Mũi tên găm vào tấm bia bện bằng rơm sau một tiếng xé gió vun vút. Viên tiểu binh đứng cách đấy mười bước chân vội tiến lại gần, tỉ mỉ quan sát rồi xoay người nhìn về phía đằng xa, anh ta hô to ra hiệu tên chỉ mới gần chứ chưa trúng vệt son tròn. Đoạn, người lính quay về chỗ cũ, đứng ngay như pho tượng đất, chờ lượt tên kế. Nắng chiếu xiên từ đằng Tây hẵng còn gắt gỏng, hắt lên một bên mặt người, làm ai nấy trên Xạ Đình đều nhễ nhại mồ hôi.
"Đổi cho ta cái cung khác đi." Mục Huyền thảy cây cung đã đứt dây xuống đất, chàng ra lệnh cho kẻ dưới.
"Bẩm điện hạ, hay là điện hạ dùng cái cung ông Đỗ Tuấn dâng tặng tháng trước ạ?" Viên chi hậu khẽ thưa.
"Cũng được. Ta quên bẵng đi đấy, nhà anh lấy nó ra đây." Chàng giục Thận.
Cây cung mới được đem ra. Mục Huyền nâng nó lên, chàng không vội tra tên ngay mà ngắm nghía cánh cung, kéo thử dây căng. Đỗ Tuấn cũng có mắt nhìn lắm, chàng thầm khen. Cánh cung gọt đẽo dẫu vẫn còn vài phần thô kệch nhưng chất gỗ tư lũy cứng cáp, bền chắc. Phần dây làm bằng gân thú dẻo dai, dùng làm cung tập hay cung chiến đều được cả. Chàng rút trong ống nứa đang dưới chân ra một mũi tên cỏ bồng, đoạn, giương cung lên ngắm bắn chỗ bia bện bằng rơm ở phía xa. Lần này, mũi tên găm chính giữa vòng son, Mục Huyền gật gù hài lòng. Chàng nhìn về phía Tây, nắng đã nguội đi ít nhiều, xa xa có tiếng người luyện võ vọng về làm tay đang định rút tên của chàng lại thôi.
"Bẩm điện hạ..." Thận tinh ý, nhận ra chàng không muốn luyện bắn cung nữa, anh ta bước lên mấy bước, chắp tay thưa.
"Trời hẵng còn sớm, chi bằng anh ra gọi đám lính tráng bên ngoài kia vào trong này, bảo chúng tập phá trận để ta xem tài nghệ Phạm công luyện quân đến đâu." Hoàng thái tử vừa nói vừa đưa cung và tên cho đứa nô đứng gần đấy.
Thận vâng lệnh, anh ta dẫn theo vài người lính ra ngoài Xạ Đình, một lúc sau mới trở vào. Theo sau Thận là đám lính tráng tập trận ban nãy. Hoàng thái tử ngồi trên ghế, chàng chăm chú quan sát quan chi hậu lần lượt phân phó họ thành từng tốp. Đám lính nghe danh Duệ Văn vương, ban đầu vẫn còn sượng sùng giữ lễ, nhưng khi đã quen, ai nấy đều theo thiệu lệnh mà tiến lui theo trận. Mục Huyền chăm chú xem họ lập trận rồi phá trận, thỉnh thoảng chàng hỏi quan chi hậu xem anh ta thấy đám thân quân vừa tuyển mộ trong số sương quân tại các lộ này ra làm sao. Thận xuất thân là con nhà võ, cũng từng theo chàng đi dẹp loạn đôi lần, gần thì ở châu Đại Hoàng, xa hơn thì Lâm Tây, châu Lạng. Quan chi hậu trẻ tuổi nheo mắt xem đám người dưới vật lộn với sau như đám trẻ con chơi trận giả, đoạn, anh thật thà tâu với chàng khen Phạm công dẫu tuổi tác đã cao nhưng việc quân không bao giờ chểnh mảng. Thân quân vốn được lấy từ châu Cổ Pháp, đều ít nhiều là con nhà võ, hiếm có người biết chữ, dạy cho họ thuộc được binh thư, tiến lui trong trận nhất nhất tuân theo lệnh truyền thế này mới hay ngày thường giáo đầu ắt rèn giũa nghiêm khắc vô cùng. Nét mặt hoàng thái tử tỏ ý hài lòng, chàng lấy trong túi gấm đeo bên hông ra hai miếng trầu, ban cho quan chi hậu một miếng. Cuộc tập trận cù cưa đến tận khi tắt nắng chiều, đám lính lại xếp thành hàng ngũ chỉnh tề chờ lệnh.
"Này, nhà anh kia, điện hạ truyền anh bước lên trên này." Thận chỉ vào một người lính trẻ có vóc dáng to cao nhất nhì trong đám, anh truyền lời hoàng thái tử.
Tức thì, người lính bước ra, vội đến trước mặt Mục Huyền mà quỳ rạp xuống, mắt không dám nhìn thẳng dung nhan hoàng thái tử.
"Nhà anh tên là gì? Quê quán ở đâu?" Quan chi hậu hỏi.
"Bẩm điện hạ, tôi họ Lê, tên chỉ có một chữ Tân. Người ở làng Khương Xá, châu Lỵ Nhân, lộ Hải Thanh ạ." Anh lính trẻ chắp tay, dõng dạc thưa.
"Trong thân quân cũng có người quê ở Lỵ Nhân à?" Mục Huyền ngạc nhiên.
"Bẩm điện hạ, tôi xin đi tòng quân, theo thánh thượng dẹp loạn Can Thị trên lộ Thượng Nguyên.
Nhờ lập được công cứu giá nên thánh thượng khẩu dụ cho thăng làm thân quân ạ." Tân trả lời thành thật, thuật lại cơ duyên giúp anh đạt được tâm nguyện lên kinh kỳ theo đường võ nghiệp.
Mục Huyền à lên một tiếng. Cái người này... chàng quan sát anh ta kỹ hơn, bụng bảo dạ vẻ như đã gặp ở đâu rồi. Chàng ra lệnh cho người lính ngẩng đầu lên để nhìn lại lần nữa.
"Bẩm điện hạ, người còn nhớ đã khen anh đô vật trong hội ở Đọi Sơn không ạ?" Thận đứng bên cạnh, đoán rằng chàng thấy người nọ quen mắt nên khéo nhắc. "Chính là người này đấy ạ."
"Ra thế. Cũng có chí đấy. Mặt ngươi chưa thích chữ, đã được xếp vào quân nào rồi?" Chàng lại hỏi.
"Bẩm điện hạ, tôi... chưa được xếp vào quân nên chưa thích chữ ạ." Tân cung kính đáp, anh lại cúi đầu, tránh nhìn thẳng mặt quý nhân.
"Thế thì giờ ta xếp ngươi về tùy long quân nội, làm thủ hạ dưới trướng phiêu kỵ tướng quân họ Quách, ngươi thấy thế nào?" Mục Huyền cười nhưng từ ánh mắt đến nét mặt đều tỏ rõ ý tứ thăm dò.
"Bẩm điện hạ, xin điện hạ thứ tội, tôi không dám nhận ân của điện hạ ạ." Người lính trẻ cúi rạp người, vội thưa.
"Dĩ hạ phạm thượng." Nghe Tân nói xong, chàng nghiêm giọng.
"Bẩm điện hạ, tôi tòng quân cốt để lập công báo quốc cho thoả chí tang bồng. Là lính thì phải nhớ quân lệnh như sơn, ngoại trừ chỉ dụ của thánh thượng, tôi chỉ dám nghe theo lệnh Phạm công. Xin điện hạ nguôi giận." Sợ bị hoàng thái tử trách tội, Tân dập đầu phân trần một hơi.
Hoàng thái tử nghe thế lại bật cười, rồi chàng phẩy tay ra hiệu không giáng tội Lê Tân nữa mà cho anh ta cùng những người khác lui xuống. Đoạn, chàng rũ áo, đứng dậy lững thững rời Xạ Đình. Dọc đường trở về cung Long Đức, chàng cho Thận cưỡi ngựa đi ngang hàng với mình, dặn dò quan chi hậu phải có lời đến phủ Phạm công để đưa Lê Tân vào quân tùy long.
"Tên Tân ấy có tài lại có lòng trung, đi theo em giai anh rồi sẽ làm lên chuyện." Chàng nói.
Hoàng thái tử hồi cung Long Đức vào đầu giờ Dậu. Chàng vừa xuống ngựa, kẻ dưới đã đến bẩm báo có lái buôn họ Chu đang chờ diện kiến. Mục Huyền dặn viên tiểu hoàng môn đưa người nọ đến thư phòng ngay. Cả năm nay, Nhữ Dương dong thuyền xuôi đến Phật Thành làm tai mắt cho chàng, nhưng đợi mãi mà không có tin tức nào gửi về kinh. Giờ anh ta lại lù lù ở đây, chàng càng thêm sốt sắng muốn nghe xem chuyến buôn hàng vừa rồi của anh ta lỗ lãi thế nào. Vừa thoáng thấy bóng dáng chàng vén rèm bước ra, người kia đã quỳ mọp xuống đất, dập đầu, luôn miệng xin tạ tội. Mục Huyền ngồi xuống ghế, chàng thản nhiên uống trà. Nhìn thoáng qua bộ dạng hốc hác, tiều tụy đến gầy sọp cả người, râu ria lún phún, chàng đoán chuyến này anh ta còn về đến đây được là nhờ phúc tổ mấy đời.
"Bẩm điện hạ, điện hạ vạn phúc ạ." Người đang quỳ run run.
Tay đang nâng chén trà của Mục Huyền khựng lại. Chàng nhận ra người kia không phải Nhữ Dương.
"Ta tưởng chủ tớ nhà mày mải buôn bán ở Phật Thành, đến tận ra Giêng mới về cho bõ công." Chàng chưa vội miễn lễ ngay. "Nhữ Dương không đến lại để mày đến thế này."
"Bẩm điện hạ, xin điện hạ thứ tội, cậu Dương nhà con vẫn còn ở Phật Thành ạ." Người kia vẫn quỳ, anh ta vội phân trần. "Cậu ấy sai nhà con về kinh trước để dâng sổ sách cho điện hạ ạ."
Mục Huyền uống trà. Người kia dè dặt nói tiếp.
"Dẫu là chuyến này chủ tớ chúng con dong thuyền đi, gặp phải gió bão, vất vả hiểm nguy trăm bề nhưng cậu nhà con cũng không có gan bỏ bê chuyện điện hạ căn dặn. Lỗ lãi cậu ấy đã ghi chép cẩn thận, đều ở hết trong tráp này, nay con thay cậu ấy kính dâng lên tận tay điện hạ."
Nói rồi, người kia lết bằng hai đầu gối, tự tay dâng tráp gỗ đựng giấy tờ mà anh ta luôn mang theo bên mình suốt cả tháng trời rong ruổi khắp đường cái quan lên cho Mục Huyền. Trừ mấy tờ đầu ghi lại việc buôn bán, số lượng và loại hàng, những tờ nằm gần về đáy tráp đều nhắc đến chuyện người Tống ra vào Phật Thành nườm nượp, chuyện trữ quân của Chiêm Thành là Chế Đa La từng đi sứ Biện Kinh.
"Đứng lên đi." Mục Huyền ra lệnh. Vừa lấy thêm mấy tờ giấy trong tráp ra đọc, chàng vừa gặng hỏi thêm về Nhữ Dương. Nhưng đứa hầu cũng không biết được gì hơn. Chàng đành phải cho anh ta lui, rồi sai người vời Thận đến.
Viên quan chi hậu bước vào, dường như cũng đã đoán được vài phần chàng cho vời vì việc gì.
"Bẩm điện hạ, điện hạ có gì sai bảo ạ?" Thận chắp tay cung kính.
"Họ Chu báo tin về, Chế Nan Đà đã cho con trai nó sang chầu vua Tống." Mục Huyền gấp mấy tờ giấy xuyến chỉ, chàng đặt lại vào tráp, vẻ như đang muốn cùng thân tín đàm luận mấy câu. Thận là quan chi hậu của chàng, nhưng cũng là người chàng chọn làm tâm phúc. So với bọn Huy Vũ hay Đỗ Tuấn vốn không thạo việc quân, anh ta nhanh nhẹn, hợp ý chàng hơn.
"Bẩm điện hạ, vua Tống mới lên ngôi đã cho vời Uông Nham về Biện Kinh, phong làm hàn lâm học sĩ. Hẳn điện hạ biết người này?" Thận nhắc đến tin tức mới truyền về làm cả thượng thư sảnh lẫn trung thư tỉnh xôn xao mấy hôm nay.
"Đã nghe danh. Năm Thái Bình Vũ Đức thứ sáu, thánh thượng sai sứ sang hiến voi trắng cho vua Tống, khi về, sứ thần có tâu lên mấy lời về ông ta." Hoàng thái tử đứng dậy, chàng cầm tráp gỗ, chậm rãi bước lại án thư.
Uông Nham là bậc túc Nho, tính tình cương liệt, nên dẫu tài hoa có thừa nhưng không được hai đời vua Tống trước đây tin dùng. Nay vua mới lại cho vời về Biện Kinh, quan lộ rộng dài, ngày sau hẳn sẽ thành tay khuynh loát triều chính. Mục Huyền trầm tư, chuyện ở đất Tống nghe qua dẫu là xa xôi đấy, mà kỳ thực can hệ mật thiết đến chính sự trong tay đức vạn thặng. Dễ phải cháy hết cả nửa tuần hương, chàng cứ ngồi như thế, không để ý Thận vẫn đang đứng chắp tay chờ ở bên cạnh.
"Bẩm điện hạ, quan thượng thư và đại học sĩ vâng lệnh đi sứ cùng là vì tay Uông Nham này chăng?" Viên quan chi hậu lưỡng lự mãi mới dám đánh bạo hỏi. Đoán ý người trên vốn chẳng phải chuyện khôn ngoan gì.
Tâm trí Mục Huyền bị kéo từ tận Biện Kinh về lại thư phòng ở cung Long Đức. Chàng thở dài, gật đầu. Dẹp xong loạn họ Can, thánh thượng cũng lâm trọng bệnh. Sức lực của người giờ chỉ như ngọn đèn trước gió, lay lắt cầm chừng được khắc nào hay khắc nấy. Thế nhưng, đầu óc thánh thượng hẵng còn minh mẫn lắm. Người để môn hạ sảnh viên ngoại lang Phí Túc Mạch đi sứ sang Biện Kinh, ngoài mặt là dâng lễ vật mừng tân vương, nhưng kì thực là để vị lão thần họ Phí thăm dò về Uông Nham vì đoán được người này không có thiện ý với các nước lân bang. Một khi Uông Nham nắm được quyền bính, ắt sẽ tìm cách xúi bẩy vua Tống gây chiến.
"Thánh thượng để anh làm hoàng môn chi hậu theo hầu ta cũng đã lâu, nay lại cất nhắc đưa anh vào võ ban. Anh thử nói cho ta nghe xem, thế cục sẽ ra làm sao?" Đột nhiên, Mục Huyền nhìn chăm chú Thận.
"Bẩm điện hạ, tôi cho là chẳng chóng thì trầy hai nước phải động đến binh đao." Trước cái nhìn của chàng, Thận không hề nao núng. Anh vẫn giữ điềm đạm như thường, chắp tay giữ lễ mà thưa.
"Thế ngộ nhỡ như anh đoán thì ta phải làm thế nào?" Chàng hỏi tiếp, nhưng không phải vì thật thấy khó xử. Ngược lại, nét mặt chàng nghiêm nghị, từ ánh mắt đến lời nói đều toát ra vẻ sắc lạnh.
"Bẩm điện hạ, nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu. Người không lo xa, ắt phải phiền gần..." Thận đáp, thoáng có vài phần lưỡng lự. Nhưng rồi anh hít thật sâu, dứt khoát nói tiếp. "Nếu không tránh được nạn binh đao, chi bằng tiên phát chế nhân, đánh một trận ra trò để trời yên bể lặng."
"Tiên phát chế nhân." Hoàng thái tử lặp lại. Đoạn, chàng nở nụ cười hài lòng. "Hay cho câu tiên phát chế nhân."
Mục Huyền lấy ra một đạo thánh chỉ mà thánh thượng đã ban cho lúc trước, chàng trải nó xuống án thư. Lúc này, Thận mới nhận ra trên lớp giấy bồi bên trong miếng vải lụa màu vàng ấy không có chữ nào nhưng lại đã được triện sẵn ngọc tỉ. Trước đôi mắt ngỡ ngàng của anh, hoàng thái tử bắt đầu hạ bút, cẩn trọng thảo ra tờ chiếu chỉ thăng anh lên làm nội thị sảnh đô tri.
"Người Man ở châu Hoan châu Ái quấy nhiễu liên tục, khiến lòng dân không yên. Ta cho quan đô tri lĩnh thêm chức kinh phỏng sứ, sớm lên đường vào trong đấy tra xét." Vừa nói, Mục Huyền vừa đưa bút phẩy một nét cuối. Viết xong thánh chỉ, chàng giao nó cho Thận. "Nhớ đấy, tra xét thật kỹ."
Tức thì như thông tỏ được ý hoàng thái tử, Thận quỳ xuống, anh cung kính lạy tạ rồi đưa hai tay vâng lĩnh thánh chỉ.
- Hết quyển 1 -
Bình luận
Chưa có bình luận