Tuổi hai mươi đại thắng quân Chiêm, dẫu thế giặc hiểm nguy, dẫu đang đà thất trận.
Chín năm sau, xương tàn nơi chân núi, ngậm ngùi mang mộng lớn bại vong.
“Chẳng trách người xông pha trận mạc, chẳng trách kẻ chí lớn bền gan, chỉ trách thế thời nhiễu nhương, năm tháng qua đi đều bỏ lại đằng sau những kiếp đời dâu bể.”
Cuối tháng Sáu, bão lớn cuốn theo những gò đất lở. Trong thái ấp, Trần Khát Chân đứng lặng, nhìn nước đổ trắng trời, cảm nhận từng chút rùng mình lướt qua da thịt. Như chợt nhớ đến điều gì, ngài nói bâng quơ:
“Nghe đâu năm xưa mùa thu bị lụt lội, dân chúng khốn đốn. Nay bão lớn lại đến giữa hè…”
Ngọc Dao vừa pha xong chén trà, nghe vậy thì chợt nói:
“‘Niên lai hạ hạn hựu thu lâm; Hòa cảo miêu thương hại chuyển thâm’, phải chăng ý tướng quân là câu này?”
Trần Khát Chân giật mình, ngoảnh sang, thấy người hầu đã chuẩn bị trà nước tươm tất. Ngài ngạc nhiên:
“Sao ngươi lại biết thơ của quan Tư đồ?”
Ngọc Dao rót trà, bình thản trình bày:
“Nhà con vốn xuất thân thường dân, không có mấy của ăn của để, chút ít vốn liếng đều dồn cho anh trai học hành, mong sau này đỗ đạt. Chỉ có điều…”
Nàng không nói cho trọn, nhưng ngài thừa hiểu. Bấy lâu nay triều đình không mở khoa thi, chính sự ngổn ngang còn chưa giải quyết hết. Thượng hoàng không nghe lời can gián, để Lê Quý Ly cùng bè đảng lộng hành, tình hình đã loạn lại càng thêm loạn. Trần Khát Chân thở dài, dù khoa cử vốn không phải con đường tiến quan của ngài, nhưng chuyện người tài vắng bóng, thời nào cũng là sự đáng lo.
“Vậy là ngươi cũng được anh trai dạy chữ?”
“Con chỉ nghe lỏm được vài câu, không dám nói bừa…”
“Thôi, mấy thứ thi phú bóng bẩy đó, ngươi đọc làm gì. Chẳng phải là ‘Tam vạn quyển thư vô dụng xứ/Bạch đầu không phụ ái dân tâm.’ hay sao?”
Ngọc Dao dè dặt:
“Nhưng nói vậy… ngài cũng đọc đó thôi.”
Người đối diện cười trừ. Trong mắt Trần Khát Chân, vị quan Tư đồ kia dẫu văn tài uyên thâm, nhưng chẳng có mấy bản lĩnh can gián Thượng hoàng. Kẻ không đem sở học ra giúp nước mà chỉ biết lánh đục tìm trong, chăm chăm thu vén cho lợi ích dòng tộc như Trần Nguyên Đán, ngài không lấy gì làm phục.
Đối với Trần Khát Chân, ngài luôn sẵn lòng phơi tấm gan trung, làm anh hùng lấp sông bạt núi. Bởi thế, nên ngay cả khi chỉ là vị đô tướng trẻ người non dạ, giữ chức tước thấp hèn, ngay cả khi thế giặc hỗn loạn, kẻ trên cao thi nhau tìm cách thoát thân, ngài vẫn tạ ân đức được tin cẩn mà xông pha trận tiền. Năm đó, nếu không phải do ngài phục binh tài tình, tông tộc họ Trần đã một phen lao đao trước quân Chiêm Thành hung hãn.
Khát Chân nhìn nàng, lắc đầu:
“Ta là kẻ võ biền ít học, không lĩnh hội nổi tài văn mặc của lão già đó.”
Ngọc Dao bối rối. Cảm thấy tướng quân như thế chẳng khác nào mỉa mai, nàng nói lí nhí:
“Con không dám…”
Ngài chẳng đáp, lại ngoảnh sang nhìn cảnh vật ngoài trời. Mưa đã ngớt dần, cảnh sắc đã bớt mờ mịt, trông ra xa còn thấy thấp thoáng bóng dáng cành mai khẳng khiu ngoài vườn. Mấy cái cây này được ngài mang về thái ấp từ lâu, dặn Ngọc Dao chăm sóc để đến lúc trời rét sẽ được nhìn thấy sắc trắng bung nở.
Nói là để nàng chăm sóc, nhưng Ngọc Dao biết chính Trần Khát Chân mới là người nghĩ về chúng nhiều hơn cả. Trong những ngày đông lạnh buốt, mỗi một khoảnh khắc phóng tầm mắt vào thinh không, ngài sẽ nhìn về những cành cây trọi lá. Cảm tưởng như chỉ cần chờ thêm một chút, đáp lại ngài sẽ là những chùm hoa nhỏ nhoi nhưng lại mang một khí phách đủ để vươn mình giữa cái rét mướt của tháng Năm.
Trong không gian chỉ còn nghe tiếng mưa, Ngọc Dao lặng lẽ nhìn bóng dáng tướng quân dưới ánh chiều nhàn nhạt. Chẳng hiểu từ bao giờ, chính nàng cũng muốn cùng ngài đợi thêm vài mùa mai nở, chờ thêm ngày sắc trắng ấy phủ đầy trong những cơn mơ hoang lạnh của riêng ngài.
Nàng cho rằng Trần Khát Chân không phải kẻ “võ biền ít học” như cách mà ngài luôn ra rả. Ngọc Dao càng chắc chắn hơn với suy nghĩ này khi mà nhiều tháng sau, lúc nghe tin Trần Nguyên Đán mất, tướng quân trở nên suy tư hơn hẳn mọi ngày. Ngoài miệng thì nói là “lão già”, nhưng khi ông cưỡi hạc quy tiên, ngài dành cả ngày để ngồi lặng trong thư phòng.
Hôm đó, mãi đến tận lúc khuya, ánh nến vẫn leo lắt. Ngọc Dao bước vào, thấy Trần Khát Chân ngồi gục trên án gỗ, bên cạnh là vò rượu và mấy tờ giấy hoa tiên chép lại những câu thơ của quan Tư đồ.
“Tọa đãi công thành danh toại hậu
Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng”
Ngọc Dao vừa nhẩm đọc, vừa tự hỏi trong lòng tướng quân đang trăn trở điều gì. Nàng chậm rãi cầm lấy chén rượu ngài uống dở, lén nhấp một ngụm rồi lập tức chau mày. Có lẽ là vì để bên ngoài đến khuya nên uống vào chỉ thấy lạnh tanh, hương thơm phảng phất vốn có khi ấm nóng cũng chỉ ít ỏi trước sự nhẩn đắng ám ảnh nơi hậu vị.
“Đằm quá…”
Nói rồi, nàng lại nhìn gương mặt ngài. Ánh sáng mờ của ngọn nến sắp tàn vẫn soi rõ từng nét sắc cạnh và vẻ cương nghị của một võ tướng. Phải, kẻ khảng khái kiên trung, ngoài chiến trường thì tấn công bão táp như mưa sa chớp giật, sao có thể mang phong thái tầm thường. Ngọc Dao muốn chạm vào từng đường nét ấy, nên chậm rãi đặt chén rượu xuống bàn. Nào ngờ, ngài bất chợt nắm chặt lấy cổ tay nàng, ngước mắt lên, thẳng thừng đối diện với sự bối rối nơi nàng. Tướng quân trầm giọng, câu nói thốt ra không thể giấu nổi sự váng vất của kẻ say:
“Thấy rượu có thơm không?”
“Thơm” ư? Nàng lắc đầu, rồi gom nhặt hết sự bình tĩnh để đáp lời ngài:
“Hóa ra, uống cùng một loại rượu nhưng lại không cảm thấy cùng một hương vị.”
Trần Khát Chân bật cười, vẫn là cái cong môi nhiều ẩn ý mà thi thoảng ngài lại dành cho nàng. Ngài kéo Ngọc Dao vào lòng, mùi rượu lúc này đã gần kề gương mặt lúng túng của nàng:
“Không cùng một hương vị… Nhưng uống say vào rồi… ta nghĩ là sẽ có cùng một cảm giác.”
Ngọc Dao đối diện với ánh mắt phảng phất nét ưu tư khó tả của Trần Khát Chân, không thể kìm được mà chạm vào đường nét cứng cỏi trên gương mặt ngài. Vị tướng quân ghì lấy nàng, mang cơn say len lỏi vào nơi khóe môi người đối diện, đáp lại sự đón nhận của Ngọc Dao bằng trọn vẹn những nồng nàn của men rượu thơm cay.
Đêm đông ấy, cây mai thả vào cảnh khuya một nhánh hoa trắng ngần. Cho đến khi trời rạng sáng, cơn gió nhẹ cũng đủ khiến tiết trời se se. Vạn vật chuyển mình, chỉ có lòng người như mắc kẹt trong những xúc cảm say sưa khó gọi tên.
Ngọc Dao choàng tỉnh, sau khi định thần lại mọi chuyện đêm qua, nàng không khỏi rối bời. Nàng khẽ khàng ngồi dậy, định rời khỏi vòng tay ngài, nhưng Trần Khát Chân đã kịp siết chặt, không cho người trong lòng rời đi.
“Tướng quân… con… con không nên ở đây nữa. Nhỡ đâu người trong thái ấp biết…”
“Thì sao?” Ngài nói, cằm tựa vào vai nàng, hơi thở vẫn còn lưu luyến men say.
“Vì… vì dù gì…”
Ngài hỏi, chẳng rõ là thái độ gì:
“Dù gì cũng chỉ là một đêm quá chén?”
Nàng dè dặt gật đầu, còn chẳng thốt nổi một lời đáp. Trần Khát Chân cười trừ. Trong lòng nàng, cuộc gối chăn vừa rồi cũng chỉ là chuyện lỡ xảy ra? Ngài không muốn Ngọc Dao nghĩ như thế.
Vì sự thực vốn đâu phải như thế?
“Sẽ không có chuyện ta để em thiệt thòi.”
Ngọc Dao giật mình, quay lại nhìn ngài. Ánh mắt Trần Khát Chân mang một vẻ kiên định không chút phỉnh lừa. Hắn nói, từng lời chậm rãi:
“Nhưng bây giờ thì… có những chuyện…”
“Con không hề mong cầu gì cả.” Nàng không để hắn nói hết câu.
Phải, trong lòng Ngọc Dao, chỉ cần được ở bên cạnh hầu hạ tướng quân, làm kẻ giúp ngài khuây sầu để ngài dồn hết tâm can vào việc binh đao và xả thân vì nghĩa lớn, như vậy đã đủ mãn nguyện. Triều đình đang mấy phen quần ngư tranh thực, còn bao can qua mới đến ngày thái bình trường cửu, Trần Khát Chân sẽ không tránh được chuyện lao tâm khổ tứ. Nàng chẳng góp được chút sức mọn gì cho ngài, nên không muốn đòi hỏi gì để ngài bận lòng.
Nghĩ thông suốt rồi, Ngọc Dao xin phép rời đi, để lại ngài nằm trầm ngâm với những suy nghĩ riêng. Có rất nhiều thứ ngài không thể nói ra với ai, bởi tham vọng về một công cuộc lớn đang được nung nấu trong lòng ngài vốn là chuyện tuyệt mật. Chỉ đến khi nào tụ tập đủ lực lượng, thời cơ chín muồi mới có thể hành động. Cho đến lúc đó, dẫu đã không thể giấu nổi những tâm tư trói buộc trái tim mình bấy lâu, ngài vẫn phải chọn cách gác lại.
(Đây chỉ là một nửa nội dung, bản này không đính kèm chú thích, mời bạn mua sách để đọc trọn bộ).
Bình luận
Chưa có bình luận