“Đoài ơi... Con ơi... Mẹ van mày... Mẹ lạy mày... Về đi con ơi...”
Bà Đón vừa gào khóc vừa chạy từng bước tấp tểnh mong đuổi kịp thằng Đoài mà ngăn nó lại, không để nó gây ra án mạng. Đây không biết đã là lần thứ bao nhiêu trong tháng này, trong năm nay, trong “cuộc đời rách nát như chó gặm” này, bà phải vừa khóc mếu vừa chạy theo nó như thế rồi.
Thằng Đoài năm nay đã gần ba mươi tuổi, mặt mũi, người ngợm đều đen bóng, chằng chịt sẹo ngang sẹo dọc. Tóc tai chẳng bao giờ thèm cắt tỉa gọn gàng mà để dài bờm xờm, lại còn nhuộm cái màu đỏ rực, nhìn ngứa mắt vô cùng. Nhưng ai ngứa mắt thì cũng chỉ có nước về nhà mà gãi hoặc thầm chửi rủa nó trong lòng thôi. Nhìn cặp mắt trắng dã, gườm gườm như mắt sói hoang của nó, đố ai dám nói gì.
Chẳng ai biết nó làm nghề gì, lúc nào cũng chỉ thấy tụ tập với đám trẻ ranh choai choai, lúc thì ngồi đầu cầu phì phèo hút thuốc, lúc thì quây quanh gốc cột điện sát phạt nhau bằng mấy tấm bài đỏ đen. Lâu lâu nó lại đi biệt tăm, biệt tích một thời gian, lúc quay về làng thì nghênh ngang, hào phóng lắm!
Người làng lén lút kháo nhau nó làm xã hội đen, nó buôn bán chất cấm, nó đâm thuê chém mướn, nó đòi nợ thuê, nó nghiện hút, nó bị truy nã... Đủ các thể loại tin đồn nhưng lúc nào cũng chỉ là lén lút, thậm thụt nói với nhau mà thôi. Bởi người ta sợ nó. Sợ thật.
Nó làm gì, bị gì cũng chỉ là lời đồn nhưng nó khùng điên, bạo lực, uống “ba xu dấm” xong là lè nhà lè nhè, chửi trời, chửi đất, chửi người, điên chút nữa là vác dao đuổi chém người thì tuyệt đối không chỉ là lời đồn. Là thật.
Hôm nay cũng thế. Nó với đám choai choai lêu lổng trong làng tụ tập với nhau làm thịt chó, thịt mèo gì đấy, xôn xao, ầm ĩ cả một góc làng suốt một buổi chiều. Nhậu nhẹt, hò hát đến nửa đêm thì tiếng loa đài mới dứt. Hàng xóm chưa ai kịp thở phào vì cái tai được tha thì đã lại bị tra tấn tiếp bởi một màn cãi lộn, chửi bới kinh thiên động địa. Tiếp sau đó là tiếng bước chân người chạy rầm rập, tiếng hò hét, tiếng dao và ống thép nện chan chát vào nhau.
Xen lẫn giữa những âm thanh khiến người ta sợ hãi, khinh ghét kia là tiếng khóc lóc, van xin lọt thỏm vào bóng tối của bà Đón. Mọi người cũng thấy thương cảm nhưng không ai dám ra giúp bà ấy. Bởi giữa trận chiến hỗn loạn của con bà ấy và những đứa lêu lổng kia, giữa dao kiếm, gậy gộc kia, ai biết đâu được, đầu không phải, phải tai...
“Con với cái... Khốn nạn! Chỉ khổ mẹ nó thôi.”
“Khổ gì mà khổ... Đều là do bà ấy tạo nghiệp mà thành cả thôi...”
Mấy bà cô, bà thím bởi đằng nào cũng mất ngủ rồi nên lại tụ tập với nhau thì thà thì thụt nói những câu chuyện truyền miệng, đồn đoán, đã qua từ thuở nảo thuở nào.
Ngày còn con gái, bà Đón thuộc dạng “cao số”, “không ai dòm ngó” bởi nước da đen nhẻm, người cao ngổng nghểu lại gầy đét như cành củi khô. Thế nên, trong khi đám con gái bằng tuổi lần lượt lấy chồng hết mà bà vẫn cứ ở với bố mẹ và các anh. Đến khi bố mẹ mất, anh trai út cưới vợ thì bà không ở chung nữa mà xin cắt miếng đất xó làng, dựng một ngôi nhà con con định cứ yên ổn như thế mà sống đến hết đời.
Trong làng lúc đó có ông Kim nổi tiếng hào hoa, có vợ con đuề huề rồi mà vẫn phong độ ngời ngời, vẫn chỉ cần một nụ cười là hạ gục một trái tim thiếu nữ.
Trong số những người say mê ông Kim có cả bà Đón. Bà say mê ông như điếu đổ. Người ta kháo nhau, trong một buổi liên hoan làng, bà còn bạo gan viết giấy hẹn ông ra nói muốn xin ông một đứa con. Cuối cùng chẳng biết đẩy đưa thế nào mà ông bà có với nhau một đứa con gái. Sự việc chẳng cần đợi ai chọc cho vỡ lở bởi ông Kim vốn không thèm che dấu. Ông công khai một tuần mấy buổi đến căn nhà con con nơi xó làng của bà Đón giúp bà chăm sóc đưa con mới sinh. Bà Đào vợ ông ngậm đắng nuốt cay nuôi bốn đứa con nheo nhóc.
Nghe đâu ngày ấy ông Kim còn dắt bà Đón với đứa con đỏ hỏn về xin bố mẹ chấp thuận cho ông qua lại với bà ấy, cho đứa con được nhận tổ tiên bởi trẻ con không có tội. Bố mẹ ông thương xót con dâu và mấy đứa cháu nên nhất quyết phản đối, ông Kim giận dỗi cuốn gói đồ đạc đến ở luôn nhà bà Đón.
Không ai kể ngày ấy bà Đón có làm gì quá đáng không, cũng không ai biết bà có “bỏ bùa mê thuốc lú” cho ông Kim như mẹ ông thường chửi đổng không mà chỉ truyền miệng nhau kể lại chuyện bà trơ trẽn, mặt dày, bám dính lấy người đã có vợ con mà thôi.
Mà kể cũng mặt dày thật. Dù chẳng được ai chấp thuận nhưng ba năm sau bà vẫn có với ông Kim thêm đứa con nữa, chính là thằng Đoài.
Bố mẹ ông Kim cùng năm ấy đều qua đời, toàn bộ tài sản đều viết di chúc để lại cho con dâu và các cháu hết, ông Kim không được một xu.
Ông Kim lúc đầu cũng nghênh ngang, ra vẻ không thèm. Sau đó, đến khi chị em thằng Đoài đi học, cần phải đóng bao nhiêu khoản tiền, ông mới thấy túng quẫn, mới thấy “một túp lều tranh hai trái tim vàng” thôi thì chưa đủ. Để hạnh phúc, vẫn cần dầu gạo mắm muối, cần sách vở, áo quần, cần tiền.
Ông Kim lại muối mặt dắt díu mẹ con bà Đón quay về nhà, lúc này đã là nhà riêng của mẹ con bà Đào, quỳ gối cầu xin bà Đào nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng ngày trước, cho ông lấy mấy chỉ vàng để ông dẫn mẹ con bà Đón đi nơi khác làm ăn. Bà Đào không đồng ý, một xu cũng không cho chứ đừng nói đến mấy chỉ vàng. Ông Kim dắt mẹ con bà Đón đi. Nhưng rồi chỉ “ba bảy hai mươi mốt” ngày sau người ta đã thấy ông Kim lếch thếch trở về làng, mẹ con bà Đón thì chẳng thấy đâu. Rồi chẳng biết bởi lý do gì mà ông Kim lại trở về sống với mẹ con bà Đào như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Mẹ con bà Đón thì sau những ngày lang bạt cũng yên ổn sống trong ngôi nhà rách nát ở nơi mà người ta không biết mẹ con bà là ai. Thế nhưng lúc này, bà Đón túng quẫn, đau khổ cùng cực nên bao nhiêu phiền muộn, tủi hờn, bà đem trút hết lên hai đứa trẻ con.
Hai đứa con bà tị nạnh nhau rửa bát, quét nhà, bà lôi cả hai ra, quất cho mỗi đứa một trận mà đến ba ngày sau, những vết lằn ngang dọc cũng không tan hết.
Hai đứa con bà học đòi con nhà hàng xóm đòi tổ chức sinh nhật, vòi vĩnh đòi bánh kẹo, đồ chơi, bà cũng chẳng nói chẳng rằng, cầm roi vụt cho một trận đau đến nỗi hai đứa nó sau này không biết khái niệm “sinh nhật”, cũng quên luôn ngày mình được sinh ra.
Hai đứa con bà đi học bị điểm kém, bà xé hết sách vở rồi cũng cầm roi quất cho mỗi đứa một trận khiến hai đứa nó mỗi lần phải viết bản kiểm điểm, cần chữ ký phụ huynh thì chị lén lút ký cho em, em lén lút ký cho chị, không bao giờ dám để hở cho mẹ biết.
Con Thương, chị thằng Đoài, ít ra còn được ở với cả bố đến năm lên sáu, đến khi bố nó về nhà “mẹ cả” rồi mới bị đánh nhiều còn thằng Đoài thì gần như từ lúc mới lên ba đã phải ăn đòn thay cơm mà lớn.
Con Thương đến tuổi dậy thì, rón rén, sợ sệt nói với mẹ khi lần đầu tiên thấy có máu chảy ra từ cơ thể, bà Đón chẳng những không dạy bảo gì mà còn chửi mắng bằng những lời cay độc khiến con bé sợ hãi ngồi ngây ra.
“Chúng mày là cái lũ nghiệp chướng...”
“Chúng mày làm khổ đời bà.”
“Bà đã bao nhiêu thứ việc nó đổ vào đầu rồi mà mày còn mang cái thứ của nợ này cho bà lo nữa à?”
“Mả cụ nhà mày... Bà cho... Không cẩn thận rồi ễnh bụng ra đấy thì chết cụ nhà mày...”
“Không giữ gìn cái thân mày thì sau này chó nó cũng không thèm rước.”
“Rồi lại khốn nạn cái đời bà...”
Sau đó con Thương không hỏi nữa. Nó tự nhặt nhạnh những mảnh áo quần rách nát trong nhà thay cho miếng lót. Lớn hơn một chút, thấy bạn bè khoe nhau băng vệ sinh loại này mềm, loại kia thơm, nó vừa tủi thân vừa ghen tị. Một lần, nó bị bà Dậu hàng xóm xách nách, lôi xềnh xệch về nhà gọi ngõ bà Đón bởi bà ta bắt gặp nó lấy trộm quần lót và băng vệ sinh của cái Hài, con bà ấy.
Bà Đón chẳng nói chẳng rằng, rút cái gậy to bằng cổ tay, nhằm con Thương phang lấy phang để, không quan tâm sẽ đập trúng chỗ nào. Bà Dậu thấy thế cũng ái ngại bèn nói một hai câu rồi đi về.
Con Thương bị ăn đòn nhiều nên đã chai lì. Bị đánh đến gãy cả gậy mà vẫn gườm gườm nhìn bà Đón, không thèm khóc lóc, van xin gì cả.
Vài tháng sau thì nó bỏ nhà đi. Hàng xóm có người thương xót, có người mỉa mai. Riêng bà Đón chỉ lạnh lùng ném ra một câu “nó đi đâu chết được thì cứ đi cho khuất mắt tao”.
Thằng Đoài lúc bé đi học bị các bạn trêu chọc là “đồ không có bố”, bị đánh, bị bôi mực lên quần áo, bị xé sách vở, bị đẩy ngã xuống cống... Nó tức tưởi khóc chạy về mách mẹ cũng bị bà Đón quất cho một trận. Bà còn cay nghiệt chửi mắng nó bằng những từ ngữ khó nghe nào như “nghiệt súc”, “nghiệp chướng”, nào như “giống của nợ”, “giống trắng mắt như thằng bố mày” khiến thằng Đoài sợ hãi đến nỗi quên cả nỗi tủi thân bị bạn chế nhạo, bắt nạt, sợ đến nỗi đứng run lẩy bẩy, tè cả ra quần.
Không có tiền đóng học phí, nhà trường đã nhắc đến chục lần mà thằng Đoài vẫn không dám nói với mẹ. Bởi nó biết, có nói thì cũng bà Đón cũng không cho nó tiền, cũng chẳng có tiền cho nó mà sẽ mắng nhiếc, thậm chí sẽ rút gậy đập nó nhừ tử. Thằng Đoài bắt đầu ăn cắp tiền. Từ vài nghìn tiền quà vặt của bạn học đến vài chục nghìn tiền đi chợ của bà hàng xóm đến vài trăm nghìn tiền quỹ lớp thầy giáo mới thu rồi đến vài triệu tiền hàng của cửa hàng gần trường.
Nó bị công an cảnh cáo rồi giao lại cho nhà trường. Nhà trường giao lại nó cho gia đình giáo dục. Gia đình thì...
Bà Đón nhìn thầy hiệu phó nói chuyện của thằng Đoài bằng ánh mắt rời rạc, vô hồn, chẳng ừ hử gì khiến thầy lúng túng, nói xong lý do là xin phép ra về luôn.
Thằng Đoài chính thức nghỉ học khi mới mười một tuổi. Nó lang thang lêu lổng khắp đầu đường này đến xó chợ khác, đánh lộn, gây gổ, giành giật với đám trẻ lang thang như chó hoang tranh cướp đồ ăn thừa. Thế nhưng khác với chị nó, bỏ đi biệt tích, nó dăm bữa nửa tháng lại về nhà cãi lộn, chửi bới nhau với bà Đón một lần.
“Đời bà bà sống, đời tôi tôi sống. Đừng có lắm mồm...”
“Bà là mẹ mày. Bà đẻ ra mày mà không được nói mày à? Đồ chó má mất dạy...”
“Bà đã nuôi thằng này được ngày nào chưa mà giở giọng với tôi?”
Trong những trận cãi vã, người ta gần như không lần nào không nghe thấy mẹ con bà Đón mỗi người một câu, gào lên như thế.
Một ngày, có mấy người công an đến nhà tìm bà Đón. Lúc mới nhìn thấy, người làng ai cũng nghĩ ắt hẳn thằng Đoài lại đi gây họa ở đâu nên người ta về tìm mẹ nó rồi. Thế nhưng sau cùng, khi nghe thấy tiếng gào khóc thê thảm của bà Đón, người ta mới ngỡ ngàng bởi người có chuyện lần này là con Thương chứ không phải thằng Đoài.
Con Thương bỏ đi mấy năm, chẳng biết đi đâu, làm gì, cũng chẳng một ai trong làng vô tình gặp nó. Cho đến tận ngày hôm đó, khi mấy người công an đến tìm bà Đón thì người ta mới biết thông tin. Thì ra con Thương lang bạt lên tận vùng biên giới, bị cưỡng bức, bị lừa bán. Nó thoát được thì lại trở thành một mụ tú bà lừa bán những cô gái khác ngây ngô như nó năm nào. Cuối cùng nó bị bắt vì tội buôn người, buôn bán chất cấm, phải nhận bản án cao nhất là tử hình. Các đồng chí công an đến nhà là để báo tin cho bà Đón đồng thời đưa cho bà lá thư viết trước giờ thi hành án theo nguyện vọng cuối cùng của con Thương.
Cũng không ai biết trong là thư cuối cùng, con Thương đã gửi gì cho mẹ nó, chỉ biết sau khi đọc xong thư, bà Đón khóc một trận tê tâm liệt phế. Vài ngày sau bà đi thăm mộ con Thương, lúc trở về bị ốm một trận thập tử nhất sinh, sau đó thay tâm đổi tính như thể biến thành một con người khác.
Bà Đón không còn chua ngoa, mạt sát người ta nữa. Tuần rằm, người ta còn thấy bà sắm lễ, dâng hương lên chùa. Có điều, thằng Đoài con bà thì vẫn không thay đổi gì, có chăng thì chỉ là điên cuồng hơn, xấc láo hơn thôi.
Mỗi lần thằng Đoài gây gổ, bà Đón lại là người đầu tiên lao ra khuyên giải nó. Đã không ít lần bà bị gậy trong tay nó đập cho gãy xương, bị dao trong tay nó chém cho rách thịt. Nhưng bà vẫn lao ra, vẫn cố kéo thằng Đoài về.
“Nó là con tôi... Tội nghiệt của đời tôi đã trút hết xuống đầu hai chị em nó. Giờ tôi phải cố kéo nó lại làm người... Đời nó còn dài...”
Không ít lần khi được người làng khuyên can, bảo bà đừng lao ra lúc nó cầm dao, cầm gậy đánh nhau, bà Đón bần thần nói thế.
Đêm nay, lại một lần nữa bà Đón lao ra, vừa khóc lóc, vừa tấp tểnh chạy theo thằng Đoài để ngăn nó chém người ta. Người làng đã quá quen với cảnh này rồi. Người ta còn ngồi nói với nhau lát nữa khi không đâm chém được ai thì thằng Đoài sẽ nói câu nào với mẹ nó đầu tiên. Thường thì có mấy câu mà lần nào nó cũng nói, chỉ đảo thứ tự: “bà cút sang một bên”, “bà rách việc vừa chứ”, “bà không muốn chết thì đừng ngáng chân tôi”. Không biết đêm nay nó sẽ nói câu nào trước.
“Con mẹ mày... Con mẹ cuộc đời...”
Tiếng thằng Đoài gào như điên dại từ phía đầu cầu vọng vào khiến người ta chưng hửng vì không đoán trúng câu đầu tiên nó nói sau trận hỗn chiến như mọi lần.
“Thằng Đoài... Đoài... Nó... Nó giết... Giết mẹ nó... Mẹ nó rồi...”
Vợ chồng ông San đang lục tục chuẩn bị chui vào màn đi ngủ thì thằng con “bán trời không văn tự”, cùng hội cùng thuyền với thằng Đoài ở đâu chạy về, lắp ba lắp bắp nói mãi mới hết một câu. Hai mắt nó đảo loạn, chân tay run lập cập, áo quần còn dính bê bết máu. Bà Nguyệt dù đã quá chán ghét cảnh nó đánh nhau ở đâu rồi về nhà trong cái bộ dạng nghênh ngang, không sợ chết rồi nhưng đây là lần đầu tiên bà thấy ở nó cái bộ dạng kinh hãi đến hoảng loạn này.
“Mày nói rõ ràng xem nào...” Ông San bình tĩnh hơn, từ bàn trà lao ra túm ngay lấy cổ áo thằng con, gằn giọng bảo.
“Thằng Đoài nó... Chém... Chém bà Đón...”
“Xong... Xong... Nó... Chém... Chém rồi...”
“Ngoài đầu cầu... Nó chém rồi...”
Ông San đẩy thằng con ra, lao ra sân hô hoán xóm làng. Mọi người mang đèn soi sáng choang một quãng đường, rầm rập nối nhau chạy ra phía đầu cầu. Nói gì thì nói, dù có khinh ghét, có sợ hãi đến đâu thì trước án mạng, cũng không ai làm ngơ được.
“Con mẹ cuộc đời... Con mẹ nó...”
“Bà bảo tôi làm lại cuộc đời... Con mẹ nó... Cuộc đời tôi còn lại cái gì?”
“Con mẹ nó... Bà vì một thằng đàn ông khốn nạn mà trút hết lên đầu chị em tôi... Giờ bà bảo hối lỗi... Hối lỗi cái con mẹ gì?”
“Bà bảo tôi làm lại cái gì?”
“Con mẹ nó... Bà bảo tôi phải làm lại cái gì?”
Mọi người không ai dám đến gần mà chỉ đứng xa xa nhìn thằng Đoài một tay ôm xác bà Đón, một tay vẫn lăm lăm cầm con dao bầu sáng loáng mà lúc chiều nó dùng để chọc tiết con chó, mắt long sòng sọc, chửi đất chửi trời.
Mọi người đều sợ nên người này đẩy người kia báo công an. Lúc công an đến nơi, áp sát thằng Đoài thì mọi người mới dám rón rén từng bước đến gần. Ai cũng tò mò muốn được nhìn một tí để ngày mai còn có câu chuyện mà kể với nhau nhưng vì vẫn sợ nên ai cũng trong tâm thế sẵn sàng vùng chạy nếu như nó bỗng dưng nổi điên lên cầm dao đuổi chém.
Lúc tiến sát đến nơi, ai cũng ngây người. Xác bà Đón loang lổ máu trong tay thằng Đoài. Bản thân nó cũng đã trở thành một cái xác gục đầu bênh cạnh với mũi dao bầu vẫn găm trên cổ, máu vẫn ồng ộc tuôn ra không ngừng.
Thầy sư ở ngôi chùa mà trước lúc chết bà Đón vẫn đến dâng hương đứng ra lo liệu đám tang cho mẹ con bà Đón bởi ở đây, mẹ con bà chẳng có họ hàng thân thích nào, sau đó đưa tro cốt của cả hai mẹ con bà lên chùa để ngày ngày linh hồn mẹ con bà được nghe kinh sám hối.
Một kiếp tội nghiệt, bần cùng đã qua.
Tội lỗi, oan nghiệt gì cũng đều đã qua.
Hối hận, tiếc nuối gì thì cũng không còn kịp nữa.
Chỉ mong sao, nếu có một kiếp sau thì ai cũng sống cho đáng một kiếp người...
Bình luận
Chưa có bình luận