Trên đời này không có bữa tiệc nào không tàn. Năm cũ qua đi năm mới đến, khói lửa chiến tranh càng ngày càng đến gần, tới lúc tôi phải tạm biệt Ngô Lư để lên đường rồi.
Đêm trước ngày tôi đi, chúng tôi gác chân kề gối. Tôi lắng tai nghe tiếng hít thở của anh ta, từng hơi nhẹ nhàng, thanh thản và khiến người ta cảm thấy vô cùng bình yên.
Một tháng này ở cạnh Ngô Lư, tuy tôi cũng chẳng ăn no ngủ đủ, nhưng mỗi giấc ngủ đều rất an ổn, không cần phải giữ cho bản thân tỉnh táo ba phần kể cả trong chiêm bao phòng khi có việc gấp, sáng ra còn được hòa vào không khí thiên nhiên trong lành, khác hẳn màn sương tuy lạnh lẽo nhưng vẫn nhiễm hơi thở phồn hoa lượn lờ trên ngói cong chạm khắc rồng phượng tinh xảo ở Hoàng thành.
Khi ấy tôi sẽ mò đến chỗ Ngô Lư, ngồi gác chân dựa vào cột ở hiên nhà, nhìn anh ta xõa tóc vén tay áo tưới tiêu cây cỏ một cách nho nhã, chiếc áo đen vốn mang sắc thái u ám nặng nề cũng trở nên nhẹ nhàng thoái mái đến lạ.
Tưới cây cỏ xong, Ngô Lư sẽ châm trà, hương trà thanh đạm vương nơi chóp mũi tôi, theo cơn gió đông lạnh lẽo bay ra xa, lan tỏa khắp nơi. Chúng tôi có thể vừa nhấp miệng vừa chuyện trò về những thứ nơi trời nam đất bắc. Tóm lại, ở cùng anh ta tôi lúc nào cũng có chuyện để nói, dường như nói không biết mệt.
Nói với nhau nhiều vậy tất cũng tỏ lòng nhau vài phần. Tôi tin Ngô Lư chẳng có gì để lá mặt lá trái với tôi cả.
Tựa như hai người bạn đã lâu không gặp, tựa như tri kỷ vừa gặp đã thân.
“Cậu chưa ngủ à?” Âm thanh điềm đạm của Ngô Lư đột ngột vang lên, tôi đã quen với kiểu bất thình lình này của anh rồi, vậy nên cũng thong thả đáp.
“Kỳ diệu chỗ nào?” Ngô Lư xích lại gần tôi, anh vẫn đeo mặt nạ, chắc là sợ nó cấn tôi nên đành nghiêng đầu sang chỗ khác.
“Chúng ta mới chỉ quen nhau một tháng mà cứ như đã mười năm.”
Tôi xoay người nằm nghiêng, đối mặt với Ngô Lư. Dù đang ở trong bóng tối, dù mặt nạ của anh chưa được cởi ra lần nào, nhưng tôi vẫn lờ mờ thấy được cặp mắt trong trẻo của anh ta. Ánh nhìn anh sạch sẽ quá, kết hợp với tính cách cùng hành vi thường ngày, nhiều lúc tôi còn ngỡ anh là thần tiên đâu đấy.
Theo một cách nghĩ nào đó thì Ngô Lư đúng là thần tiên thật.
“Cảm ơn vì đã làm bạn với tôi lâu đến thế.” Anh ta thì thầm. “Lâu rồi tôi không có người nói chuyện cùng, ý tôi là người sống.”
“Không phải, là vì nhiệm vụ.” Tôi trả lời. “Tôi đến đây là vì nhiệm vụ, không phải là đặc biệt đến đây vì anh. Nếu không phải tôi, cũng sẽ có người khác đến đây làm bạn với anh thôi.”
“Chỉ là tôi cảm thấy rất may mắn vì người đến là tôi, rất vui khi được gặp anh. Lỡ như người khác đến thì sao chứ? Người nằm cạnh anh lúc này chẳng phải tôi à?”
Tôi sắp phải ra chiến trường, phận sự của tôi là bảo vệ, là làm lá chắn, lúc cần thiết thì tất phải hi sinh. Tôi chẳng biết mình có thể trở về hay không.
“Cậu để dành một phần tấm lòng lại cho tôi được không?” Tay Ngô Lư áp lên ngực tôi. “Một chút thôi, lòng cậu để lại chỗ tôi, thân xác máu thịt hiến cho giang sơn này.”
“Vậy thì không ổn lắm nhỉ?” Tôi cười. “Lòng tôi cũng phải hiến cho giang sơn chứ!”
“Vậy thì ngay lúc cảm thấy mình phải nói lời từ biệt với nhân gian, cậu hãy nhớ đến tôi nhé? Tôi coi như cậu đã về biên giới với tôi rồi, có được không?”
Đây là lời hứa sâu sắc thứ hai của tôi ở kiếp này, chỉ sau lời tuyên thệ vĩnh viễn trung thành với non sông gấm vóc của nhà họ Trần khi tôi gia nhập Mật Vệ quân.
14. Thư Ngô Lư gửi Bệ Hạ - Chuyện bên lề mà Thiều không biết.
Hạ quan Ngô Lư xin kính cẩn trình lên Bệ Hạ một tin xấu, rằng thần đã trúng lời nguyền của quân tặc Mông Nguyên, lời nguyền này đã hạn chế thần trong việc thi pháp chống lại chúng. Tuy hiện tại vẫn có thể tự thân chống cự, nhưng không biết có thể kéo dài hay không. Thần có cách để phá giải lời nguyền, tuy nhiên thần cần tận một tháng. Nếu sơ sẩy, nhỡ bản thân thần vô tình bị mất lý trí trong khi thi pháp thì có thể sẽ gây ra không ít rắc rối cho Bệ Hạ, vậy nên thần xin Bệ Hạ đề cử một người võ công cao cường, đáng tin cậy từ Mật Vệ quân đến Lạng Châu một chuyến. Người này sẽ giám sát thần trong một tháng tới, phụ trách chém đầu thần ngay khi thần có dấu hiệu làm xằng làm bậy. Còn về chuyện lá chắn biên giới Lạng Châu, xin Bệ Hạ hãy yên tâm, tổ tiên thần bao đời ở tại nơi này để lại không ít thứ, thần đã chuẩn bị xong, dù thần có chết thì nơi biên giới cũng có thể yên ổn tận trăm năm.
Tái bút, chỉ cần một tháng, không nhiều, thần cần thời gian một tháng để phá lời nguyền này, sẽ không cắp người của Bệ hạ đi đâu, đội ơn Bệ Hạ.
Mong Bệ Hạ không nói mục đích đến đây cho quan Mật Vệ, thần không muốn mỗi lúc ăn uống ngủ nghỉ đều có người đứng cạnh sẵn sàng rút kiếm chém bay đầu mình.
15. Thư Bệ Hạ gửi Ngô Lư - Chuyện bên lề mà Thiều không biết.
Chỉ huy đội ba của bộ võ quân trực thuộc Mật Vệ quân họ Trần tên Tùng Thiều, võ công cao cường thuộc hàng đệ nhất trong quân, ít ai cản nổi, tâm trí kiên định, là người vững tâm vững lòng, có thể giúp được cho Pháp tướng quân. Cứ yên tâm sử dụng.
Ngô Lư bảo tôi quân Mông Nguyên sẽ không tiến đánh ở Đình Lập, bởi bọn chúng biết đó là một chiến trường khác, vậy nên tôi yên lòng phần nào.
Tôi lên ngựa hội họp với đồng đồi và quân của Hưng Đạo vương, bắt đầu chống lại đạo quân đầu tiên do Thoát Hoan và A Lý Hải Nha chỉ huy tiến vào Lạng Châu. Chiến sự ác liệt vô cùng, dù chỉ mới trận đầu tiên thôi. Hình như chiến tranh lúc nào cũng vậy, có anh hùng, cũng có mất mát. Khói lửa ngợp trời làm lòng người căng như dây đàn, tiếng đao kiếm ma sát với nhau, tiếng tù và hòa cùng tiếng trống truyền lệnh như đang thắp lên từng đốm lửa đỏ hồng trong tim các binh sĩ.
Chúc các vị lên đường bình an, có thể mở mắt đợi đến ngày khải hoàn. Chúc chúng tôi ẩn trong bóng tối hỗ trợ các vị thành công, dù không được lưu danh sử sách nhưng ít ra lòng vẫn trong như nước, sáng như gương, không thẹn với ngàn dặm nước non này.
Tôi ngã xuống ở trận Chương Dương Độ, cũng chẳng bất ngờ lắm, vì tôi đã luôn chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Trên chiến trường mạng người như lúa, đao kiếm là liềm, gặt một phát là hết. Vốn là muốn thực hiện lời hứa vế trước của tôi với Ngô Lư, nhưng do tình cảnh ép buộc, tôi đành phải quay sang giữ lời ở vế sau.
Hình ảnh bóng lưng mảnh khảnh của Ngô Lư hiện ra trong đầu tôi, anh đeo mặt nạ, vén tay áo cầm bình tưới, vừa làm việc vừa trò chuyện câu được câu không với tôi. Hương thơm cỏ cây trong trẻo lan tỏa khắp chốn.
Tôi nhớ mình hay đi dạo cùng anh, từng nằm dài trên một ngọn đồi cỏ thấp, đầu gối lên đùi anh, ngó trời xanh mây trắm, ngắm cỏ lau dập dờn tựa sóng. Khi ấy bình yên biết bao.
“Vậy thì ngay lúc cảm thấy mình phải nói lời từ biệt với nhân gian, cậu hãy nhớ đến tôi nhé? Tôi coi như cậu đã về biên giới với tôi rồi, có được không?”
Chẳng biết mai mốt Bệ Hạ có gửi ai đến làm bạn với anh nữa không. Ngay lúc sắp rời xa nhân gian, tôi chẳng ích kỷ làm chi nữa.
Tôi lại nhớ đến cánh đồng bông lau ở Lạng Châu rồi, đó là nơi mọi chuyện bắt đầu. Tôi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của nó trước, sau lại ngỡ ngàng trước tướng quân của chúng.
Ngô Lư ngồi dưới mái hiên, bên cạnh chẳng còn ai để chuyện trò. Anh kéo mặt nạ lên, để lộ phần mặt dưới bị phủ đầy hoa văn kỳ dị, hớp trà một mình.
Chợt, anh cảm nhận được điều gì đó, trà trong chén sánh ra ngoài, làm nóng đỏ cả một mảng da tay.
Đột nhiên Ngô Lư nhớ đến lời cha mình nói, rằng: “Chúng ta trời sinh là những kẻ chịu đời cô độc, số phận giam cầm chúng ta, bắt chúng ta phải chôn chân chôn thây nơi này. Cả đời ở đây, không được rời đi, chỉ có thể lấy lý do muốn bảo vệ non sông đất nước làm dịu đi nỗi lòng muốn phá lồng vút bay cao.”
Ngô Lư chẳng còn tâm trạng để thưởng trà nữa. Anh phất phần tay áo rộng vốn được dém lại gọn gàng, để cho nó lại lần nữa trải ra bên cạnh, tựa như bao ngày trước kia.
Bình luận
Chưa có bình luận