, cái đám diệt chủng khốn nạn đó! Tụi nó ra tay tàn bạo, già trẻ bé lớn không tha cho một ai. Cả một xã người, đương lúc tưng bừng chuẩn bị đón Trung Thu, biết bao ước mơ kì vọng về tương lai còn dang dở, thì chết. Chết trong đêm trăng còn chưa kịp tròn.
Dao găm và báng súng đã giết hại những con người tay không tấc sắt, máu đã đổ xuống, lửa đã cháy lên, họ lần lượt ngã xuống, nhưng vẫn yêu thương và đùm bọc nhau tới tận giây phút cuối cùng. Nhưng đó, chỉ là cách nói thi vị giảm bớt đau thương, giảm bớt những đắng cay uất hận. Thắng biết, hiện thực tàn khốc hơn gấp trăm ngàn lần. Nó không dám nghĩ cũng không dám tưởng, thà cho nó đi theo mấy chú, cầm súng chiến đấu trên chiến trường, để cho nó vì nước mà hi sinh, chứ đừng bắt nó phải chứng kiến máu xương đồng bào đổ xuống trong bất lực.
Có một ngôi trường mà thầy cô giáo đều còn trẻ, tuổi còn phơi phới, họ yêu quê hương, yêu đất nước mình nên tự nguyện đến vùng biên dạy học. Họ tốt đẹp biết bao, họ cao quý biết bao… Trường vừa mới lập, lễ tựu trường vừa mới xong, trống vào học vừa mới vang, quốc kì vừa mới kéo lên, đàn em thơ vừa mới có những ngày đầu đến lớp. Vậy mà… họ chết, cái chết đau đớn thảm thương không thể kháng cự. Bàn ghế không còn là nơi trẻ con đọc sách viết chữ, tường vàng ngói đỏ không còn là nơi che nắng che mưa, giậu tre mới đan không còn là nơi bầu bí chen nhau xanh um cửa lớp, từng hạt cát viên sỏi không còn là nơi để học sinh vui đùa… Tất cả đều trở thành địa ngục, đều bị tưới đẫm bởi máu. Là những giọt máu nóng của những chiến binh trên mặt trận văn hóa, những con người quả cảm đã bỏ phố thị, từ giã gia đình để mang con chữ đến vùng biên bụi đỏ mù trời bằng tất cả con tim và khối óc, bằng tình thương và bao năm đèn sách miệt mài.
Vậy mà, bức tranh tương lai còn chưa kịp vẽ xong, đã bị nhuộm đỏ, đã bị thiêu rụi, còn gì, còn gì… chỉ còn lại nỗi đau đớn xót xa.
Xót xa vì đáng lẽ họ đã về nhà, về với gia đình để đón một ngày Trung Thu êm ấm, nhưng họ lại chọn ở lại, ở lại để chuẩn bị cho đám nhỏ một cái Tết Trung Thu đàng hoàng. Đau đớn vì những cái đèn lồng chưa kịp sáng, những con chó bưởi chưa kịp xếp lên mâm, những cái đầu lân dán bằng giấy bìa chưa kịp múa, tất cả… đều bị hủy hoại, đều bị đốt cháy trong một đêm trăng vỡ lưng trời.
Nghĩ mà thương, mà ruột gan quặn thắt... Trăng thấy không, đất quê hương tưởng đã bình yên lại phải oằn mình trong giông bão.
Tụi nó ác quá, tụi nó khốn nạn quá. Thắng giận quá, thắng hận lắm. Hận bọn ác ôn, hận mình hèn yếu. Nó không muốn chịu đựng nữa, nó muốn đi! Đi về nhà, về với mấy chú. Về để đánh một trận lở trời, để đốt một mồi lửa cháy bừng cho đất nước.
Nhưng rồi, bà lấy ra thư của chú Chiến, chú không cho nó về. Chú biểu nó ở lại. Chú nói: Không phải cầm súng mới là chiến đấu, ai cũng chết thì lịch sử đâu còn.
Rốt cuộc, trong bàn tay siết chặt của bà, Thắng khóc, dù nó cố nén nhưng nước mắt cứ ầng ậc trào lên, người khóc, trời cũng khóc.
Thắng quay về kí túc xá, viết thư trả lời chú Chiến. Nó giấu chú chuyện mình định quay về. Nó sợ chú rầu. Dù bình thường hay cãi lời nhưng rốt cuộc nó vẫn nghe lời chú. Nói đâu như cái chuyện vốn ban đầu nó định học y, nhưng cuối cùng vẫn thi vô Sư Phạm, tại chú muốn như vậy, chú biểu nó học cho giỏi đặng còn về dạy đám con nít ở quê. Chứ nếu mà nó quyết ý học y, thì giờ này đã chạy về ngoài đó, kề vai sát cánh với bộ đội chứ đâu có còn ở đây mà trách đất than trời.
Nó nghe lời chú, nó cũng tin chú, nó chờ, nó đợi. Đợi suốt hai năm. Rốt cuộc cũng đợi được tin thắng trận truyền về. Nó mừng lung lắm.
Gửi xe đạp lại bến, Thắng chọn chuyến xe đò sớm nhất. Trên chuyến xe đầu tiên về vùng biên ngày đó, có rất nhiều người giống Thắng, đều đã chờ đợi rất lâu, chờ đến ngày chiến thắng để hội ngộ với người thân của mình. Không còn cái cảnh e dè sợ sệt, bữa nay người ta rủ nhau đi đông, tiếng cười tiếng nói chen nhau rổn rảng, ồn ào suốt cả chặng đường dài.
Một ông cụ óm nhom, râu tóc đã bạc, rướn cái lưng khòm, cao giọng kể:
- Tụi nó thua chạy tứ tán, bộ đội mình thì đánh lẹ lắm, lúc tiến qua bên bển, trời tối làm tụi nó tưởng phe tụi nó đang tháo chạy. Nguyên một đoàn mấy chục chiếc xe, bám theo bộ đội ta mà đi. Tới chừng bên mình phát hiện ra, đánh cho tụi nó tan tành rồi tiến thẳng tới thủ đô. Bà con không biết đâu, bộ đội mình, đánh đâu thắng đó, vang dội bốn phương, dân bên kia, người ta cũng mừng như được mùa. Tại cái tụi nó, tàn ác quá mà… Tụi nó đâu có tha ai. Con tui, con tui đi bộ đội biên phòng đó, bên mình vừa thắng, nó đã báo tin về, nó sắp về rồi, nước mình yên rồi, thắng lớn rồi.
Nhìn cụ huơ chân múa tay, mọi người hoan hô vỗ tay bôm bốp. Trong xe không khói không bụi, mà khóe mắt nhiều người lại cay xè.
Đoạn đường về “nhà” hôm nay, Thắng thấy sao mà xa xôi dằng dặc.
Do đã thông báo trước, lại là “người cũ” nên Thắng vừa bước xuống xe, đã có người cầm theo hình tới đón, là một anh lính mặt mũi non choẹt mà nó không biết tên, nhìn bộ dạng giống như đi công vụ, được nhờ vả nên sẵn đường ghé đón nó. Hai người lúng túng chào nhau, rồi lên đường. Ngồi phía sau xe, Thắng nhộn nhạo, hỏi thăm tin chú Chiến, trong những lá thư trước, chú nói, đã lên tới chức đội trưởng. Làm đội trưởng, càng phải chịu khó nhiều. Không biết dạo này chú mập ốm ra sao, ăn uống thế nào, tóc tai có còn rối bù và nước da có còn đen nhem nhẻm? Thấy nó về, không biết chú có mừng không?
Thắng vui miệng cứ nói luyên thuyên, trước sự hào hứng của nó, người lính trẻ không đáp lại bao nhiêu, gần như chỉ im lặng hoặc ậm ờ cho qua chuyện, nghĩ người ta mắc cỡ hoặc không ưa mình nên sau một hồi Thắng cũng thôi, không hỏi không nói chi nữa.
Đồn của chú Chiến nằm lọt thỏm trong đám cây rậm rạp, nhìn từ xa rất khó có thể phát hiện. Nhưng Thắng từng ở lại một thời gian dài, làm sao không quen đường thuộc lối? Nó không dám nói mình quen từng gốc cây ngọn cỏ, nhưng chỗ cây nào có kí hiệu làm sao, bụi cỏ hay cục gạch đặt ở đâu để làm dấu nó đều nhớ rõ.
Càng về đến gần, nó càng nôn nao trong dạ, tim cứ nhấp nhổm đập từng hồi. Xa cách mấy năm, rốt cuộc nó cũng được về “nhà”. Vậy mà… khi gần tới nơi, anh lính không dẫn nó vào trong mà tẻ qua con đường nhỏ không quen lắm, cuối đường có một nhà mát, từ chỗ này nhìn qua, thấy còn cách đồn một quãng. Ảnh biểu nó chờ ở đó một lát rồi ảnh đi.
Người vừa đi khuất, ở đây Thắng đã phùng má bĩu môi, làm như đang giận lung lắm, trong đầu tưởng tượng tới cái cảnh chú Chiến xuất hiện thì nó sẽ tỏ ra giận chú, giận chú không cho nó vô đồn, giận chú không cho nó về thăm “nhà”. Nó sẽ không thèm nhìn, để chú năn nỉ nó. Năn nỉ tới chừng nào vui lại thì nó mới tha.
Thắng đắc ý với cái suy nghĩ trẻ con của mình, nó ngẩng mặt nhìn đám lá rừng xào xạc đùa nhau tít trên không, như cố giấu đi khóe môi đang kéo ra nụ cười ngờ nghệch.
Rất nhanh sau đó, Thắng đã nghe tiếng người đạp trên lá khô lạo xạo sau lưng mình, bước chân nghe chậm rãi mà vững vàng, là bước chân của chú Chiến.
Thắng quên hết những suy tính trong đầu, nó cười toe, quay lại, reo lên:
- Chú…
Mắt Thắng mở to rồi sững sờ trong một thoáng. Người trước mặt cũng cái dáng nhỏ nhỏ gầy nhom, cũng nước da ngâm đen, cũng những vết sẹo chi chít trải đều khắp tay chân, và cũng mái tóc như tổ quạ rối bù. Nhưng không phải chú Chiến của nó, mà là chú Quyết.
Chú Quyết, là người đồng chí kề vai sát cánh với chú Chiến trong cùng một tiểu đội, là người lính hiếm hoi biết chữ, mà còn viết rất đẹp, ngày xưa chuyên phụ trách việc tin tức trong quân, người lúc nào cũng toát lên cái vẻ thư sinh văn sĩ, tánh tình lại hiền lành nên được anh em thương nhiều. Thư từ bộ đội viết cho người nhà, thường là từ tay chú Quyết mà ra.
Ngay cả thư của chú Chiến gửi nó mấy năm nay, cũng là chú Quyết viết dùm, chứ chữ chú Chiến… thì xấu, xấu hết chỗ nói, đã vậy còn chữ biết chữ không, lúc còn ở đây nó cứ cười chú hoài chuyện đó. Mỗi lần như vậy, chú cũng cười theo, nhưng cười cái điệu buồn thiu hiu hắt. Rồi cứ hay tiếc là hồi xưa tại chiến tranh mà nghỉ học sớm quá, nên tới nó, chú mới muốn nó làm cô giáo, đem cái chữ cái nghĩa về đây dạy cho chú, dạy cho con nít xứ này, để sau này yên ổn rồi, chú đọc thêm sách báo, nói chuyện với Thắng cho hay, còn đám tụi nó lớn lên, không phải thua thiệt với người ta.
- Ở cái xứ này, muốn con chữ còn khó hơn tải gạo. Học được thì học, ráng nghen con!
Lời chú dặn còn đó, nó không quên. Vậy mà nay, nó về rồi, còn chú không chịu ra gặp nó.
Thiệt tình, làm vậy mà coi sao đặng?
Nghĩ tới chú Chiến, Thắng không giận nữa, chỉ thấy phập phồng không yên, nó hỏi tới hỏi lui hoài mà chú Quyết thì cứ làm như không hiểu, không đề cập gì tới chú Chiến, cứ nói chuyện ở đâu đâu. Thắng chịu hết nổi, cau mày hỏi thẳng là chú Chiến của nó đâu rồi. Không biết có phải con nhỏ ảo giác không, mà nó thấy vừa nhắc tới chú Chiến, chú Quyết đã nói lảng sang chuyện khác. Thử vài lần, cũng không khác gì nhau. Mấy chú chỉ giỏi ngụy trang đánh giặc, chứ trước mặt nó, hình như không nói dối được bao giờ. Nhưng vì sao lại phải nói dối?
Thái độ chú Quyết như vậy làm Thắng lờ mờ đoán ra. Một cảm giác nhoi nhói bắt đầu lan tràn trong tim phổi, lạnh buốt cả tay chân, Thắng nuốt khan, nheo mắt nhìn chú Quyết thật sâu, ánh mắt sáng quắc như ánh hỏa châu bay lên giữa trời đêm biên giới. Đôi mắt đỏ hoe đó càng nhìn, chú Quyết càng bối rối. Đối diện với kẻ thù hung tàn khát máu, chú cũng không thấy mình chùn bước như bây giờ.
- Chú Quyết! Chú Chiến con ở đâu? Ở đâu? Chú Chiến đâu rồi? Chú Chiến con hi sinh rồi đúng không? Hả chú?
Trả lời cho những câu hỏi dồn dập của Thắng là một khoảng không lặng thinh đặc quánh, chỉ còn tiếng thở dài khe khẽ, tiếng gió đùa cây thổi bay những chiếc lá khô. Từng hồi. Vỡ vụn. Như Thắng. Nó muốn khóc. Nhưng không khóc. Nước mắt không chảy ra mà nở tung trong lồng ngực rồi thấm vào tim phổi.
Chú Quyết không trả lời, nhưng nó biết, nó đoán được rồi. Không lẽ nào chú Chiến thương nó nhất, lại không tự mình đi đón nó. Thắng lắc lư thân mình, tựa lưng vào cột rồi từ từ trượt xuống, gục đầu, ôm gối. Trong óc chỉ còn một mảnh bóng tối lan tràn, trống rỗng, không thấy nổi dù chỉ một sợi sáng xuyên qua. Cảm giác này… nó lần nữa phải nếm trải? Chiến tranh… chiến tranh… vì sao phải chiến tranh? Đất nước… đất nước… vì sao thống nhất rồi vẫn còn phải đổ máu?
Mắt Thắng ráo hoảnh, lặp đi lặp lại những câu hỏi đó không biết lần thứ bao nhiêu trong đầu. Không ai hồi đáp, cả từ thực tại lẫn hư không. Cả thanh âm với gió rừng, cùng đông cứng lại trong một thoáng chốc. Không ai nói, không ai hỏi, chỉ có hai đôi mắt đỏ hoe nhìn nhau, tan vỡ, nghẹn ngào và đôi vai run lên, lẩy bẩy.
Phải mà nó khóc, thì chú Quyết đã đỡ khó xử hơn nhiều.
Anh lính trẻ lúc nãy quay lại, thoáng thấy tình cảnh trong này, lúng túng đứng hoài sau cây cột, vài chiếc lá úa từ trên cao sà xuống, lướt nhẹ qua gương mặt non tơ rồi khẽ khàng rơi trên ngực áo, ảnh vẫn không dám phủi đi, cả người cứng đờ như một pho tượng đá, chỉ có hai bàn chân là bối rối cạ vào nhau.
Cuối cùng, vẫn là chú Quyết hiểu ý, đỡ Thắng dậy, lên tiếng xua đi bầu không khí nặng nề:
- Thôi! Đi ăn cơm. Ăn xong, con muốn hỏi gì, chú cũng nói. Con muốn gặp chú Chiến, thì chú dẫn con đi.
Câu nói này của chú Quyết đã thắp lên cho Thắng thêm một lần hi vọng, chú nói vậy có nghĩa là chú Chiến vẫn còn sống?
Thắng vực dậy tinh thần, đi theo chú Quyết và anh lính trẻ tới nhà khách, dù chỉ là một căn nhà vách gỗ đơn sơ nhưng sạch sẽ và đã bày sẵn cơm nước đàng hoàng. Sợ nó nghĩ nhiều, chú Quyết giải thích đây là quy định của cấp trên, người ngoài không được vào trong đồn, chỉ có thể tiếp đãi nó ở đây. Nhưng Thắng nào có để tâm, chỉ chăm chăm ăn cho nhanh còn đi gặp chú Chiến. Nó tự hứa với lòng, dù chú đã thành ra như thế nào, nó cũng tuyệt đối không khinh không ghét.
Bữa cơm quân ngũ không cao sang, nhưng ấm cúng, là những món mà trong các bữa ăn hồi trước Thắng đã cùng với anh nuôi, chị nuôi nấu đi nấu lại không biết bao nhiêu lần. Bây giờ so với trước, càng nhiều, càng ngon mắt, nhưng khi vùa vào họng nó không cảm được vị gì. Chỉ mong xong bữa cho nhanh, để còn gặp người mà nó trông ngóng.
Cơm nước xong, chú Quyết dẫn nó ra chỗ hàng rào công sự, cách một khoảng, chỉ về phía cánh rừng ở xa xa. Chú kể, năm đó bên kia đánh dữ dội, tiểu đội của chú, chú Chiến là đội trưởng, nhận trách nhiệm trinh sát trong rừng…
Trong một ngày lạnh buốt, trời lưa lất phất, bốn bên mù mờ, phảng phất không biết là khói hay sương, đồng đội đứng gần còn không thấy rõ mặt nhau, tiểu đội chú vô tình chạm mặt quân trinh sát của địch, dù đã đuổi một quãng dài vẫn không bắt được nó, đội trưởng Chiến ra hiệu cho mọi người rời chỗ tới nơi khác nhưng vẫn lộ. Tới gần nửa đêm, tụi nó bất ngờ xua quân đánh úp. Mấy anh em canh gác phía trước, còn Quyết đang viết tin ở phía sau, trong một tích tắc, tiếng lựu đạn nổ, tiếng súng rền lên vang dội, đất rừng đổ ào ào, tiếng hét chập chừng ngắt quãng từ bên ngoài vọng vào làm cổ họng Quyết nghẹn chặt…
Gã ngừng viết, quơ súng lao ra, chỉ trong nháy mắt thôi đã thấy đồng đội nằm la liệt cùng với vài tên lạ mặt, cõ lẽ trong vài giây chớp nhoáng, đồng đội của gã đã lấy lại được bình tĩnh và phản công, đáng tiếc là đã muộn. Ngoài vài tên nằm đây thì đám còn lại cứ như quỷ ma, giữa rừng đêm âm u không thấy bóng dáng. Quyết chạy quanh tìm kiếm một vòng, gã đau đớn nhận ra, người duy nhất còn sống lúc đó là đội trưởng Chiến, nhưng anh bị thương nặng, nát nửa thân, lúc này cũng đã thoi thóp.
Quyết vội chạy tới gần, định quàng tay còn lành lặn của Chiến lên vai mình, gã giật mình vì cánh tay đội trưởng đã lạnh ngắt, nhưng vẫn cố tỏ ra bình tĩnh, thấp giọng hô:
- Anh Chiến! Ráng lên! Em dìu anh về.
Chiến khẽ lắc đầu, ngực phập phồng ngắt quãng, kéo nhẹ tay Quyết, thều thào:
- Mày đi… nhanh đi… về báo cáo… với… cái này…
Dù không nỡ, nhưng Quyết biết, đó là điều nên làm. Gã cắn răng, nhét kĩ gói giấy đỏ nhăn nhúm vào trong túi quần rồi đứng dậy, lao vút đi. Siết chặt súng trường, gã xuyên qua màn mưa bụi giữa rừng khuya rét mướt. Chạy mãi cho tới khi bên tai không còn tiếng thú rừng kêu, cây cối không còn đưa nhau kẽo kẹt. Khi mưa tạnh, ánh đuốc của đồn biên phòng thấp thoáng xuất hiện trong tầm mắt, gã mới dám thả chậm bước chân thở dốc, dừng trước cửa đồn, gã ngoái đầu nhìn, rừng cây âm u, nước mưa buốt mặt từ khi nào chẳng biết…
Chú Quyết dần thu lại ánh mắt xa xuôi, quay lại nhìn Thắng, khe khẽ lắc đầu:
- Rừng nuôi lính, rừng bảo vệ lính, rồi rừng mang lính đi, bất chợt, không báo trước cũng không nhắn nhủ gì.
Thắng chết lặng, vậy là… chú Chiến thật sự đã không còn? Tim nó cứ như bị ai bóp nghẹt, một lần, rồi lại một lần. Đau. Xót. Nó dại đi.
Nó không hiểu được cảm xúc của chính mình. Dẫu đã lờ mờ đoán ra từ đầu, dẫu biết chiến tranh thì hi sinh mất mát là không tránh được, nhưng mà… chú Chiến của nó, người thân duy nhất của nó, ánh sáng giữa đời u tối của nó, đã không còn, đã thực sự không còn rồi. Nỗi buồn này, có ích kỉ không?
Trong đau đớn tột cùng, Thắng khóc, từng giọt, từng giọt rơi, vỡ òa trong cơn gió nắng rát da nơi vùng biên đất đỏ bụi mù. Nó gào lên, giọng nói thường khi trong trẻo dễ nghe giờ đắng chát cay xè:
- Tại sao? Tại sao chết không phải là người khác, mà là chú Chiến của con? Hả chú?
Chú Quyết quay lại, hai tay nắm chặt vai Thắng, không cho nó có cơ hội phản bác, chú nói ngắn gọn, mà từng chữ đâm sâu như lưỡi lê:
- Đi theo chú!
Thắng lê từng bước thẫn thờ theo chú Quyết tới một khoảnh đất nhỏ nằm lọt thỏm giữa rừng cây bụi. Thấp thoáng những gò đất nhỏ nhô lên, có cái cắm cọc tre, khắc qua loa vài chữ, có cái thì trơ trọi không tuổi không tên, có cái mới đắp nên cũng có cái cũ lặng im nằm bên dưới phiến cỏ xanh rì, từng cái cạnh nhau, nối nhau lẫn vào trong cỏ cây đất đá.
Chú Quyết chỉ tay từng gò một, lần lượt giới thiệu:
- Đây là anh An, đây anh Hạnh, còn đây thằng Phúc, chỗ đó thằng Tường. Còn bên kia, là những đồng đội mà chú còn chưa kịp biết tên. - chú Quyết ngừng một lát, bàn tay đã mất hai ngón chỉ về một cái gò lớn và cao hơn hết - Cả cái chỗ này, bên dưới phải chục người hơn, là chú với chú Chiến con tự tay chôn cất, chỉ trong một đêm thôi đó. Nổ trái, không còn biết ai là ai, đành gom lại một chỗ.
Nói rồi chú Quyết lặng thinh, tay run lên, bóng lưng thẳng tắp phảng phất hơi khòm dưới nóng nắng, chú không nói nữa nhưng Thắng hiểu được. Bản thân chú Quyết, chú Chiến và những người khác nữa, ai mà không có gia đình, ai mà không có người thân? Nhưng bản thân là người lính biên phòng, họ không chỉ sống cho mình, cho gia đình hay cho riêng bất kì ai, mà họ sống và chiến đấu vì lãnh thổ của tổ quốc, vì từng tấc đất của non sông. Bản thân Thắng, có ba là lính chiến, có má là quân y, được bộ đội nuôi, săn sóc từ khi ba má mất, sao nó còn không chịu hiểu? Tim người là máu thịt, dù sống với lí tưởng cao cả nhưng cũng biết buồn đau, giận hờn. Nhưng có giận có hờn, cũng phải giận phải hờn cho đúng, thứ lấy đi tất cả của nó là chiến tranh, không phải là những người đồng đội của ba má hay của chú Chiến. Họ vẫn sống, họ đi qua chiến tranh nhưng không có nghĩa là họ không có đau thương và mất mát.
Thắng à, mày phải hiểu chứ?
Phải hiểu!
Nhất định phải hiểu.
Rốt cuộc thì, Thắng cũng òa lên, nước mắt trào ra như con đê vỡ tung trước sóng lũ, nó dụi đầu vào áo chú Quyết, khóc cho tới khi vai chú ướt mèm. Thắng tưởng nó lớn rồi, nhưng giây phút đó, nó biết, hóa ra mình cũng chỉ là đứa con nít, sẽ khóc khi đau đớn tột cùng. Khóc cho tới khi cả mắt mũi đều sưng húp đỏ hoe, nó mới chịu nín, thút thít hỏi:
- Vậy giờ, chú Chiến con nằm đâu hả chú?
Chú Quyết trả lời nó bằng cái cúi đầu lặng lẽ, chỉ vào một chỗ đất nhỏ hơi nhô nằm khép nép dưới bóng tảng đá to.
- Mộ chú Chiến, chỗ đó - chú Quyết ngập ngừng rồi tiếp lời - nhưng chỉ là mộ gió thôi.
Mộ gió, là mộ không người. Ngày đó, khi biên giới tạm thời vắng tiếng súng, chú Quyết cùng vài người đồng đội tìm tới nơi chú Chiến cùng các anh em trong tiểu đội đã hi sinh với ý định đưa di hài họ về chôn cất thì phát hiện chỗ đó đã bị giặc cho nổ trái làm đất sạt vùi lấp hết, lại thêm mưa lớn nhiều ngày, nước đổ thành dòng cuốn trôi mọi thứ nên không thể tìm được vết tích. Định rằng khi biên giới yên rồi, sẽ quay lại nơi đó để tìm. Chỉ tiếc là cử người tới lui nhiều bận, vẫn không tìm được.
Chú vẫn còn nằm lại nơi rừng thiêng mù mịt.
Thắng ngồi phịch xuống đất ôm đầu. Ngày nó đi, chú Chiến đã nói là sẽ chờ nó quay lại, mà sao lại hi sinh? Mà sao lại không về?
Chú Quyết bước tới, ngồi xuống cạnh Thắng, bên nắm mồ trống không của người đồng đội chí thân, bâng quơ nhổ mấy nhúm cỏ vừa lú lên, chú lại kể:
- Trước đó, vào ngày hăm lăm tháng chín năm bảy mươi bảy*, tụi nó ụp vô bất ngờ… mà không phải đánh lính, mà là đánh dân…
Cả một đàn quỷ dữ đã xâu xé dân mình, đưa dân mình từ chốn thiên đường vừa mới được dựng lên xuống thẳng âm ti địa ngục, mà địa ngục trần gian đó, tụi nó gieo rắc đâu chỉ một nơi. Có những xã giáp ranh, dân cả ngàn người, chết sạch, bị giết sạch, chỉ trong vài tiếng đồng hồ.
Tụi nó chia quân vây chặt các đồn, không cho bộ đội ta tiếp viện. Lúc đó, tụi chú như phát điên, lặp đi lặp lại cả ngàn lần cùng một câu duy nhất:
- Hòa bình rồi, sao người ta vẫn phải chết vì chiến tranh? Tụi tao ở đây, sao tụi bây không đánh?
Anh em bộ đội nhìn lửa đốt xém trời, chỉ nghĩ đến sự tuyệt vọng của dân mình là sôi sục, họ ôm đầu, gào thét, mắt như nứt toạc bởi tơ máu và căm hờn. Chúng ta phải phòng thủ, chúng ta phải giữ đồn. Chừng nào mới được đánh? Chừng nào mới được đập chết mẹ tụi nó? Chừng nào? Chừng nào?
Khi lệnh phản công được đưa ra, những lính ôm trong mình những trái tim bỏng rát, hừng hực, bồng súng lao đi, như thiêu thân lao vào lửa cháy. Tụi nó tàn ác, tụi nó giết dân mình. Nhưng lính mình không sợ, lính mình sẽ trả thù cho dân mình.
Tụi chú tới nơi, sững lại, ngẩn người, làng xóm ở đâu, trường học ở đâu, người dân lại ở đâu? Tất cả mất hết rồi! Cháy hết rồi! Chết hết rồi!
Cả một bầu trời yên ả vùng biên giới Tây Nam bị lửa đốt bỏng rát cả đêm, gần Trung Thu, trăng tròn vành nhưng không mang màu vàng hay bạc mà rực màu lửa cháy, mà đẫm màu máu tươi.
Ai cũng chết. Bất kể già trẻ gái trai. Trẻ con bị xé làm đôi, bị quật vào cây chết tươi, người lớn bị chặt, bị đâm, bị cắt cổ bằng lá cây thốt nốt, đàn bà chửa bị siết cổ bằng chính dây rốn của con mình, còn con gái trẻ, ai không tự tử chết trước thì đều bị tụi nó luân phiên hãm hiếp cho đến chết. Những ngôi nhà đầm ấm phút trước còn giòn tan tiếng cười của những con người chất phát thiện lương phút sau đã ngập ngụa trong tiếng thét thê lương và đau đớn khôn cùng. Mảnh đất quê hương, mảnh đất máu thịt, giây phút đó khác gì địa ngục âm ti?
Bộ đội mình chôn cất dân mình, tới khóc cũng không khóc nỗi. Đau đớn và căm hờn, là thứ cảm xúc khủng khiếp mà chú và đồng đội gắng gượng vượt qua, từng ngày, từng giờ, vẫn chưa khi nào quên được. Không thể quên, cũng không được phép quên.
- Đến rạng sáng, bộ đội mình đã phá được vòng vây, phản công ác liệt rồi đẩy lùi tụi nó. Tụi chú chỉ muốn đánh thẳng vào hang ổ, san cho thẳng, đánh cho bằng, nhưng rốt cuộc thì, vũ lực không thể nào giải quyết được cốt lõi vấn đề. Bên ta đàm phán. Đàm phán để làm gì? Tụi chú… chỉ muốn đánh chết mẹ tụi nó thôi?
Chú Quyết siết chặt nắm tay, hít một hơi thật sâu, để chính mình bình tĩnh lại. Chú – người điềm đạm và hiền lành nhất trong số những người chú của Thắng, còn như vậy. Thì chú Chiến của nó, lại còn cảm thấy thế nào?
Những người lính biên phòng, ôm trong lòng mối thù xương máu, làm sao qua được những đêm hun hút chỉ có thể trừng mắt nhìn về bên kia biên giới. Thắng tự hỏi nhưng không dám thốt thành lời, chỉ lặng im, nhìn chú Quyết.
Chú hít một hơi thật sâu, hai tay nắm chặt, mắt vẫn không rời khỏi cánh rừng sâu hun hút.
- Cuối năm bảy tám**, chỉ một ngày sau khi chú Chiến hi sinh, bọn phản động Pol Pot đã cho lực lượng quân sự lớn có ủng hộ của pháo binh tấn công quân ta dữ dội ở nhiều đồn biên phòng. Vì đã có đề phòng và ai nấy đều mang trong lòng sự căm hờn cùng với quyết tâm gìn giữ từng tấc đất xương máu của quê hương, chú và những đồng đội của chú đã thề quyết tử giữ đồn, giữ đất, giữ dân, cho dù chỉ còn một viên đạn, một lưỡi lê, phải chiến đấu thay cho cả những người đã ngã xuống. Anh em tự nói với nhau, xưa đánh Tây còn được, thì mấy thằng phản động khốn nạn, có xá gì? Trận đó, tụi nó đánh ác lắm, nhiều đồng chí hi sinh. Phe ta thấy không thể đàm phán được nữa, nên đã tổ chức phản công, đánh thẳng sang bên kia biên giới. Và chỉ sau nửa năm, ta đã giành thắng lợi. Tàn quân của đám khốn nạn đó, ẩn náu ở biên giới Xiêm, trốn chui trốn nhủi như chuột cống… Tụi nó làm sao mà biết tụi chú đã hận tụi nó đến mức nào…
Chú Quyết nói đoạn, ôm đầu cười, cái kiểu cười gượng gạo đắng nghét tận ruột gan.
- Học xong rồi, về đây làm cô giáo, nghen Thắng.
Trước khi chia tay, chú Quyết dặn dò rồi đưa cho Thắng một cái hộp nhỏ, nói là đồ mà chú Chiến năm đó để lại. Nó mở ra, thấy bên trong là một cây lược sừng trâu, bề ngang chỉ bằng hai ngón tay bọc trong tờ giấy nhăn nhúm đã ố màu, chỉ còn đọc được lờ mờ hai chữ “Quyết Thắng” xiêu vẹo.
Quyết Thắng. Quyết thắng. Bộ đội ta quyết thắng.
Bộ đội ta thắng rồi, Thắng, cũng về rồi…
Sau lần đó, Thắng trở lại trường Sư Phạm, năm dài tháng rộng khiến nó dần dần hiểu ra, mỗi người trên đời đều có sứ mệnh của riêng mình. Không phải tự nhiên mà người ta lại nói:
Lịch sử không phải bài học trên sách vở mà là những năm tháng đã qua. Văn chương không phải gấm hoa mà là tấm gương soi lại cuộc đời. Chiến tranh đã đi qua, biết bao người nằm xuống, nhưng họ sẽ sống, vẫn sống, mãi mãi sống nếu đời sau còn nhớ, vẫn nhớ và mãi mãi nhớ. Nếu ai cũng chết thì lịch sử làm sao sống? Thì đất nước làm sao còn?
Trách nhiệm của những người còn sống chính là lưu giữ kí ức về những ngày tháng đó, những con người đó, không để “họ” chìm vào lãng quên.
Mấy chú giữ quê hương bằng xương máu thì nó phải xây dựng quê hương bằng con tim, bằng khối óc. Không phải cứ xông pha lửa đạn, phải hi sinh trên chiến trường mới là yêu nước. Nó phải sống, phải trở thành con cúi đánh lên ánh lửa thiêng trên ngọn đuốc truyền thống của non sông ngàn đời.
Để rồi khi nhớ má nhớ ba hay nhớ chú, Thắng càng thêm cố gắng. Nỗi đau chiến tranh sẽ dần nguôi ngoai, tương lai thì còn hoài ở phía trước.
Mấy năm sau, trong ngôi trường nhỏ vùng biên, một cô giáo trẻ dịu dàng dạy trẻ con đọc ê a từng chữ:
Em ơi đất nước có màu gì?
Màu xanh áo lính lỡ trường thi?
Màu vàng sao sáng soi đời trẻ?
Là đỏ màu cờ bước quân đi!
Đ.P.N
Chú thích:
*Ngày 13 tháng 8 (âm lịch), 25 tháng 9 (dương lịch) năm 1977
**1978
Bình luận
Chưa có bình luận