Đừng lo cho chị nhiều quá. Trời thương, chị vẫn ổn cả, đôi tay này vẫn có thể tiếp tục chữa lành vết thương chiến tranh cho đồng bào ta, cùng tiến về phía trước, nơi hòa bình sẽ được lập lại trong niềm hân hoan của toàn dân tộc.
Chiến khu Đức Phổ, ngày 30 tháng 6 năm 1966
Gửi Thu Anh của chị,
Hôm nay chị tranh thủ lúc trạm y tế tạm yên, mượn được ngọn đèn dầu của anh liên lạc để viết mấy dòng cho em. Từ hôm rời Hà Nội tới giờ, tính ra đã hơn một tháng, nhưng cảm giác như đã cả năm rồi chưa được gặp em.
Trạm quân y của chị nằm giữa một vùng đồi rừng thấp, bốn bề là cây dại và đất đỏ. Có hôm chuyển thương binh ban đêm, cả đội phải cõng người xuyên qua khe núi, lội suối, rồi vừa đi vừa căng tai nghe tiếng máy bay trinh sát. Đèn mổ là đèn dầu hoặc ánh trăng, nước rửa dụng cụ là nước đun từ suối, cẩn thận từng chút mà vẫn cứ thấy thiếu thốn vô cùng.
Chị vẫn còn giữ tấm áo len em đan, có bận vừa xong ca cứu thương, người mệt lả, chị chui vào võng, ôm cái áo trong tay, lúc ấy cảm giác ngủ ngon hơn thường ngày nhiều. Vậy mà chị lại không lấy ra dùng sớm hơn, mấy đêm trước đều chẳng thể nào yên giấc, giờ thì đã đỡ hơn nhiều rồi, nhờ có em.
Chị nghe tin Hà Nội lại bị đánh bom mấy bữa gần đây. Có đêm trạm bắt được sóng phát thanh, nói kho xăng Đức Giang bốc cháy suốt 3 giờ liền. Em có sao không? Mấy đứa nhỏ xóm nhà mình vẫn ổn cả chứ?
Chị nhớ em lắm, nhớ con ngõ có cây xoan nâu mới vài năm tuổi, nhớ cả bàn học hai đứa từng ngồi chung. Nếu em rảnh, viết thư lại cho chị nhé, kể chị nghe những chuyện ở nhà, ở lớp, cả những giấc mơ của em nữa. Người ta nói trong mộng sinh dữ tử lành, em có mơ thấy chuyện xui xẻo cũng đừng lo lắng quá, có khi lại là điềm báo tốt lành đấy em ạ.
Đợi chị nhé, chiến tranh qua đi, sẽ là lúc hai đứa mình cùng về công tác ở Hà Nội, như em mong muốn. Tương lai ấy là động lực chiến đấu mỗi ngày của chị, cả hai chúng ta hãy cùng kiên trì đến ngày ấy nhé.
Ở đây, chị sẽ cố giữ mình bình yên như em căn dặn. Em cũng phải giữ lời hứa, ăn uống đầy đủ, giữ gìn sức khỏe, học hành chăm chỉ em nhé.
Thương em,
Hoài Anh
Hà Nội, ngày 9 tháng 7 năm 1966
Chị Hoài Anh,
Em xin lỗi vì bây giờ mới gửi được cho chị. Tháng vừa rồi Hà Nội không mấy khi được yên. Hôm thì đánh vào kho xăng, hôm thì vào ga tàu. Còi báo động rú suốt đêm, mấy lần em vừa trèo lên khỏi hầm lại phải chui xuống tiếp. Bụi than bám cả vào áo quần, cả vào tóc. Em cùng lũ trẻ thoát chết trong gang tấc, ôm chặt lấy nhau, vừa khóc thút thít xong lại cười. Đúng là may mắn thật, nhưng trong bụng em thì cứ lo: không biết ngoài Đức Phổ, chị có phải chạy hầm như tụi em không?
Em bắt đầu thấy lo lắng rồi, nên dạo này em bắt đầu theo các anh chị dân quân học võ, còn tập bắn súng. Cứ mỗi buổi chiều tan học, em lại chạy ra hầm dưới sân hợp tác xã, nơi mấy anh chị dân quân trong phố đang huấn luyện. Ban đầu em chỉ đứng xem, sau được họ cho vào tập thử. Mới đầu không quen, tay chân bủn rủn, nhưng mấy hôm là không còn run nữa.
Tối thứ tư vừa rồi, em được tập tháo lắp súng thật. Là khẩu CKC chị ạ, nó to và nặng hơn em tưởng nhiều, lúc áp má vào báng súng, em chỉ thấy tim mình đập thình thịch. Anh Thắng bảo em bắn khá, trúng hồng tâm cách xa mười mét. Em không nói gì, chỉ mím môi, nhưng trong bụng vui lắm.
Em cũng đang viết đơn xin vào dân quân. Nhưng họ chưa nhận, bảo em cứ học đã.
Mà chị biết không, cây xoan nâu trong ngõ vẫn sống, cành vươn được sang tận mái nhà em rồi. Ông tổ trưởng vẫn hay nói đùa, bảo cái cây này vẫn sừng sững chẳng biết sợ là gì. Em thì thấy sức sống nó đáng nể vô cùng, nếu nó không phải cây cối, mà là người, chắc nó cũng gan lì như em vậy, càng hít khói bom càng vươn cành mãnh liệt. Em cũng thế, càng ngày em sẽ càng mạnh mẽ hơn, khi chị về đây em sẽ lớn thành một cây cổ thụ tán cao rợp trời cho chị xem.
Lớp học bổ túc chuyển xuống hầm, em chính thức trở thành “cô giáo trong lòng đất” rồi chị ạ. Hôm vừa rồi Hà Nội phát báo động liên tục. Em và lũ nhỏ vừa học vừa nghe tiếng còi hú, đứa nào đứa nấy ôm cặp chạy ào xuống hầm. Cô giáo nói bọn Mỹ đang đánh vào kho xăng Đức Giang. Cột khói đen cứ cuộn lên mãi tận trời. Em nhìn mà gai người, chỉ sợ nhỡ đâu một ngày, chỗ khói đó là nơi chị đang đứng.
Mỗi ngày em đều viết chút gì đó cho chị, nhưng tình hình hiện tại, không phải lá thư nào cũng gửi đi được. Em thấy tiếc, nhưng cũng vì thế em càng muốn mau chóng trưởng thành, góp sức mình vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của tổ quốc. Vì một ngày nước mình độc lập, chị và em được trở về sống cuộc sống bình yên. Các cô chú trong phố nhà mình cũng được đón các anh các chị ngoài chiến trường về đoàn tụ.
Chị Hoài Anh ơi, nếu có thể, chị kể thêm cho em nghe về chuyện của chị ở chiến khu Đức Phổ nhé.
Thương nhớ chị nhiều,
Em, Thu Anh
Đức Phổ, ngày 20 tháng 7 năm 1966
Gửi Thu Anh, người thương mến của chị.
Chị đọc thư em vào giờ nghỉ giữa trưa, ngay trong lán dã chiến. Lúc đó, bên ngoài rừng vẫn còn vọng tiếng ve, tiếng máy bay thì xa dần sau mấy lượt quần thảo sáng sớm. Gần một tháng kể từ thư trước, chị cứ mong ngóng từng chuyến tiếp tế để tìm thư của em. Khi mở ra, đọc dòng đầu tiên biết em vẫn bình an, lòng chị nhẹ hẳn đi, như vừa trút được tảng đá nặng đè trên ngực.
Chị đã từng nghĩ sẽ chỉ kể cho em những điều giản dị thôi. Một vài cánh hoa rừng nở ven suối, một buổi trực yên bình, vài mẩu chuyện đùa của anh y tá quê Quảng Trị. Nhưng sau nhiều lần viết rồi lại cất đi không gửi, nay thấy em đã quyết tâm theo dân quân học tập để góp sức mình vào kháng chiến, chị thấy rằng đã đến lúc rồi. Em nên được biết tường tận hơn tình hình của chị hiện tại.
Ta lớn lên cùng nhau, giữa hai đứa mình vốn không nên có bí mật, nhất là những lúc thế này, chị biết mình cần thành thật với em hơn bao giờ hết.
Thu Anh, em à…
Sự thật ở đây tàn khốc hơn chị từng tưởng tượng rất nhiều.
Chị đã từng phẫu thuật những người lính trong khi anh hoàn toàn tỉnh táo, bởi không có thuốc mê. Giữa cơn đau xé da cắt thịt ấy, chị phải lấy mảnh đạn dưới ánh đèn dầu, trong một căn lán tạm, vách tre rách nát. Tay cầm dao kéo mà mồ hôi ướt đẫm cả lưng áo. Mạch bệnh nhân yếu dần, như một sợi chỉ sắp đứt. Có người may mắn tỉnh lại được. Có người còn chẳng kịp nói lời nào.
Có những người đồng đội mới lúc tinh mơ còn ngồi ăn sáng với chị, đến trưa đã phủ lên mặt tấm vải trắng, nằm yên bất động giữa gian nhà lạnh lẽo.
Có những đêm, chị và đồng đội đi bộ hàng chục cây số xuyên rừng, chị cõng một chiến sĩ trạc tuổi mình, máu cậu ta thấm cả vào lưng chị, nóng rát như tạt lửa.
Có đêm, đang nằm võng ngủ chập chờn, bỗng nghe tiếng pháo từ đồng bằng vọng lên như từng trận gió giật tung tấm màn đêm. Chị giật mình bật dậy, tim đập thình thịch, tự hỏi: Hà Nội có sao không? Em có sao không? Mỗi tiếng bom là một vết cứa trong tim chị, nơi này là chảo lửa, sợ nơi em cũng không còn bình yên như chị vẫn cầu nguyện mỗi đêm.
Thu Anh à,
Chị không biết tương lai ra sao, nhưng chị tin là rồi em sẽ được khoác lên người chiếc áo dân quân mà em mong. Mà dù có hay không, em vẫn đang chiến đấu rồi, theo cách rất riêng của mình.
Đừng lo cho chị nhiều quá. Trời thương, chị vẫn ổn cả, đôi tay này vẫn có thể tiếp tục chữa lành vết thương chiến tranh cho đồng bào ta, cùng tiến về phía trước, nơi hòa bình sẽ được lập lại trong niềm hân hoan của toàn dân tộc.
Những lời quyết tâm của em, sự mạnh mẽ và kiên cường của em, những câu chuyện nơi quê nhà chúng ta, tất cả đều đã tiếp sức cho chị nhiều lắm.
Thu Anh, viết cho chị nhiều hơn nữa nhé.
Dù chỉ là kể chuyện lớp bổ túc ngày đêm sáng đèn, cây xoan nâu hay gánh phở rong trước ngõ, đối với chị đều trân quý vô cùng.
Thương em nhiều lắm!
Chị Hoài Anh
Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!
Bình luận
Chưa có bình luận