Rồi ông kể tôi nghe một câu chuyện cổ xưa, rằng lâu thật lâu về trước, có một gia đình nọ mưu sinh bằng nghề chài lưới ở ven sông, một nhà ba người sống trên con thuyền nan nhỏ. Chồng đánh cá, vợ nhặt củi đan rọ, khi lưới được mẻ cá to người chồng sẽ mang vào thành bán, lúc về có khi còn dư tiền mua được ít quà vặt như xiên kẹo hồ lô, mấy quả hồng khô cho đứa con nhỏ ở nhà. Cuộc sống tuy nghèo khổ phải lo ăn từng bữa nhưng đạm mạc yên bình.
Mấy năm sau trúng đợt hạn hán kéo dài, sông ngòi cạn sạch, đồng ruộng nứt nẻ. Gia đình nọ phải tháo con thuyền nhỏ, dùng ván gỗ lợp thành một cái chòi tạm bợ dưới chân cầu. Người chồng mỗi ngày phải dậy thật sớm đi sâu vào rừng đốn củi về bán, bữa nào may mắn có thể săn được con thỏ bẫy được con chim. Nhưng nắng nóng gay gắt khiến hoa màu chết hết, cỏ cây héo tàn nên động vật trong rừng không thành xương trắng cũng chẳng còn sống được bao nhiêu.
Hôm đó người chồng cắm cúi đi mải miết vào rừng thì gặp một đầm nước đen ngòm sâu không thấy đáy, chẳng nghĩ ngợi nhiều bèn vục lên mấy ngụm nước to mà uống. Nước mát lạnh lại rất ngọt, vừa uống vào đã cảm thấy cả người khỏe khoắn hẳn lên. Người chồng mừng lắm, vội lấy mấy cái ống tre đẽo sẵn hớt xuống mặt nước, chứa được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Đang dở tay thì dưới đầm chợt kêu động mấy tiếng oàm oạp như sấm vỗ, rồi một con rắn đen trùi trũi trồi lên khỏi mặt nước.
Con rắn dài gần chục trượng, thân to như cột đình, lớp vảy đen dưới nắng ánh lên bóng ưỡn, giữa đầu còn nhô ra một cái sừng thô ráp. Người chồng tê cả da đầu, ống tre trong tay rơi tõm xuống nước. Con đại xà trườn tới gần kẻ lạ mặt đang bất động vì sợ hãi, nó mở đôi mắt đỏ quạch, đồng tử hiện lên thẳng đứng, thè cái lưỡi chẻ đôi liếm ngang mặt người chồng. Thầm nghĩ phen này số mình đã tận, người chồng nhắm nghiền mắt chờ chết, nghĩ đến vợ con đang đợi ở nhà mà bật khóc rấm rứt. Chợt nghe một giọng ồm ồm cất lên, từ bốn bề vọng thẳng vào đầu: “Phàm nhân, nếu chịu giúp bản quân một việc, chẳng những có thể giữ được mạng mà còn nhân họa đắc phúc.”
Người chồng lúc này đã biết con rắn có sừng là đại yêu thành tinh, ở nơi rừng thiêng nước độc này mà tu hành nghìn năm có khác gì sơn thần đâu, nên nào dám chần chừ vội quỳ sụp xuống: “Xin tiên trưởng giao phó, chỉ cần là chuyện có thể làm được, thảo dân quyết không từ!” Con đại xà không bảo người chồng làm chuyện gì khó khăn, chỉ dặn dò mấy câu rồi lặn xuống đầm nước. Người chồng mừng rỡ như được đại xá, vội vàng trở về nhà, bảo vợ từ mai phải đan một tấm lưới thật lớn. Người vợ lấy làm khó hiểu, sông suối cạn sạch lấy đâu ra cá tôm mà đánh lưới, nhưng thấy chồng mình quả quyết thì cũng không hỏi nhiều nữa.
Ít hôm sau là tiết Thanh minh, bữa đấy có một ông thầy phong thủy dáng vẻ tiên phong đạo cốt ngang qua thành trấn, trông thấy nơi này âm khí bao trùm, trên đầu có mây xám u ám nhưng hỏi dân chúng lại biết chốn này hạn hán đã lâu. Ông thầy bèn quả quyết đây là do hạn thi gây ra, có kẻ lợi dụng tà thuật hại dân để tích lũy oán khí. Quan sát một hồi, ông thầy đưa tay bấm độn rồi chỉ về hướng thành nam, nơi đấy là nghĩa địa của trấn, bèn cứ thế xăm xăm mà đi. Người dân trong thành hiếu kỳ kéo nhau thành đoàn đi theo ông thầy phong thủy ra đến nghĩa địa, tới nơi đã thấy không biết từ khi nào mà ở giữa bao nhiêu mồ mả lại mọc lên một gò đất cao quá đầu người. Trong gò đất lộ ra một góc quan tài gỗ, xung quanh chằng chịt những sợi tơ máu trông quỷ dị vô cùng. Ai nấy nhìn thấy đều sợ hãi lùi lại, họ ở đây bao đời nay cũng chưa từng gặp chuyện quan tài chôn dựng đứng thế này.
Ông thầy phong thủy đăm chiêu một hồi, tuốt kiếm mộc đào đâm xuyên qua xấp bùa màu vàng, huơ kiếm vào quan tài, miệng rì rầm niệm chú. Cỗ quan tài như bị đạo pháp áp chế, những sợi tơ máu nảy lên từng chập, từ bên trong vọng ra mấy âm thanh như có thứ gì đó đập liên hồi vào nắp hòm. Lúc đó không ai thấy trong đám đông có một người đàn ông mặt mũi lấm lét, trong tay cầm tấm vảy rắn màu đen mà dùng sức bóp nát vụn. Tức thì một trận cuồng phong thổi tới, cuốn lấy ông thầy phong thủy bay lên không trung rồi biến mất dạng. Dân chúng được một phen kinh hồn hoảng vía vội quỳ xuống vái lạy, cho là quan tài này được thần linh trấn yểm, ông thầy phạm phải húy kỵ nên mới bị trời phạt. Từ đó cỗ quan tài quỷ dị thế mà lại được hương khói nghi ngút, dân trong vùng còn đến quỳ bái cầu xin thánh thần ban mưa.
Bình luận
Chưa có bình luận