Trên dòng gió ngược, thuyền xuôi - Lê Bình Chi


Nàng bước khỏi cửa, đón lấy bọc vải được dâng lên như cách người ta dâng món gì quý báu lên chúa, lên vua. Châu run run giở ra. Là nửa đồng xu được bẻ rất ngay và một lá thư thôi vợ.

Làng xóm vụt qua bên khóe mắt. Hắn chạy. Bình bịch bình bịch. Rầm! Ngã xô vào rào tre nhà ai, đầu đập đá chảy máu hắn vẫn mặc, lăn lê đứng lên tiếp tục chạy. Từng bước chân hắn nện xuống đêm đen ở làng Nhân Xá. Đêm vỡ ra thành tiếng chửi rủa lầm rầm và vài ngọn đèn leo lét vừa thắp. Tiếng bình bịch vừa nhỏ đi đã nặng nề lại dần. Nỗi bất an dâng lên, lan ra như sóng. Dân làng lấp ló nhìn nhau qua rào tre, ăn ý mang theo cuốc thuổng gậy gộc, đuổi theo chiếc bóng vừa chạy vụt qua ngõ. 

Bóng đen chạy mãi, chạy mãi, cuối cùng dừng lại ở ao đầu làng. Đêm ba mươi tối om, tịnh không một tiếng động. Chỉ có tiếng thở hồng hộc, thỉnh thoảng là tiếng rên, tiếng nấc. Tất cả đều phát ra từ bóng đen lùi lũi bên ao.

Chợt bóng đen ngã quỵ xuống đất, cuộn người, ôm mặt rên khóc. Dân làng hoang mang nhìn nhau, siết lấy gậy gộc trong tay toan xông đến. Thình lình một người đàn ông rẽ đám đông đi lên, im lặng huơ đèn một vòng rồi dừng ở ngay trước mặt, soi rõ cái lắc đầu dứt khoát. Y trỏ trỏ vào mình, hít sâu, siết chặt cán cầm, dè dặt nhấc chân. Cách bóng đen mươi bước đã ngửi được hơi men lãng đãng, càng đến gần mùi rượu càng nồng, lẩn trong đó là mùi trầm hương và mùi đốt lò gay mũi. 

Bóng đen còn chưa nhận ra hàng chục cái bóng khác đang vây xung quanh mình, chỉ rền rĩ khóc, miệng lẩm bẩm: “Trời ơi, thân tui… thân tui tội không.”

Nghe thấy giọng nói, người đàn ông tròn mắt, sải bước, bán tín bán nghi giơ đèn lên soi. Nửa gương mặt đỏ lừ đầy nước mắt của cái bóng dần hiện lên trong ánh đèn mờ. Thằng Phong! Hoá là thằng Phong! Thằng Phong điên con của ông bà Phú ở cuối làng Nhân Xá!

Người đàn ông ngoái lại báo danh tính, tức thì, đám đông yên ắng vỡ ra, ồ à rầm trời. Bấy giờ Phong như sực tỉnh cơn mê, lia đôi mắt vằn vện tơ máu ra xung quanh. Cái vẻ ngơ ngác của hắn không khác mọi ngày lắm, nếu có khác, hẳn là ở chỗ trông hắn ân hận và hèn mọn đến mức người ta phải mủi lòng. 

Người đàn ông lay nhẹ vai Phong, giọng bất giác dịu đi:

“Cậu ơi…”

Phong nhìn y, dại ra, đột nhiên hốt hoảng lắc đầu như trống bỏi, chắp tay lầm rầm xin tha mạng. Bất thần hắn lồng lên, xô ngã người đàn ông rồi chạy vòng quanh ao như bị ma đuổi. Đám đông cuống cuồng la hét, có kẻ co giò bỏ chạy, có kẻ đánh rơi cuốc thuổng, người lả đi, quỳ sụp xuống. Nhưng Phong vừa chạy vừa tránh, tuyệt không va vào một ai cả. Chạy nhẵn hai vòng, hắn hét toáng lên rồi nhảy ùm xuống ao. 

Ao không sâu, nước chỉ cao ngang người Phong. Hắn đứng dưới ấy như trời trồng, lần nữa ngơ ngác nhìn quanh cuộc hỗn loạn. Ký ức mới cũ thi nhau kéo về như thác lũ. Súng nổ đinh tai, voi ré toạc trời, khói từng cột bốc lên, người từng lớp ngã xuống. 

Máu. 

Máu đọng thành vũng, máu quyện vào bùn nhớp nháp ghì nặng bước chân, máu đọng trên mi mắt làm nhòe tầm nhìn, máu như xối như tuôn lên mặt người đối diện. Hắn không nhìn rõ, cũng không biết người mình đang giết là ai. Nhưng từ ngày có những ký ức đó, đêm nào hắn cũng mơ thấy mình đứng giữa chiến trường, xung quanh là hàng trăm hàng nghìn oan hồn đỏ như tắm máu thét vào mặt Phong bằng giọng the thé méo mó: “Sao lại giết tao? Trả mạng cho tao. Tao là người mình. Trả mạng cho tao!”

Gió đêm lùa qua, tê tái. Chiếc áo phong phanh không đủ giữ ấm cho Phong đã ngâm nước ao một khắc hơn. Hắn hồi thần, người run cầm cập mà vã đầy mồ hôi. Nhìn quanh lần thứ ba, vẫn là làng Nhân Xá. Chợt Phong lục tìm khắp người, lấy ra một chiếc xuyến bằng bạc. Hắn trợn mắt thở phì phò. Phải! Chính chiếc xuyến ấy! Chính nó đã theo hắn về từ chiến địa. Chính nó đã xui oan hồn đeo bám những giấc mơ của hắn suốt ba năm. Hắn ngửa đầu nhìn trời đêm, hết khóc lại cười, rồi giơ tay lên thật cao, ném mạnh chiếc xuyến bạc xuống nước.

Tõm. 

Tí tách… tí tách… 

Từng vòng sóng lan ra, lan ra, đứt vỡ khi chạm đến người Phong. Phong quay ngoắt, bì bõm lội nước, trèo lên bờ. Đoạn hắn hướng đến cổng làng, bước đi một mạch. Dân làng ngơ ngác, đến khi cái dáng liêu xiêu của Phong mất hút trong màn đêm mới chia nhau ra báo cho ông bà Phú và lần theo vết nước rỏ dưới đất. Vết nước dẫn đến chân một ngọn đồi thoải, mà trên ấy chỉ có độc một ngôi chùa.

***

Kinh thành ngày rằm tháng Ba, trời xam xám, nắng nhợt nhạt xuyên qua mưa phùn đậu trên những mái lá lúp xúp ở chợ Đông. Người đi chợ chật như nêm, Châu và đứa hầu gái đẩy chiếc xe gỗ cọt kẹt chen chân giữa đám người, đến khi không thở được mới dừng lại dưới cây đa ở ngã tư. Nghỉ một lát, nàng bấu tay vào gốc đa phía sau, nhón chân nhìn quanh. Kia rồi, hiệu bán ấm chén gần chùa Cầu Đông mà nàng tìm kiếm từ đầu hôm!

Cửa hiệu cũ kỹ không xây tầng, biển hiệu đề chữ “Gốm sứ” bạc màu nằm trên mái thấp, khiêm tốn nép mình cạnh những vách nhà mới toanh. Chật vật mãi hai người mới đẩy được xe hàng đến trước hiệu gốm. Chợ họp phiên chính, đầu giờ Tỵ hãy còn nườm nượp, ông chủ hàng lại ngồi tít trong nhà, phe phẩy quạt, lim dim mắt như sắp ngủ gật. Châu gõ cửa, ông giật mình đánh rơi quạt, chưa kịp nhặt đã vội vã chạy ra. Ấy là một người đàn ông trung tuổi, để ria mép và móng tay dài ngoằng. Trời còn chưa ấm hẳn, ông mặc áo thâm cổ tròn tay hẹp và quần trắng, đi chân đất. Vốn đang hồ hởi, chợt nghe người đến ở làng Thổ Hà, có chồng từng giao thương với ông, ông chán chường tặc lưỡi khoát tay:

“Cô muốn bán gốm thì xuống Phố Hiến mà bán, ở đây không làm ăn được gì đâu. Kẻ Chợ bây giờ có Bát Đàn, Bát Sứ chuyên bán đồ gốm rồi. Mấy năm nay hai đàng đánh nhau, thông thương không thuận, hiệu tôi buôn bán nhỏ lẻ, khách mua chẳng được mấy người.” 

Chợt như sực nhớ điều gì, ông ngoái người hỏi nàng:

“Mà này, cô ở Thổ Hà, nhà cô là ai thế? Sao tôi chưa thấy cô bao giờ?”

Châu sững người, mãi mới khẽ đáp: 

“Nhà cháu tên Phan Văn Lưu ạ.”


***

Bên trong cửa hiệu tối nhờ nhờ, đồ đạc không nhiều và được sắp xếp gọn gàng, nhưng ít cửa sổ nên trông không thông thoáng. Châu tháo nón đưa cho người hầu, tay ôm bình vôi nhà mình, ngồi ở bộ trường kỷ bằng gỗ kém chất đã sờn. Trong lúc ông Sử bày cơi trầu và chuẩn bị chè, nàng đặt bình vôi lên bàn, xoay tới xoay lui ngắm nghía. 

Chiếc bình mang sắc nâu sẫm ấm áp, một thứ màu thường thấy ở đồ gốm làng Thổ Hà. Thân bình tròn đều được khắc hoa văn chìm, quai bình đắp hình mây nổi đối xứng hai bên. Chuyên xong chè, ông Sử thử nhấc quai lên, lại thò ngón tay út móng hãy còn ngắn vào miệng bình sờ độ dày mỏng, tặc lưỡi không ngừng.

Ông ngồi xuống phía đối diện Châu, chần chừ hớp ít nước chè, mắt vẫn dán chặt vào chiếc bình vôi, giọng đầy hoài niệm:

“Lần đầu chào hàng với tôi cậu Lưu cũng mang bình vôi. Chiếc bình ấy mỏng mà chắc, có láng men, cũng màu nâu như chiếc này. Gõ kêu lắm, nghe như tiếng chuông vậy. Đã bảy năm rồi nhỉ… Mà mợ bảo cậu Lưu đi lính à, cậu đi khi nào, chưa có tin gì sao?”

“Nhà cháu đi hồi năm Tân Hợi, năm sau hai đàng đánh ở Bố Chính, nên chắc là vào trong ấy. Đánh xong nhà cháu không về, cũng không có ai báo tử.” Châu dừng một hơi như để nhẩm tính, “Lúc ông ấy đi, thằng cu của chúng cháu một tuổi, tháng sáu năm nay mới lên ba… Thế là gần ba năm rồi ông ạ.” 

“Mợ không hỏi thăm ở đâu ư? Người trong làng có ai đi cùng đợt không?”

“Quanh năm cháu ở trong làng, từ lúc ông ấy đi vắng, mẹ chồng mất, cháu mới ra mặt buôn bán, kể cũng không quen thân ai. Người làng có người về, nhưng… hỏi không được.”

Ông Sử quay đi, tâm trí lại hiện lên bọn trai tráng khúc chợ Đông năm nào bị xua ra trận, lúc về chẳng thấy ấm tước vinh quy bái tổ đâu, chỉ có đôi mắt mờ mịt và hoảng loạn mỗi khi nghe tiếng động lớn hay tiếng súng tập trận. Rồi ông chợt nhớ đến cậu Lưu. Người thanh niên ấy có làn da rám nắng, vóc thước không cao nhưng rắn rỏi, mỗi lần cười trông hồn hậu và dễ gần. Nhưng khi bàn chuyện làm ăn, đôi mắt sâu của chàng như xoáy vào người đối diện. Thỉnh thoảng, lúc trầm tư giữa cuộc chè nước, mắt chàng lại dõi ra xa, cời lên một lớp sương mờ, cũng gần giống như cái mịt mờ của những người vừa về từ chiến trận. Nhưng những năm ấy chàng mới mười chín, hai mươi.

Đi lại nhiều, ông biết gốc gác chàng không phải Kinh Bắc, cũng đoán chừng nhà chàng từ phương Nam lên. Thời nội loạn, chuyện lưu lạc rồi ngụ cư miền xa không hiếm. Sau này khi nhìn sành hàng gốm chàng mang đến, ông mới chắc quê chàng ở Bố Chính hoặc từng sống lâu năm ở Bố Chính, vì cách chuốt gốm và độ dày của gốm không giống hàng Thổ Hà mà giống của làng Mỹ Cương ở Bố Chính hơn. 

Nếu lần này Lưu có đi mà không có về thật, thì có tính là lá rụng về cội không nhỉ?

Trở về từ dòng hồi tưởng mông lung, ông Sử lại săm soi chiếc bình vôi. Ông đặt ngón út lên thân bình, làm động tác như gõ, nhưng ngón tay yếu ớt chạm vào lớp men chỉ phát ra những âm đùng đục, nhẹ hều. Rồi ông lại chụm tay xoay chiếc bình trên bàn, chờ xem nó ngả đi đâu, có đứng vững không. Châu thấp thỏm mím môi, hai tay xoắn lấy vạt áo. Chờ nàng uống nhẵn chén chè, ông mới đủng đỉnh lắc đầu:

“Cậu Lưu với tôi là chỗ quen biết, trước đây đồ gốm nhà cậu mợ còn rặt Mỹ Cương, hiệu tôi còn khá khẩm nên bán gì cũng được. Bây giờ gốm này lai căng, không Mỹ Cương cũng không Thổ Hà, ai nhìn mà không biết, khó lắm.”

Ông Sử bỏ lửng lời mình, cuối cùng kết thúc buổi chè và sự im lặng của người đối diện bằng một câu chắc nịch:

“Thôi, mợ thử nghe tôi, xuống Phố Hiến mà bán.”

***

Năm ngày ròng, chiếc xe gỗ cọt kẹt đi khắp kinh thành, qua bao nhiêu phiên chợ sáng chiều, hàng gốm trên xe mới vơi non nửa. Tiền thu được tiêu gần hết vào việc chuyển hàng và ngồi thuyền đi và về, số ít còn lại được nàng dành ra mua quà cho đứa con nhỏ. Chuyến này lên kinh không trắng tay, nhưng cũng chẳng xem là đáng giá. 

Về làng, từ xa Châu đã thấy hai bóng người đứng cạnh điếm canh vẫy tay, là một người đàn bà đầy đặn đang khom người nắm tay một đứa bé cao chưa đến hông. Nhận ra con trai và bà vú, Châu bước dồn đến gần, bế thằng bé Độ lên, hôn mải miết vào má nó. Nó cười như nắc nẻ, reo to:

“Mẹ về, mẹ về rồi.”

Dọc đường vào làng, nàng trêu đùa với con, thỉnh thoảng lại hỏi vú nuôi đôi câu. Bà nói sớm nay bõ già mời khách đến nhà, xem chừng bí mật lắm, bảo bà đưa thằng bé vào phòng chơi. Biết hôm nay Châu về nên thằng bé nhấp nhổm mãi, đòi ra cổng làng đón mẹ. Vậy là bà vú bế nó ra đây vừa chơi vừa đợi Châu những nửa canh giờ. 

Đến quãng giữa làng, Châu bỗng ngạc nhiên dừng chân. Trước mặt nàng là người thợ chở đất sét trung thành của xưởng đang đẩy một xe đất sét, nhưng hướng đi của y không phải lối đến xưởng. Nàng thắc mắc, y đáp rất mau: 

“À, mợ về. Bõ già bảo tôi mang ít đất sét đến nhà để bõ xem xét.”

Châu ngạc nhiên, nhích lên một bước:

“Anh có nghe bõ nói xem gì không?”

“Không ạ, nhưng vừa nãy bõ mời một người đến nhà, nghe làng mình bảo là thầy cúng. Ông này có tiếng chiêu hồn nạp táng ở Kinh Bắc. Sớm nay mợ đi chưa về, người ta đồn om sòm hết cả lên.”

Châu phì cười nhẹ nhõm, bảo y cứ mang đất sét đến xưởng; đằng này thì nhờ bà vú bế hộ đứa con trai về sau, còn mình xăm xăm đi trước. 

Nhà chồng nàng ở đoạn giữa làng, nhưng phải rẽ ba, bốn lần mới đến nơi. Ngôi nhà năm gian của gia đình ngụ cư gần như tách biệt khỏi xóm làng, vốn đã yên ắng nay lại càng vắng lặng. Nắng chênh chếch rọi. Trên lối vào lát gạch đỏ mòn vẹt, hoa cau lác đác rơi. Hai bên lối đi là viền cỏ cao ngang cổ chân người, đang rập rờn trong gió xuân muộn. Ao bèo phía này, chum vại phía kia, tấm liếp bạc màu, chiếc chõng con trước hàng hiên…, thảy vẫn y như mười ngày trước. 

Châu bỏ nón, thở phào, nhưng chưa dứt hơi đã lại phập phồng vì nghe tiếng trò chuyện từ trong vẳng ra. Là bõ già đang tiếp chuyện một người đàn ông ở gian bên. Thấy Châu về, ông khấp khởi nửa mừng nửa lo, lom khom vái chào rồi giới thiệu thầy cúng mình mời đến. Châu có vẻ không ưng bụng, người đầy tớ già cúi đầu tránh cái nhìn như xoáy của nàng, ngập ngừng:

“Thầy đến để xem ngày làm lễ chiêu hồn nạp táng cho cậu Lưu. Tôi biết không phải chuyện nay mai, nhưng còn nhiều thứ phải chuẩn bị, sợ cập rập nên phải vời thầy đến sớm.”

Châu sững sờ, bật cười khô khốc:

“Ô hay, bõ nói gì lạ thế. Chồng tôi đi lính chưa về chứ đã chết đâu mà chiêu hồn với chả nhập táng. Huống chi tôi đi vắng, sao bõ chưa hỏi ý tôi đã mời thầy?”

“Nhưng…”

“Thôi, có tin gì thì sau hẵng tính.” Châu nghiêm mặt, quả quyết ngắt lời, “Bõ đi lấy một ít biếu thầy làm lộ phí, rồi tiễn thầy giúp tôi nhé. Thứ cho tôi vừa đường xa về nhà, không tiễn thầy được.”

Nói xong không chờ bõ già đáp lời, nàng đi một mạch về phòng, đóng cửa cài then, ngồi bó gối trên sập. Tiếng bõ già ái ngại tiễn người và tiếng đáp xuề xòa của thầy cúng ngoài kia nhỏ dần. Sau chốc bần thần, nàng mở tủ áo lấy ra cái tráp gỗ to hơn hai bàn tay đựng tiền bạc và mấy món trang sức. Tiền không nhiều, bạc còn hai nén, trang sức là đồ hồi môn mẹ tặng ngày xưa. Chi dùng trong nhà hết bao nhiêu? Tháng này nếu xưởng thua lỗ, phải bù vào bao nhiêu? Nếu làm ma chay cho chàng, phải tốn bao nhiêu… 

Châu cười mỉa, lại cất cái tráp vào tủ, khóa trái cẩn thận, nhưng gương mặt hờ hững như thể cái tráp ấy rỗng không.

Chợt có tiếng gõ cửa chần chừ, bên ngoài phơn phớt một chiếc bóng thấp gầy, lom khom. Là bõ già vừa tiễn khách ra khỏi đầu làng quay về. Châu ngập ngừng hé cửa, cười gượng với ông. Ông vái chào, kéo vạt áo bạc màu lau đôi mắt kèm nhèm, cất giọng khàn khàn già nua:

“Mợ thứ lỗi cho tôi. Không phải tôi tiền trảm hậu tấu, mà định xem ngày giờ, chờ mợ về mới thưa lại.”

“Tôi không buồn bõ chuyện ấy…”

Giọng bõ già nghèn nghẹn như mắc tóc ở họng:

“Mợ thương cậu, tôi cũng thương. Tôi trông cậu từ bé đến giờ, sao lại muốn cậu chết được. Nhưng cậu đi gần ba năm rồi, hay là… để cậu yên nghỉ thôi, mợ ạ.”

Ba năm. Mỗi lần nói hai tiếng ấy Châu phải dừng lại một lát, tính toán thật kỹ. Người khác nói sao mà trơn tru, mà nhanh thế, vô tư lự như đứa trẻ đang tập đếm. Nàng bấu tay vào khung cửa, giọng nhẹ bẫng:

“Sao bõ cứ ra dáng chắc mười mươi là chồng tôi chết rồi? Làng mình còn vài người cũng chưa về, đã ai làm ma chay, giỗ cúng gì đâu.” 

Bất chợt người đầy tớ già ôm mặt, thân mình còm cõi run lên từng đợt như cây khô oằn trong gió bão, khẽ thốt, “Trước khi đi cậu dặn tôi, một năm sau thấy cậu không về thì cứ hay là cậu tử trận, rồi đưa cho mợ thứ này.”

Dứt lời, ông đưa cho nàng một bọc vải nhỏ và mỏng. Thứ đồ nhẹ tênh mà nặng tựa nghìn cân, kéo bõ già quỳ sụp xuống ngay trước mặt thiếu phụ. Nàng bước khỏi cửa, đón lấy bọc vải được dâng lên như cách người ta dâng món gì quý báu lên chúa, lên vua. Châu run run giở ra. Là nửa đồng xu được bẻ rất ngay và một lá thư thôi vợ.

***

Từ dạo biết chuyện, Châu lặng lẽ hơn hẳn. Thỉnh thoảng bõ già lại bắt gặp nàng ngây người trước bàn thờ bố mẹ chồng, mắt đỏ hoe chực khóc, điệu muốn đốt hương cho ông bà cụ nhưng thôi. Nàng cũng không còn năng đến xưởng gốm như trước kia, chỉ luẩn quẩn trong phòng với con. Được một quãng, Châu ngã bệnh, mặt bủng beo, tay chân gầy nhẳng. Một bận nắng gắt, nàng ngất xỉu dưới gốc cau trước nhà. Tỉnh dậy, thấy thầy thuốc đang xem mạch cho mình, nàng lại nhắm mắt, thều thào:

“Sao không để tôi chết quách cho rồi.”

Dứt lời, nàng tự đáp:

“Chết rồi tiền đâu đem chôn.”

Thầy thuốc đi rồi, từ cửa phòng ló ra cái đầu nhỏ xíu. Là thằng bé Độ. Nó vừa lên ba, đang tuổi ăn tuổi lớn nhưng chẳng mấy khi có áo mới, bấy giờ đang mặc chiếc áo vải từ mùa thu năm ngoái, ngắn cũn cỡn không che hết cái bụng phình to. Chờ người trong phòng đi hết, nó trèo lên giường nằm cạnh mẹ, dụi đầu vào người mẹ cách một lớp chăn. Châu trở người vỗ về con:

“Mẹ đang bệnh, đừng tới gần, không mẹ lại lây cho con.” 

Như phát giác điều gì, thằng bé không chịu xuống giường, ôm siết lấy mẹ, sụt sịt:

“Bố bỏ con rồi, mẹ đừng bỏ con nhé.”

Thiếu phụ im lặng, nước mắt lăn dài trên đôi má xanh xao hốc hác. Nàng cắn môi kìm tiếng nấc lại, nghĩ bụng, Lưu bỏ vợ chứ đã bỏ con đâu. Nhưng bây giờ chàng đi biệt rồi, chết sống không rõ, dù còn sống cũng không quay về. Thế thì bảo bỏ con cũng đúng. 

Ồ, thế đấy, vợ con chàng chẳng bằng một lão đầy tớ. Bõ già còn được chàng căn dặn đôi câu, còn nàng và con, từ trước lúc tòng quân chàng đã lạnh nhạt hẳn. Ngày xưa, những đêm âu yếm trước lúc chàng đi làm ăn xa, chàng thường thủ thỉ dặn dò nàng chăm nom mẹ già và nhà cửa. Chàng dặn nàng đừng lao lực quá, còn hay bảo, mình ở nhà chờ anh nhé, anh đi ít hôm lại về.

Lần cuối cùng chàng không dặn dò gì, nàng nghi ngờ mãi, hoá ra chàng muốn bỏ hết tất cả ở Kinh Bắc mà đi.

Tháng lại ngày qua, Châu hờ hững dần, không buồn không vui, chỉ cố nuôi con và gánh gồng xưởng gốm. Giờ đây làm gốm là kế sinh nhai duy nhất, nhưng cứ thất bát mãi. Cảnh nhà túng quẫn, nàng đã cho vú nuôi và vài người nữa ở xưởng thôi việc rồi. Giữa lúc Châu toan đóng xưởng để quay lại nghề làm nem xưa, ông Sử trên kinh chợt gửi đến một lá thư. Thư rất ngắn gọn, bảo rằng ông có một vụ làm ăn béo bở – dù hơi mạo hiểm, vì nghĩ tình nghĩa với cậu Lưu nên rủ nàng đánh liều một phen. Được ăn cả, ngã lại chẳng đến nỗi về không. Trong thư không thể dông dài, ông mời nàng lên kinh một chuyến để tiện bề thương thảo.

(Đây chỉ là một nửa nội dung, bản này không đính kèm chú thích, mời bạn mua sách để đọc trọn bộ).

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout