Một vốc biển cả - Bách Huệ


Chàng đã từng nhìn lên trời, thấy áo vải chạm đến mây.
Nàng nhìn xuống biển, vốc lên một nắm vẫn không chạm đến sắc xanh.
​​​​​​​Xanh của biển là từ trời mà đến, có lẽ nào ngược lại.

Nhà thầy lang Phạm ở lưng chừng một con dốc cao, chỉ cần đứng trước cửa, phóng tầm mắt ra xa sẽ nhìn thấy biển. Trông gần vậy thôi nhưng để ra được đến bờ cát lại phải đi mất một đoạn đường dài, gần đó lại có trại lính, muốn ra đến biển thì phải đi đường vòng khá xa. Bởi vậy nên chỉ thỉnh thoảng, cô út Liên mới được chạy ra biển. Có những ngày dậy sớm, nàng đeo cái giỏ sau lưng, lắng nghe tiếng biển và nhìn bầu trời xanh xám một lúc rồi mới đi hái thuốc.

Cứ mỗi lần được ra đến tận biển, nàng đều háo hức từ tận đêm hôm trước. Mà mỗi lần ra biển cũng chẳng dễ dàng gì. Từ ngọn núi đá rồi đến con đường đất, vòng vèo một hồi là đến bãi cát rồi mới đến, đã có lúc, Liên cảm thấy như càng lại gần biển, ngọn núi sau lưng mình như đang tan dần ra. Đá dưới chân vụn ra thành đất, bụi tụ lại thành cát và rồi chảy ra thành nước, cứ lao xao vỗ mãi vào bờ.

Có những ngày cát bỏng, nàng chạy vội bằng đôi chân trần bỏng rát, quên đi sức lún khiến cả cơ thể ngả nghiêng, quên đi những vụn ốc, vỏ trai vỡ rải đầy, vụt qua dải cát nóng thật nhanh rồi ngâm chân mình xuống làn nước lạnh. Trong một khoảnh khắc, khi nước biển vội vã lui khỏi bờ cát, nàng đã cảm thấy hụt hẫng, bèn vội vàng bước lại gần hơn, chạm lên con sóng nhỏ vừa đến. Nước lạnh khiến nàng khẽ rùng mình. Biển cũng bị mặt trời hun, nhưng mãi chẳng nóng lên được. 

Mới đầu, nàng chỉ dám đứng nơi mép nước, nhìn đám trẻ làng chài bơi trên những con sóng nhấp nhô. Nước vỗ lên bắp chân nàng. Sát bờ cát mịn, nước biển trong suốt như nước giếng đào, vậy mà chỉ cần bước thêm vài bước, nước đã nhuộm màu xanh ngắt. Nàng túm ống quần mình, xắn cao lên và dạn dĩ bước lại gần với biển hơn. Nước ngày một lạnh nhưng cũng càng lúc càng xanh. Sóng vỗ không mạnh nhưng đủ làm nàng ướt đến tận hông, nước bắn cả lên tóc và đỉnh đầu. Khó mà nhìn rõ ngón chân nàng được nữa. Liên cảm thấy mình được vây lấy trong sắc xanh.

Nàng cúi mình, khum tay và vốc lên một vốc biển cả.

Màu xanh không còn. Nước trong tay nàng chỉ còn một vốc nhỏ bé, trong suốt, lấp lánh ánh mặt trời. Qua kẽ tay, nước sóng sánh rơi đi nhanh chóng. Nàng buông tay, lại vốc hết vốc này đến vốc khác, chưa bao giờ níu giữ được chút màu xanh. Nàng cười, nhìn mặt biển, sóng đã vỗ đến eo, khiến cơ thể mảnh mai của nàng hơi đung đưa theo nước. Nàng ngẩng đầu. Bầu trời phía trên cũng xanh, nhưng nàng sẽ mãi mãi chẳng bao giờ chạm đến được.

***

Đâu phải chỉ có mỗi cánh chim mới chạm tới bầu trời. 

Cậu Tám Bình đứng bên trong quân doanh, nhìn con diều bay vượt lên như muốn chạm đến cả mây. Con diều có lẽ được làm từ một manh áo đã cũ, hai con mắt được ghép lại bằng hai miếng vải khác màu trông như trợn trừng, hung dữ nhìn xuống. Đám trẻ lại vô cùng thích thú, cứ reo hò “nó lườm mày kìa” với chúng bạn. Phần đuôi dài xơ xác được làm từ những dải vải xé ra, lả lướt bay trong gió, xơ chỉ lòi ra từ vết xé, phất phơ theo chuyển động của cái đuôi. Những chiếc diều của đám trẻ con vùng biển không gắn sáo giống diều của đám trẻ ngoài Bắc. Chiếc diều dù cố gắng được tạo hình giống như một con cá đuối với đôi mắt giận dữ nhưng lại kéo theo cái đuôi dài như loài sứa biển.

Chiếc áo vải thỉnh thoảng tròng trành mỗi lần đổi gió. Đám trẻ con hò hét giành nhau cầm dây diều.

Quân doanh ngăn cách với bên ngoài bằng một hàng rào tre. Cậu Bình cứ đứng đó nhìn theo mãi, chẳng biết từ lúc nào lại bật cười. Nhìn một hồi, chiếc diều kia trông chẳng khác gì một chiếc áo cũ bay giữa trời, vờn đến tận mây xanh.

“Ông Tám.”

Phía sau chợt có tiếng gọi. Cậu Bình liền ngoái lại, thấy người đàn ông cao gầy chạy về phía mình. Cổ đeo vàng, áo nút ngọc, dải lưng gấm, áo lụa dài, đầu đội khăn thêu hoa văn chìm, gã đàn ông ấy dù mặc trang phục cùng màu với đám lính nghèo nhưng nhìn thế nào cũng lạc quẻ. Bước chân vào doanh, cậu Bình cũng bỏ vàng bỏ bạc, áo cũng chọn loại khiêm nhường nhưng Đắc Tuyên thì dường như không thể. Trên người cậu ta không có một miếng vàng, miếng bạc thì mặt cậu ta cũng đau như thiếu đi cả một miếng thịt. 

“Ông Tám. Nay thầy lại xuống nhà Giáo Hiến đó ư?”

“Ừ. Anh Tuyên nay mặc đẹp đi đâu đấy?”

Đắc Tuyên dù hơn cậu Bình đến mấy tuổi nhưng cứ luôn thích gọi cậu là “ông Tám” như những người dân khởi nghĩa kia. Dù lòng không thích nhưng cậu Bình vẫn chấp nhận, tay chắp sau lưng và mỉm cười.

Đắc Tuyên chỉnh lại chiếc vòng vàng dày đến một ngón tay trên cổ, khoa trương cười:

“Nay nhà cháu đưa thêm vải may áo với ít gạo lên đồn. Kiểm xong giờ tính trở về thôi. Nhân tiện cùng đường, xin đi cùng với ông Tám một đoạn.”

Cậu Bình gật đầu. Đắc Tuyên cao hơn cậu Bình một chút. Khi chỉ có hai người, gã khom mình, cúi người rất thuần thục, nhưng đôi lúc, khi họ đi trên đường, cậu nhận ra gã luôn bước chậm phía sau, lại ưỡn vai thẳng lưng. Gã đeo vàng nạm bạc, lụa là trưng khắp mình. Cậu mặc đồ nhà võ, dù vải tốt cũng chẳng chưng diện lại gã. Chút toan tính nhỏ nhen trong lòng gã, cậu đã thấy qua mấy bận. Hôm nay cũng vậy, gã bước lui phía sau, tuy lời cung kính một tiếng ông Tám, hai tiếng tướng quân, nhưng lưng thẳng, ngực ưỡn cao, thong dong ra dáng cậu chủ nhà cự phú.

Khi đi đến đầu chợ Trầu mà ngày xưa anh Hai Nhạc đến thu thuế tuần thì họ bắt gặp hai người trông đến lạ. Cụ già râu tóc bạc phơ, mặt đỏ như gấc, lông mày dài, rủ xuống che bớt đi đôi con mắt đã sụp mí. Trông cụ tuổi đã cao nhưng dáng đi cực kỳ nhanh nhẹn, lưng thẳng, tóc buộc gọn gàng, vành khăn thẳng thớm. Thân mặc áo vải nhưng sạch sẽ, tay áo cũng chẳng xắn lên như người dân thường mà để phủ xuống che đi mu bàn tay, ngón tay dài lại có phần nuột nà lạ thường. Giá mà ông cụ béo thêm mấy lượt thịt, khuôn mặt có lẽ sẽ chẳng khác gì Thọ thần. 

Thằng bé đi cùng thì quảy la bàn với một cái bọc nhỏ, có thể nhìn ra bên trong đựng mấy cuốn sách. Mái tóc thằng bé dày, búi lên hai bên như kiểu tiên đồng đứng hầu bên bồ tát, má đỏ hây hây, con ngươi to tròn khiến đôi mắt vừa đen lại vừa sáng. 

Hai người đi trên đường, ung dung nói chuyện. Đứa nhỏ cung kính đi sát bên, lưng thẳng nhưng đầu hơi cúi xuống, mắt không dám rời ông cụ quá xa. Ông cụ nhàn nhã bước đi, ung dung đến độ khiến cả con mương nước kế bên trông cũng như vườn hoa vừa độ nở.

Cậu Bình cảm thấy lạ, liền huých nhẹ khuỷu tay vào người Đắc Tuyên.

“Anh Tuyên đoán xem hai người kia có biết xem tướng, xem số không?”

Đắc Tuyên hơi nheo đôi con mắt tam giác, nhìn theo hướng mà cậu Bình chỉ.

“Chắc chỉ là lão thư sinh hết thời.”

“Vậy cứ lại hỏi là biết.” Cậu Bình có vẻ thích thú, cứ nhìn theo hai người.

“Làm sao để biết?” Đắc Tuyên hỏi.

Ánh mắt cậu Bình lướt qua cái vòng vàng khoa trương trên cổ Đắc Tuyên, rồi lại nhìn bộ võ phục bình thường của mình.

“Nhìn qua chắc chắn hai người họ là dân nơi khác, không biết anh cũng chẳng biết tôi. Hay anh cứ qua đó hỏi xem. Có quần áo bọc thân, hỏi xem ông ấy có nhìn ra được anh là ai và tôi là ai hay chăng.”

Nghe vậy, Đắc Tuyên cũng thấy có chút thích thú. Gã thẳng lưng, sửa lại cái vòng vàng, xốc lại ve áo gấm mà bước về phía ông cụ. Cậu Bình thì đủng đỉnh theo sau. 

Đắc Tuyên vỗ nhẹ vào túi bạc lẩn trong người. Lúc đến trước mặt hai người kia, gã hơi khom lưng, chắp tay lại, ngẩng đầu lên hỏi:

“Thưa cụ, chẳng hay cụ có biết xem tướng hay không?”

Cụ già vuốt râu, chăm chú nhìn gã.

“Lão già rồi, mắt mờ chân chậm, nói về xem tướng cũng chỉ biết sơ sơ. Nhưng lão biết xem bàn tay, thầy có muốn xem thử không?”

Cụ già nói rõ tiếng người miền Bắc. Không giống tiếng người miền trong, giọng người Bắc giống như một tấm lụa trải phẳng, êm ái, không nhiều lên lên xuống xuống, chỉ nghe thôi đã thấy nhẹ tênh. Mỗi chữ đều nói rõ ràng, nhưng nói thật thì cậu Bình luôn cảm thấy thanh âm người Bắc hay nhưng lại thiếu đi mấy phần tình cảm. Miếng lụa đẹp nhưng chỉ để trưng, không thể nhàu, không chịu quấn lên thân, ấp lên tâm mà nghe ra lòng người ấm lạnh. Cậu Bình nhiều lần ngược xuôi, làm ăn với người ngoài Bắc, nghe giọng nói dù cố gắng lên cao xuống thấp vẫn thấy đôi phần xa cách, có chút hoa mỹ mà chẳng thật lòng. Mà nói đâu xa, ngay vua và chúa ngoài Bắc đó, chẳng phải họ cũng sống với nhau sau tấm lụa mỏng đẹp đẽ, nói với nhau những lời hoa mỹ chẳng thật lòng đó sao.

Cậu Bình trầm ngâm nghĩ về cái chất giọng Bắc, Đắc Tuyên thì lại xòe tay muốn cho ông cụ xem đường chỉ. Ông cụ chỉ cười, nắm lấy tay gã. Hơi nóng từ bàn tay thon dài khiến gã lặng lẽ giật mình. Những ngón tay rất dài, da tay mịn màng như thiếu nữ, trơn bóng như lớp ngọc nhưng nóng như than, kỳ dị đến độ khiến Đắc Tuyên sởn cả da gà. Ông lão lật úp bàn tay gã lại. Đầu ngón tay cái của ông sờ lên đường chỉ tay của gã, lần theo những lối đi bí mật. Khi một ngã rẽ nào đó khiến ông lão trầm ngâm nhìn gã kỹ hơn, Đắc Tuyên lại thầm hoảng sợ. Gã vẫn kinh hãi bởi đôi bàn tay kỳ lạ kia. Bàn tay ấy còn đẹp hơn tay của một thiếu nữ. Mà cũng chẳng thiếu nữ nào có được những ngón tay dài đến thế. Gã nhìn kỹ, thấy móng tay còn hơi hồng hồng, cả đường mạch máu màu xanh ẩn dưới làn da trắng cũng khiến gã thấy rợn người.

“Phú quý bức người, từ nhỏ đã được yêu chiều, sinh trong nhung lụa, đến lúc chết vẫn đang lúc hưởng phú quý. Dù đầu hạt gạo còn khuyết một phần nhưng cây lúa vẫn lớn lên, chỉ tiếc vòng đời chẳng dài, hạt lúa vươn ra lại là hạt lép, phải dựa vào nhánh cỏ mềm bên cạnh mà sinh sôi. Nếu cứ mãi u mê, chỉ sợ sinh vào mùa hạn, chết đi trong nước lũ phẫn nộ. Căn cơ khuyết thiếu một phần, sau này phải nhờ người nhà bù đắp.”

“Ý cụ là sao?”

“Vừa hay bên cạnh có quý nhân. Sau này thầy sẽ được làm họ hàng gần với người mang mệnh trời. Lão đây xin chúc mừng quý nhân.”

Những lo lắng của Đắc Tuyên nhanh chóng bị quét đi quá nửa. Bàn tay bị nắm liền mở rộng hơn như muốn phơi bày mọi ngóc ngách trong đường đời mình trước mắt ông cụ. 

“Vậy còn vận hạn thì sao? Làm sao để hóa giải?”

Cụ ông mỉm cười, đôi mắt nheo lại.

“Dù là vận hạn thì cũng có cách hóa giải. Thầy đừng quá lo lắng. Người đang làm, trời đang nhìn. Gieo nhân lành ắt sẽ gặt được quả ngọt.”

“Nhưng mà…” Đắc Tuyên cắn môi. “Vẫn xin thầy chỉ cho cách tránh được tai họa. Còn quý nhân trong đời tôi là ai?”

“Không biết cụ ông nhà mình hãy còn khỏe chứ?” Ông cụ chợt hỏi.

“Dạ, vẫn còn khỏe.” Đắc Tuyên gật đầu.

“Vậy còn cụ bà?”

Gã không thể đáp lời đành chuyển hướng câu hỏi.

“Xin cụ chỉ đường cho con tìm ra được quý nhân.”

Ông cụ mím môi. Chợt cậu Bình cảm thấy ánh mắt ông cụ như nhìn về hướng mình trong khoảnh khắc.

“Em gái ruột của thầy mang mệnh phượng hoàng, mệnh định sẽ là người đầu gối tay ấp của đấng quân vương. Cuộc đời thầy lên được đỉnh cao hay không cũng phải nhờ vào phúc phần này.”

Đắc Tuyên giật mình. Ông cụ buông tay gã ra rồi quay sang nhìn cậu Bình vẫn luôn đứng sau theo dõi mọi việc. Đứa nhỏ kế bên vẫn luôn cung kính cúi đầu trước cậu Bình.

“Còn vị này… có tò mò mệnh trời hay chăng?”

Cậu Bình nhìn bàn tay kỳ dị như rắn trắng kia, khẽ lắc đầu cười, cúi mình hành lễ.

“Cảm tạ thầy. Con chỉ đi theo cậu qua đây, hẳn là không có duyên nhìn lén mệnh trời.”

Ông cụ cười. Tay áo dài che xuống đôi tay.

“Tướng quân xin chớ coi thường lão đã có tuổi mà trêu đùa. Ngài tuy không đeo vàng, nạm ngọc nhưng một mắt có hai con ngươi, mệnh trời đã đến, mang theo quyền uy vượt lên cả phú quý.”

Ông cụ cúi mình hành lễ. Cậu Bình thoáng ngạc nhiên nhưng cũng vội đáp lễ. Khi họ cùng đứng thẳng, ánh mắt cậu Bình lại nhìn qua bàn tay kỳ lạ của ông cụ nhưng nó đã bị lớp áo phủ lên. Đứa bé bên cạnh vẫn cúi mình thật sâu.

Cụ già nhìn nó rồi lại nhìn cậu Bình, chợt thở dài.

“Xem ra lần này có muốn, lão đây cũng chẳng thể xem tướng cho tướng quân được.”

“Xin cụ cho biết nguyên do? Có phải vì ta vô tướng vô phúc quá chăng?”

Cụ già lắc đầu.

“Nào dám. Đến nay, lòng tướng quân còn chưa thực tin lời ta nói, tâm còn nhiều e ngại. Ta cũng chỉ có thể nói sẽ có lúc phúc của người vượt lên cả thiên hạ, là người ban phúc chứ chẳng đợi phúc tự tìm đến mình. Còn hơn nữa, thứ cho lão cũng chẳng thể đoán chính xác được.”

“Vì sao ạ?”

Ông cụ vuốt râu.

“Rồng đã rời vua bỏ chúa, đi tìm một chủ nhân mới. Nó đã chọn được người nhưng còn chần chừ vì điều gì mà chưa thực sự ở lại, điều này ta cũng chưa rõ. Lòng tướng quân lúc này cũng chưa quyết tâm nắm lấy thiên cơ. Riêng với ngài, số mệnh là do ngài nắm trong tay, nhưng nhân sinh cũng thiếu đi một phần, phải tìm, phải bổ khuyết, phải giữ lấy thì mới được tròn đầy, lâu dài.”

“Vậy, thứ ta khuyết thiếu là gì?” 

Cậu Bình lại chắp tay muốn lễ nhưng khuỷu tay đã bị ông cụ nắm lấy mà ngăn lại.

“Tướng quân xin đừng hỏi nữa. Chính ta cũng thực sự không biết.”

Bốn người từ biệt. Đứa bé lại cúi mình trước cậu Bình một cái rồi mới theo ông cụ đi tiếp.

***

Khi bốn người đã chia hai hướng đi thật xa, cậu Bình lúc này mới nghĩ ngợi một hồi rồi bật cười.

“Xem ra ông cụ trông có dáng tiên nhân mà lời nói ra thật chẳng đáng tin.”

Đắc Tuyên còn đương nghĩ ngợi, nghe vậy chợt hỏi nguyên nhân. Cậu Bình chỉ vào gã rồi nói:

“Nhà anh chỉ có một đứa em gái ruột còn chưa dứt sữa, vậy quân chủ muốn cầu phượng hoàng chẳng phải sẽ phải đợi thêm mười mấy năm nữa sao. Quân chủ đợi được, chẳng biết đất nước này có đợi được hay chăng.”

Đắc Tuyên nghe vậy thì không gật đầu cũng chẳng phản đối. Họ chia tay trong sự trầm ngâm của cả hai. Suốt nửa đường còn lại, đôi vai Đắc Tuyên không còn giữ được dáng kiêu ngạo, mà xuôi xuống có phần chán nản.

Gã vẫn còn một đứa em gái nữa.

Trong nhà họ Bùi, chỉ tính con gái thì phía trên gã có hai người chị, bên dưới đúng là chỉ còn một đứa em năm nay còn chưa dứt sữa mẹ. Gã không muốn nghĩ đến đứa em gái còn lại nhưng đêm ấy trở về, nhớ tới đứa bé đi cùng ông cụ thì lại không thể không nghĩ đến đứa em gái của mình. Lần cuối mà gã gặp con bé, hình như nó cũng tầm tuổi đó.

Con bé năm, sáu tuổi, cơ thể gầy gò, chân tay dài mảnh khảnh, da rám và má đỏ hây hây, trông khác hẳn những đứa trẻ nhà họ Bùi. Nó, tuy là em gái ruột của gã, nhưng lại mang họ Phạm.

Năm đó, mẹ sinh ra gã, Đắc Nhật và hai chị, là vợ cả của cự phú một vùng, vậy mà vì ghen ghét cha hắn cưới thêm bà lẽ mà bỏ đi. Mấy năm sau bà lại làm vợ kế cho một thầy lang ở mãi tận Duy Xuyên. Thầy lang mất vợ, chỉ có một đứa con riêng. Nghiệt ngã thay, người con trai lớn đó cũng theo nghĩa quân từ những ngày đầu, là một võ lang lưng hùm vai gấu tên là Phạm Công Hưng. Còn mẹ gã sinh được vài đứa con chung với thầy lang họ Phạm, cô con gái út chính là em gái cùng mẹ khác cha với gã. Gã từng chỉ mới gặp con bé một lần vào cái năm mẹ gã mất. Con bé mới năm, sáu tuổi, đầu quấn khăn xô, thân mặc áo gai, chân trần chạy khắp nơi, trông như một con bướm nhỏ màu trắng. Gã từng thấy những con bướm nhỏ như thế bay trong vườn rau. Chúng cứ sống vô tư mà không biết mình mang tội.

Gã đã âm thầm căm ghét đứa em gái này chỉ nhờ một lần gặp mặt thoáng qua như thế. Giờ có lẽ nó cũng vừa tròn mười lăm hay mười sáu.

Gã cuộn mình và hừ lên bực tức. Vậy mà con bé lại là đứa em gái duy nhất vừa đủ tuổi để lấy chồng, đủ tuổi làm phượng hoàng, làm chỗ để gã nương tựa.

Thật vô lý. Gã siết chặt mình hơn, cố kìm nén bực bội trong lòng xuống. Gã lại nghĩ đến sự dứt khoát của mẹ hắn năm đó. Đàn ông năm thê bảy thiếp là thường, vậy mà mẹ gã lại khăng khăng không chịu kiếp chồng chung.

Gã đã đứng sau tấm liếp khi mẹ gã rời đi. Gã không khóc đòi, nhưng gã đã ở đó. Mẹ gã sờ lên tấm liếp, đúng nơi mà gã áp lưng. Có lẽ bà đã sờ được hơi ấm của gã khi nói câu tạm biệt.

Nếu bà không đi, cũng không nói lời tạm biệt đó, vậy thì gã đã có đứa em gái của riêng mình, một đứa em gái cùng cha cùng mẹ, cùng mang họ Bùi.

***

Lúc cô Liên trở về, trước cửa nhà đã có mấy người đứng chờ. Người đàn ông đi đầu cao và gầy, mặc lụa đeo vàng, phía sau là hai người lính mặc đồ kiểu con nhà võ. Nàng dừng bước, nhìn vài người đứng bên ngoài, ngó nghiêng vào vườn thuốc. Miếng thịt xỏ dây móc trên ngón tay trông có chút ngại ngùng, bị nàng vô thức giấu sau lưng.

“Xin hỏi, các ông đến đây tìm ai?”

Người cao gầy nhìn thấy nàng thì nheo mắt, đôi mắt lướt từ nước da ngăm ngăm, thân mình nhỏ gầy cho đến bàn chân trần của nàng. Ở mọi nơi bị ánh mắt ấy chạm đến, cơ thể nàng đều co rúm lại một chút, cả những ngón chân cũng muốn giấu sâu hơn vào ống quần rồi lại chợt nhớ ra mình luôn cắt ống quần cao để tiện chạy lên núi. Ngón chân cái của nàng hơi bấm xuống đất.

“Anh là anh trai em. Lần trước mẹ mất, anh em mình có gặp nhau rồi đó.”

“À, vâng.”

Nàng dễ dàng chấp nhận, bước lên, vượt qua người gã và mở cái cửa rào vào nhà. Nàng vẫn nhận ra gã. Mười năm đã qua, gã lớn lên trông lại càng giống mẹ. Nàng đã nghĩ cuộc gặp mười năm trước sẽ là lần cuối cùng mình nhìn thấy gã. Ở trên đời này, kiếm người cùng cha khác mẹ với mình thì dễ, kiếm người cùng mẹ khác cha với mình mới hiếm. Bởi vậy nên nàng nhớ gã. Năm đó, gã có vầng trán giống mẹ, nàng đã thầm nghĩ, có lẽ gã đã nhớ mẹ cả ngàn lần, bởi nên mới mang vầng trán giống mẹ như thế.

Nàng mang miếng thịt ra sau nhà, quay lại bảo gã ở lại ăn cơm. Hai người lính kia được gã dặn xuống núi cơm nước nghỉ ngơi. Căn nhà giờ chỉ còn hai người.

“Các anh đều đi theo nghĩa quân rồi. Nhà giờ chỉ còn mình em.”

Đắc Tuyên ngồi bên cái bàn trà nhỏ, nhìn em gái rót nước từ ấm ra. Nước không quá nóng, tỏa ra mùi thơm thảo mộc. Khắp căn nhà đều có mùi thuốc phơi khô, vừa ngột ngạt lại vừa dễ chịu.

“Trong nhà có chút trà trừ lạnh, anh uống thử xem.”

Đời cha nàng còn biết khám bệnh bốc thuốc, đến đời nàng chỉ còn biết hái thảo dược bán dưới núi. Cứ ngày một tàn lụi như thế. Đắc Tuyên nhấp một ngụm trà, thoáng thấy vị gừng và vị của loài thảo mộc nào đó mà gã không biết tên. Mùi thơm nhè nhẹ, hơi ngọt. Không loại trà nào gã từng uống mang mùi thơm như vậy. 

Nhạt nhẽo, thơm và ấm áp.

Gã nuốt ngụm trà thảo mộc đó vào họng, thấy trong lồng ngực mình ấm đến chua xót. Có lẽ trong bao năm xa gã, mẹ đã luôn uống loại trà thảo mộc này, thứ lá cỏ chẳng đáng mấy tiền, để dưỡng lại cơ thể đã vài lần sảy thai, sinh con rồi bôn ba vất vả đến cái chốn núi hoang này.

“Năm nay cô bao nhiêu tuổi?”

“Dạ, đến tháng Tư này là vừa tròn mười sáu.”

“Đã nhanh vậy cơ à?” Gã gật gù. “Cũng lớn rồi, nên lấy chồng đi thôi.”

Những lời dỗ dành tốt đẹp gã sửa soạn trên đường đến đây đều bị nuốt xuống theo ngụm trà kia. Tâm tư hừng hực trong lồng ngực gã bị đốt cháy bởi hơi ấm mỏng manh của vài lát gừng. Nỗi chán nản vô bờ ùa xuống. Gã thông báo với cô, giống như bậc cha chú bảo con cháu trong nhà đã đến lúc phải thành gia lập thất.

“Lấy ai ạ?” Nàng nhỏ nhẹ hỏi lại.

“Lấy Đức ông Bình.” Gã ngắc ngứ một hồi, cuối cùng chỉ nhạt nhẽo nói được một câu. “Ngài ấy giỏi lắm.”

“À, là Long Nhương tướng quân. Anh Hưng dưới trướng ngài ấy cũng đã sắp ba năm.”

“Phải rồi.” Gã gục gặc đầu.

Gã lúc này có chút hơi cáu kính. Mọi khi gã là kẻ nhanh mồm nhanh miệng nhưng lúc này lại ngập ngừng. Cô Liên nhìn gã.

“Em biết rồi.”

“Biết cái gì?” Gã hỏi cộc lốc.

“Biết là anh chọn cho em một người tốt, lại giỏi giang.” Nàng nhìn anh, thấy nếp nhăn giữa đôi lông mày càng thêm sâu. “Nhưng chuyện hôn nhân vẫn phải hỏi cha mẹ.”

“Nhà làm gì còn cha với mẹ.”

“Nhưng còn anh trai. Em sẽ gửi thư xuống đó hỏi ý anh Hưng, anh Ngạn…”

“Vô dụng. Ta mai cho cô làm vợ chủ tướng của họ, có gì mà phải hỏi ý nữa.”

“Phải, chắc các anh ấy sẽ đồng ý ngay, nhưng thế nào thì em cũng phải hỏi. Vì em họ Phạm.”

Đắc Tuyên sững người. Giống như một khúc cây bị sét đánh ngang, gã cảm thấy những tia điện chạy dọc cơ thể trong thoáng chốc. Nàng họ Phạm, gã họ Bùi.

“Tùy cô. Hỏi thì hỏi đi.”

Gã phất tay, uống nốt nước trong chén rồi bỏ đi. Chân vừa ra đến cửa, chợt giọng nói mềm mại kia với theo sau:

“Em tên là Liên. Phạm Thị Liên.”

Gã biết nàng tên là gì, nhưng gã chưa bao giờ hỏi. Hôm nay thì nàng nói cho gã biết. Gã “ừ” một tiếng. Đến khi bước ra khỏi cánh cửa xiêu vẹo của căn nhà nghèo, mùi vị thảo mộc vẫn còn đọng lại trong cổ họng gã.

(Đây chỉ là một nửa nội dung, bản này không đính kèm chú thích, mời bạn mua sách để đọc trọn bộ).

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout