Lại nói chuyện Ngọc Tảo đi dò la tin tức, nghe Yên Hoa nói xong hắn vẫn chưa tin hẳn, liền sang đình Chiết Liễu dò hỏi Tịch Nhan. Thấy Tịch Nhan cũng nói y như vậy, hắn mới chắc dạ về nói lại cho Vũ Lý hay chuyện. Biết được chuyện ấy, Vũ Lý rất khó nghĩ, không biết phải làm thế nào với Sở Nguyệt nêntrong lòng âu sầu không vui. Tình cảnh như thế về quán Tuyên Văn thì không tiện, hắn đành bảo Ngọc Tảo về trước rồi đến vườn Nghi Yên dạo cảnh cho khuây khỏa. Quanh quẩn một hồi, hắn chợt thấy dưới bóng đào có một bóng dáng mảnh mai đương nhặt cánh hoa vương. Vũ Lý nhìn kỹ thì nhận ra ấy là Phi Ly. Ngày thường, nàng ta thường xuyên đau ốm, có khi đến cả tháng trời không bước chân ra khỏi cửa, chỉ ở trong nhà uống thuốc mà thôi. Ngay đến việc thăm hỏi các cụ và cha mẹ, nàng ta cũng đều được miễn, chỉ cần cho người sang thay là được. Nay thấy nàng lững thững đi trong vườn, Vũ Lý không khỏi lấy làm lạ song vẫn lựa lời thăm hỏi. Phi Ly lùi lại mấy bước, cúi đầu đáp từng câu một rồi hỏi.
“Trời lạnh thế này mà anh vẫn ra đây, anh cũng thương hoa đào dãi gió hay sao?”
Vũ Lý không tiện nói thực rằng mình đương bận lòng vì việc của Sở Nguyệt, liền mượn lời của Phi Ly để đưa câu chuyện.
“Trong phòng ngột ngạt, khó có thi hứng, tôi ra đây cho thoáng đãng. Em hay ốm, bây giờ trời lạnh, em cẩn thận khéo ốm mất. Hơn nữa, không có cái dữ dội của gió đông thì chưa hẳn vẻ mỏng manh của hoa đào đã gây khiến cho người xúc động như thế, cũng chẳng có cảnh “Mặt ai nay biết tìm đâu thấy, Chỉ thấy hoa cười với gió đông”. Nếu nghĩ như thế, hoa đào cảm ơn lòng gió đông cũng phải.”
Phi Ly không nhìn hắn, chỉ cúi đầu ngẫm nghĩ. Vũ Lý thấy nàng trầm ngâm không nói, liền bảo.
“Nhờ em hôm nay tôi mới thấy cảnh đẹp này, nếu không thì e tôi đã vội về mà bỏ lỡ mất. Không chừng thưởng hoa xong, tôi cũng nghĩ ra đầu đề chưa biết chừng.”
Nghe vậy, Phi Ly mỉm cười, bảo.
“Ra là anh đương bận nghĩ chuyện ấy. Tôi còn ngỡ anh đã làm xong rồi.”
Vũ Lý cười khổ, thở dài bảo.
“Nào có dễ như vậy, đầu đề vừa phải gắn với tiết hạ, lại cần mới mẻ, không được đi vào sáo cũ của cổ nhân. Tôi thiết nghĩ, cũng không cần phải đặt vần làm gì cả. Nếu cứ theo cách hiệp vận, hoạ vận hay tập vận như thơ cổ mãi khó tránh khiến chị em nhàm chán làm thơ cũng mang vẻ gò ép, mất hết tính tình chân thực, như vậy thì đọc không thú gì. Không những vậy, đề bài cũng không được lắt léo, rườm rà quá.”
Phi Ly cười bảo.
“Mượn cái cũ cũng không sợ, vì cái cũ sở dĩ thành điển tích vì nó có cái thi vị của nó. Hơn nữa, đề cũ cũng là cách thử tài người làm thơ. Người làm thơ không linh hoạt, chỉ biết dùng lời hoa mỹ che cái ý sáo mòn thì thơ ấy ắt không tinh, đọc vào thấy rỗng, như uống trà nhạt, chẳng có mùi vị gì. Ấy là những người mang cốt tục, nên gác bút là hơn. Trái lại, người nào dùng điển tích cũ mà lập được ý mới, hoặc là học được chỗ sở đắc của cổ nhân, áp dụng khéo léo, vậy thì mới thực là tài. Ví như câu chuyện về Tây Tử có gì xa lạ, trước nay đã trăm ngàn người nói, vậy mà viết được ra câu “Rong nổi lập lờ rêu nửa ướt, Giặt sa người hẳn mới ngồi đây” chẳng phải là ý vị sâu xa, khác lạ hơn sao? Hay như bông liễu vốn là thứ trôi dạt, vậy mà nói trái đi được thành câu “Đừng cười là giống chơ vơ, Mây xanh lên vút ta nhờ gió đông”. Ấy mới là thực tài vậy.”
Vũ Lý gật đầu, nói.
“Cái đó lại liên can đến chỗ người bình thơ. Con mắt người bình thơ phải tinh đời mới nhìn ra được. Đôi khi chỉ một vần hay là đủ thành xuân. Những người thiên tính tầm thường khi đọc thơ chỉ biết chăm chú vào cách thể, thanh điệu, không để tâm đến ý vị thanh cao. Nào biết được những bài thơ tuyệt hay đôi khi là những bài thơ phá luật. Câu “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” nào có đúng niêm luật, vậy mà vẫn làm Lý Thái Bạch phải quăng bút cúi đầu. Nhưng những câu thơ ấy chưa thực là tài, nếu có câu nào không dũa mài mà vẫn khiến người ta thán phục, tôi mới cho là giỏi.”
Phi Ly nhỏ nhẻ nói.
“Cái lẽ “lời đẹp thường không thấy dũa mài” tuy hay thực nhưng nếu đề cao cái thanh đạm mà bỏ cái văn hoa kể cũng không hay. Như thơ Lý Nghĩa Sơn lời rất bóng bẩy, trau chuốt nhưng đọc lên cũng có cái thú riêng, không lẫn với ai được. Những câu như “Con tằm đến thác tơ còn vướng, Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa” tôi thấy rất hay. Cổ kim không được mấy câu thơ lắng lại trong tuế nguyệt như thế.”
Vũ Lý nghe vậy lấy làm phải, liền nói.
“Câu ấy hay lắm. Thế mới biết chị em trong nhà đều là tay tài tử cả. Mọi người đưa tôi lên cái ghế đàn trưởng này chẳng phải là bắt tôi lấy vải thưa che mắt Thánh sao?”
Phi Ly cười nói.
“Tôi chỉ là hạng xoàng, không dám nhận những lời ấy. Đó là anh nói nhũn đấy thôi.”
Vũ Lý vốn đương buồn bực vì chuyện của Sở Nguyệt, nay bàn luận với Phi Ly một lúc, trong lòng cũng thoải mái hơn ít nhiều. Thấy nàng nói vậy, hắn vội bảo.
“Không phải đâu, tính tôi vốn thật thà, nào biết đến lối ấy.”
Phi Ly nói.
“Nếu so với các chị trong nhà, tôi chỉ là đom đóm so với ánh trăng. Anh đã thích nói chuyện làm thơ, vậy bữa nào anh hãy thử sang chỗ chị Khánh hay chị Oánh mà xem. Lời tôi nói chẳng quá đâu.”
Vũ Lý nghe vậy cũng tò mò, liền hỏi.
“Hai chị ấy so với em thì như thế nào?”
Phi Ly nói.
“Muôn phần hơn tôi.”
Vũ Lý cười nói.
“Vậy hôm nào tôi phải thử xem mới được. Chị Khánh thì tôi chẳng ngờ gì, nhưng cô Thanh thì còn phải xem. Cô ấy tuy biết làm thơ nhưng đều là thơ đọc để mà chơi đó thôi.”
Phi Ly cười, bảo.
“Anh chớ nên nghĩ thế. Cứ theo ý tôi, chị ấy không thua gì những anh đàn ông mũ cao áo dài các anh đâu. Đa phần những bài Đường thi, Tống từ chị ấy đều xem là bỏ đi hết. Chị ấy nói “người đời cứ đặt Đường thi, Tống từ lên bàn thờ mà thờ, chằng biết là trong mớ ấy những bài như “Hoàng hạc lâu”, “Khuê oán”, “Thương tiến tửu” chỉ như vàng trong cát, có nhiều bài còn chẳng sánh bằng hai câu “Sóng gầm gió giật lá kinh, Mây quang mưa rắc long lanh hoa trời” trong “Tây sương ký” nữa kia”. Lời ấy tuy có hơi quá nhưng cũng chẳng sai.”
Vũ Lý lắc đầu cười nói.
“Cái cô ấy thích cũng chẳng giống ai. “Tây sương ký” đâu phải sách đàn bà con gái chốn khuê phòng nên đọc.”
Phi Ly thở dài, nói.
“Các anh thường nghĩ sách làm con người ta hư hỏng, vì sao không nghĩ chính những tư tâm bẩn thỉu của con người mới là thứ làm bẩn sách, chứ những câu văn, lời thơ trên sách thì nào có tội tình gì. Lúc đọc những sách ấy, sao các người chỉ nghĩ đến hạ thân mà không nghĩ còn cái gì khác ở trên? Nó đã ở đó từ thuở sơ nguyên sơ ngộ, nhưng lúc nào các người cũng quên.”
Câu nói ấy làm Vũ Lý ngẩn người ra. Lúc bấy giờ, Tịch Nhan bước đến, cười nói.
“Cháu tìm cô mãi, thì ra là cô ở đây. Cô trở về uống thuốc đi thôi. Bệnh cô vừa đỡ, đừng nên đi lại nhiều trong tiết trời oi này.”
Phi Ly nghe vậy liền từ biệt Vũ Lý, toan trở về. Bấy giờ, Vũ Lý mới để ý trong khăn tay nàng đầy những hoa rơi, liền hỏi đùa.
“Cô định học Lâm Đại Ngọc chôn hoa đó chăng?”
Phi Ly thấy hắn hỏi đến, có ý ngại ngùng. Nàng cười khẽ nói.
“Tôi quả cùng một mối tình với cô Lâm Đại Ngọc nhưng tôi không định chôn hoa. Cô ấy chôn hoa, tấm lòng thực là đáng quý lắm. Nhưng cứ như ý tôi thì chôn hoa cũng chưa thực là thanh sạch. Hoa vùi xuống đất, nếu chẳng may gặp giun dế, sâu bọ bò vào đục khoét, làm tổ, như vậy chẳng phải tủi nhục cho hoa lắm ư? Không bằng mang cánh hoa về ép vào trong sách, để khi cánh hoa khô rồi đem hỏa táng. Khi ấy hoa ra tro cả, đợi khi có gió đem tro ấy thả trong vườn, chẳng phải vừa sạch mà vừa lưu được hồn hoa trong chốn cũ sao?”
Vũ Lý nhìn cánh hoa vừa rơi vào lòng bàn tay mình.
“Chỉ e thân hoa mỏng manh, không ưa khói lửa.”
Phi Ly rơm rớm nước mắt, bảo.
“Vậy thì hoa có ưa ngàn người dẫm đạp, hay ưa sâu bọ đục thân chăng?”
Vũ Lý thở dài bảo.
“Ấy là ý nghĩ của hoa, tiếc là chúng ta không hiểu được.”
Phi Ly ngừng lại một thoáng rồi buông khăn tay xuống. Những cánh hoa vừa nhặt rơi lả tả dưới nền rêu xanh. Nàng nói.
“Vậy từ nay, tôi không bao giờ ngắm hoa nữa.”
Nói rồi, nàng từ biệt Vũ Lý ra về. Vũ Lý không hiểu thế nào cả song thấy nàng như vậy cũng không tiện hỏi thêm. Hắn ở lại vườn Nghi Uyên một lúc nữa rồi trở về quán Tuyên Văn, tránh cho Sở Nguyệt đâm ngờ. Khi trở về, hắn chẳng khác gì ngày thường, mừng giận không lộ ra ngoài mặt. Lúc cần tới việc gì vẫn bảo Sở Nguyệt hầu hạ như thường. Dù thấy có gì khác lạ, hắn cũng chỉ để trong lòng mà không nói.
Một ngày, Vũ Lý sai Sở Nguyệt mài mực để viết đầu đề cho thi đàn. Viết xong đầu đề, hắn lại viết năm bức thiệp mời đưa tới chỗ bọn chị em rồi tiện tay thảo một bức thư nhà, dán cẩn thận lại rồi cất vào tủ sách. Xong xuôi, hắn lấy năm lạng bạc đưa cho Ngọc Tảo, bảo y ra ngoài sắm sửa mấy bức tranh lụa rồi treo cả lên tấm mành tre ở thủy đình. Đúng như ngày hẹn trong thiếp, bọn chị em đến đình Ly Chu trong quán Tuyên Văn để họp thi đàn. Tán Hoa, Sở Nguyệt, Tần Châu đã bày biện xong mọi thứ từ trước. Khi mọi người đến, thấy bốn bề treo tranh lụa mỏng như cánh ve, trên bàn bày sẵn trà Minh Tiền, lại có một chiếc bình ngọc lam cắm mấy chiếc lá sen thơm, ai nấy đều cho là nhã. Ngồi đợi một lúc, mọi người mới nhác thấy Vũ Lý đương che ô giấy dầu, rẽ tuyết rẽ sương mà bước lại, Kim Khánh liền cười nói.
“Anh Thiên Thanh, anh là xã trưởng mà đến muộn, để chúng tôi đợi mãi, đáng phạt thế nào đây?”
Vũ Lý bước vào thuỷ đình, gập ô lại, đưa cho người hầu giũ tuyết cất đi rồi ngồi xuống. Bấy giờ, hắn mới để ý thấy Kim Khánh mặc áo ngoài bằng vóc ô sa, càng hợp với màu lá sen tàn trong tranh lụa phía sau, trong lòng thấy thoải mái vô cùng, liền cười nói.
“Chị em phạt tôi thế nào tôi cũng xin vâng lệnh cả.”
Kim Khánh bảo Huệ Cô pha trà mới mời Vũ Lý rồi cười bảo.
“Bây giờ chúng tôi chưa nghĩ ra, anh hãy ngồi xuống, cho chúng tôi biết hôm nay làm thơ thế nào đây. Chừng nào nghĩ ra, chúng tôi sẽ phạt anh cũng không muộn.”
Vũ Lý mở chiếc hộp gỗ giáng, lấy đầu đề đã viết sẵn ra, đặt úp xuống, bảo mỗi người chọn một tấm, sau khi chọn xong mới lật lên xem. Mọi người đều lấy làm thú, cùng làm theo lời hắn. Kim Khánh mở ra thì thấy tờ hoa tiên của mình vẽ hình một đầm sen đầu mùa, tuy chưa có hoa nhưng lá sen xanh thẫm, xa xa đình viện chạm trổ tinh xảo. Trên giấy đề mấy chữ “lá sen móc đượm ngát hơn hoa” . Tờ hoa tiên của Phi Ly lại vẽ cảnh đầm sen trơ trụi, hoa sen tàn hết, lá sen úa dàu dàu. Bên trên đề câu thơ “sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu”. Dao Chương lại chọn một tấm thiếp vẽ hình bông sen hơi úa, cánh rũ cả xuống, nhị đã rữa ra, lộ rõ những hạt sen xanh biếc ẩn mình trong ngó. Trên thiếp đề câu “thắm tàn xen lẫn sen trước mắt”. Trên tờ hoa tiên mà Tử La chọn lại thấy vẽ cảnh đầm sen hết mùa chỉ còn trơ cuống, sắc gọt như bị ai chém, lại có đề câu “tản mác tàn hồng ao biếc gieo”. Thanh Đường lại chọn được một tấm thiếp vẽ mấy bông sen đang nở rạng, xung quanh ong bướm dập dìu. Trên thiếp có đề câu “đăm đắm sen phai má lệ hồng”.
Mọi người xem xong, thấy ở viền mỗi tấm thiếp có nét đứt, liền ghép năm tờ hoa tiên vào với nhau thì ra một bức tranh hoàn chỉnh. Thanh Đường thấy vậy liền cười bảo.
“Đề ra khéo đấy, ắt không phải một mình anh nghĩ mà làm được.”
Kim Khánh cũng khen ngợi một hồi rồi bảo.
“Vậy là lấy sen làm đề chính, mỗi người dựa theo thanh khí của câu thơ trên thiếp mà viết thành ý của mình. Anh Thiên Thanh, ở đâu mà anh nghĩ ra ý này?”
Vũ Lý liền nói.
“Hôm qua tôi vãn cảnh trong vườn Nghi Uyên thì tình cờ gặp cô Ly. Chúng tôi nói chuyện mấy câu, tình cờ ở gần đó có cây đào lớn đương độ mãn khai, cánh hoa tơi tả theo chiều gió, nom vừa đẹp đẽ vừa bi thiết. Nghĩ kỹ lại thì từ trước đến nay hai thứ ấy vốn gắn với nhau, là chung một thể bởi phải có nhau thì cả hai mới có ý nghĩa. Nếu hoa đào không có gió đông thì có ai nhìn thấy vẻ mỏng manh phù du của nó. Nếu gió đông không có hoa đào thì ai biết gió đông lạnh lẽo bạc tình thế nào. Thành ra chúng tuy hai mà một vậy, nên tranh vẽ, thơ ca xưa nay lúc nào cũng ghép chúng thành đôi cả. Ngoài chuyện đó ra, trên đời này cũng có nhiều thứ tưởng riêng rẽ mà là một thể như vậy. Thế nên tôi theo chuyện ấy mà làm đề này đó.”
Dao Chương gật gù rồi cười bảo.
“Việc ấy thì tôi hiểu rồi. Nhưng rõ là câu chuyện hoa đào, sao lại lấy đề là hoa sen?”
Vũ Lý giải thích.
“Nếu lấy hoa đào thì chẳng hóa ra tôi đã lộ đề cho cô Ly biết rồi ư? Như thế thì không phải với chị em chút nào.” – Nói rồi, hắn ra hiệu cho Sở Nguyệt mang giấy, bút lên. Xong xuôi, hắn cắm thẻ hương đã châm lên lư rồi bảo. – “Lấy nén hương này làm hạn. Khi hương cháy hết thơ phải xong. Nếu thơ ai chưa xong ắt là sẽ phạt đó.”
Mọi người nghe nói, đều yên lặng nghĩ đề của mình. Hương cháy được chừng nửa, Kim Khánh cũng viết xong hai câu thực. Tử La làm chẳng bao lâu đã xong một bài, nhưng lúc sau đọc lại thì chẳng rõ không vừa ý chỗ nào mà lại bôi đen đi cả, ngồi xuống cắn bút nghĩ lại từ đầu. Dao Chương thấy vậy chợt nghĩ ra một trò để trêu nàng, liền nén cười rồi gọi Tử La lại gần, vờ giúp nàng lau vết bụi dính trên mũi. Tử La đương mải nghĩ, thấy Dao Chương nói sao thì nghe vậy, không hề đề phòng. Dao Chương hí hoáy lau một hồi, tới khi nàng thu tay lại, chóp mũi Tử La đã dính một vết mực đen ngòm nom như mũi mèo. Mọi người thấy vậy đều buồn cười nhưng đều bấm nhau nhịn lại, đợi xem mất bao lâu thì Tử La mới nhận ra. Cuối cùng, Thanh Đường không chịu được đầu tiên, ôm bụng lăn ra cười ha hả. Tiếng cười của nàng ta phá tan ý chí của tất cả, làm ai nấy ôm lấy nhau bò ra cười vỡ nhà. Kim Khánh vừa trách yêu bọn họ, vừa vẫy Tử La lại, lau mũi cho nàng ta. Vừa được lau sạch mặt, Tử La đã cầm bút, chạy ngay tới chỗ Dao Chương. Dao Chương biết quả báo đã tới, lập tức chạy đến sau lưng Kim Khánh mà trốn. Vũ Lý làm trưởng đàn song chút uy nghiêm của hắn cũng không ngăn được khí thế như trúc chẻ ngói tan của Tử La, chỉ đành tựa mình vào lan can mà cười. Ồn ào một hồi, mọi người mới sực nhớ tới chuyện hương đã cháy gần hết, ai nấy vội trở lại làm nốt thơ của mình. Bấy giờ, thủy đình mới yên tĩnh lại một chút.
Vừa đến hạn, Vũ Lý lập tức đánh chuông ra hiệu dừng bút. Mọi người lần lượt trình tờ hoa tiên của mình lên. Hắn xem từ bài đầu trở xuống, thấy viết.
"Nhờ gió lên cao dõi phù hoa
Mênh mông mộng cả ánh dương pha
Sóng hồng reo vợi vang điệu nhạc
Oanh vàng réo rắt khúc hoan ca
Hoa rộ lá càng thêm được vẻ
Sắc sinh hương lại tỏa cõi xa
Bước lần, xem khác màu trần thế
Cảnh đây nào phải chốn ta bà?"
(Linh Loan phi tử)
Vũ Lý nói.
"Bài này không tả thực mà đã nói được vẻ rạng rỡ của hoa độ mãn khai, thực là khéo lắm."
Nói đoạn, hắn lại xem đến bài tiếp theo, thấy viết.
“Mơ màng thuỳ mộ chốc sương trăng
Buồn trông lay tỉnh giấc viễn hoằng
Cõi tục, vườn hoang hương linh lạc
Trần ai, giậu vắng sắc sơn lăng
Nghe thu rớt lệ từ sen úa
Trông mòn rêu phủ áo sư giăng
Hoa gầy rốn đợi người buông sách
Tụng câu Bát Nhã dưới hương đăng.”
(Châu Lang khách)
Vũ Lý cười bảo.
"Bài này thì đúng cái tiêu điều, quạnh quẽ của cảnh điêu linh tàn úa. Tuy ý thơ hơi lắt léo nhưng lời thơ đẹp đẽ bù lại nên cũng không can chi."
Nói rồi, hắn xem đến bài kế, thấy viết.
"Sân vắng ngẩn ngơ giở mấy vần
Tịch dương chớm úa lệ đầy thân
Mối hận ngấm ngầm đề chật giấy
Gió mài hương sắc nhạt phai dần
Áo hồng ngấn bụi màu hoa vợi
Đầu xanh mải giễu nỗi thương xuân
Chén đầy trăng cạn tan cuộc rượu
Đàn cũ Chu lang chẳng về thần."
(Tuyết Anh đại sỹ)
Vũ Lý gật gù nói.
"Tả cái chênh chao ở giữa hai bờ tươi mới và tàn úa thì tôi cũng không nghĩ ra ý nào hơn bài này nữa."
Nói xong, lại xem đến bài tiếp theo, thấy viết.
"Tạnh mưa bãi cạn tiếng quyên kêu
Biên ải xa vời áo rét thêu
Thu ngất trời sâu sương buốt lạnh
Ác vùi thỏ lặn núi hoang liêu
Trơ nắm cốt tàn chưa chỗ gửi
Trọi nấm mồ hoang phong biếc rêu
Chéo áo phong thư còn dở bút
Trống quân ba tiếng đã giục đều."
(Hồng Vũ sinh)
Vũ Lý cười nói.
"Bài này ý tứ hơi xa đề, nếu đem vào đề khác thì hay, dùng vào đề này thì không được sát. Chuyến này, Hồng Vũ sinh có tài mà không gặp may nên hỏng thi rồi nhé."
Mọi người nghe vậy đều cười. Tử La buồn bực dẫm chân bảo:"Biết vậy tôi thà giữ bài cũ mà đưa lên còn hơn". Mọi người liền xúm lại an ủi nàng một hồi. Vũ Lý nhân lúc đó đọc nốt bài thơ còn lại, thấy viết.
“Quẳng sách thiêu đàn gạt lệ sa
Môi hồng đượm chén cạn giang hà
Ngất ngư, áo ráng song sa đỏ
Tuý luý, huyên vang vẻ chẳng hoà
Mặc khách ngàn sầu lòng mặc gió
Xuân hoa vạn khổ tóc muôn hoa
Vui tràn thốt tỉnh, chuông rền rĩ
Độc bóng di hương lạy Bụt Đà.”
Vũ Lý xem xong, khẽ chau mày, thở dài nói.
“Bài này cũng có tứ đấy nhưng u oán quá. Em còn trẻ tuổi, đừng nên nghĩ những điều bi thiết như vậy.”
Thanh Đường nghe vậy, bĩu môi nói.
“Thanh Không động chủ nói câu này thì lại không thông rồi. Anh chưa nghe người xưa thường bảo:“Tình nồng tự cổ tình vương hận, Mộng đẹp nguyên lai mộng chẳng dài” đó sao? Lắm khi những việc trăng tròn hoa thắm lại chẳng thành cái lưu danh muôn thuở được, chỉ có vệt nước mắt là ngàn năm còn lưu vết hoen trên bia đá sử xanh thôi.”
Tử La cười nói.
"Lệnh thơ nghiêm như lệnh quân. Em dám cãi lời trưởng đàn, tội này phải phạt đó."
Dao Chương cũng cười bảo.
"Phải đấy, phạt ngay cô hát một câu cho chúng tôi nghe, thế có được không? Ngày thường, chỉ có cô là hay được ra ngoài vì việc này việc kia, ắt là cô biết nhiều câu hát hay lắm, phải cho chị em mở mang tầm mắt một chút mới được."
Kim Khánh ngăn lại.
"Việc đàn hát âm nhạc không phải việc khuê phòng, người ngoài biết được e là không hay. Chúng ta chơi cái khác thôi."
Tử La ôm cổ Kim Khánh, nói.
"Ở đây chỉ có chị em chúng ta, lấy đâu ra người ngoài? Chị đừng nghi ngại." - Nói đoạn, lại giục Thanh Đường. - "Em chọn lấy một câu hay nhất mà hát đi."
Thanh Đường đá chân Vũ Lý một cái, ra hiệu cho hắn lên tiếng. Vũ Lý bị kẹp giữa hai phe, đành tát nước theo phe đông hơn, nói.
"Tôi tuy còn e ngại nhưng nếu chị em đã cao hứng như vậy, tôi xin thuận ý cho tròn cuộc vui."
Thanh Đường trừng hắn một cái, Vũ Lý cười cười giật khẽ vạt áo nàng ra hiệu. Thanh Đường không trốn được, đành phải hát.
"Bâng khuâng giã cảnh giã thầy
Trời cao đất rộng thân này bốn phương."
Vũ Lý chợt sinh hứng thú, hát đế một đoạn chẳng chút liên quan vào.
"Một cành sương nức mùi hương
Khách non Vu luống đoạn trường mây mưa
Hỏi người cung Hán thuở xưa
Thương thay Phi Yến phải nhờ phấn son."
Thanh Đường nhào lên đánh hắn.
"Đồ trời đánh. Đồ chết bầm. Anh phá cả câu hát của tôi rồi."
Vũ Lý nhanh chân chạy vụt đi. Mọi người vừa giữ Thanh Đường lại, vừa che chắn cho Vũ Lý. Tiếng nói cười vang động khắp thủy đình. Bọn họ trêu đùa lẫn nhau, bàn tán chuyện thơ từ một chốc nữa rồi rủ nhau vào thư phòng của Vũ Lý ngồi chơi. Vũ Lý lại đem những thơ từ, sách vở mình mang từ Hồ Dương đến Linh Nham ra cho họ xem. Phi Ly thấy có cuốn "Mộng Khê bút đàm" liền cầm lên thử đọc, không ngờ lại say mê không dứt ra được. Nàng ngỏ ý mượn sách về, hẹn bảy ngày sau đọc xong sẽ đem trả. Vũ Lý thoải mái đồng ý.
Mọi người trò chuyện thêm một lúc, thấy Phi Ly có ý mệt, Dao Chương, Tử La liền đưa nàng về đình Chiết Liễu. Kim Khánh thấy vậy cũng tỏ ý muốn lên nhà trên thăm mẹ. Thanh Đường thấy chỉ còn mình ngồi lại cũng không tiện, lại dễ thu hút ánh mắt người ngoài nên ra hiệu cho Vũ Lý rồi về gác Phượng Cầu. Vũ Lý hiểu ý, liền cùng Kim Khánh đi hỏi thăm trưởng bối rồi tiễn chân chị ta về nơi ở. Xong xuôi mọi sự, hắn mới tìm đến chỗ Thanh Đường. Yên Hoa đương coi người ta quét lá, trông thấy hắn đến liền đưa hắn lên lầu. Hai a hoàn nhỏ đứng hầu hai bên cửa vén tấm mành gấm phủ ngoài cho hắn bước vào trong. Vũ Lý thấy Thanh Đường đương ngồi trên bục gỗ rải thảm nhung đỏ, tựa mình vào cái gối bằng vóc đại hồng, đương nói chuyện với một người lạ mặt, trên bàn còn đặt một chiếc nón Phạn Dương phủ the đen. Người này trạc ngoại tứ tuần, râu tóc gọn gàng, ăn mặc lịch sự nhưng hình dung khắc khổ. Trên gương mặt hắn hằn vết sẹo hình chữ thập rất sâu. Đường ngang cắt qua trán, đường dọc rạch thẳng xuống mi tâm. Vũ Lý toan chờ bên ngoài song Yên Hoa nói khẽ.
"Ấy là người của cô Thanh, anh cứ vào, không phải e ngại gì cả."
Bấy giờ, Thanh Đường cũng thấy bóng dáng hắn thấp thoáng ngoài cửa lớn, liền vẫy tay ra hiệu cho hắn vào trong. Ba người ngồi cùng nhau, ắt bàn chuyện riêng. Yên Hoa hiểu ý, Vũ Lý vừa bước vào thì lập tức đóng chặt cửa lại. Thanh Đường cười, trỏ vào người lạ nọ, nói với hắn.
"Còn nhớ người biết phép nhật hành lần trước tôi nhờ đưa thư của anh về Hồ Dương không? Chính là người này đó."
Vũ Lý nghe nói vậy, lập tức chắp tay thi lễ, cảm tạ người nọ, tỏ ý biết ơn. Linh Nguyên đứng dậy đỡ tay Vũ Lý, nói "không dám" rồi mời hắn ngồi lên trên cùng Thanh Đường cho đúng vai vế. Song, Vũ Lý kính trọng người trên, viện cớ ở đây không có người ngoài, xin được ngồi chung với y. Thanh Đường nhìn bọn họ nhường nhịn lẫn nhau, trong lòng rất ấm áp. Hai người trò chuyện một hồi thì đến lúc Linh Nguyên phải trở về núi Chung Sơn. Vũ Lý lưu luyến tiễn chân, lại tặng hắn hai mươi lạng bạc làm tiền đi đường. Linh Nguyên từ chối mãi không được, sợ dùng dằng lỡ mất thì giờ, đành phải nhận. Gã từ biệt Vũ Lý rồi trùm áo tấm áo đen thẫm lên mình, vun vút vù phi. Chẳng mấy chốc, bóng hình hắn đã khuất giữa điệp trùng cảnh vật. Bấy giờ, Vũ Lý mới trở vào trong. Thanh Đường hất cằm chỉ lá thư trên bàn, bảo.
“Của cha anh gửi đến đấy, anh mang về chỗ anh mà xem.”
Vũ Lý cầm lấy phong thư, mở ngay trước mặt Thanh Đường, ngồi xuống cạnh nàng, nói.
“Việc này chúng ta cùng làm với nhau, cần gì phải như vậy? Em đến đây, chúng ta xem cùng nhau.”
Thanh Đường gõ tẩu thuốc vào khay ngọc mấy bận, rũ sạch tàn thuốc, làm ra vẻ miễn cưỡng mà nghiêng người qua cùng hắn xem thư. Trong thư đại ý dặn dò Vũ Lý làm theo lời Trần Đăng Chung. Về ý định chia thư tịch ra cũng nên nói với ông, nếu ông đồng ý thì cứ vậy mà làm, không cần hỏi lại Vũ Xung Trực nữa. Vũ Lý xem xong liền gấp thư lại, thở dài.
“Như vậy là ý cha tôi cũng lập lờ không rõ. Nếu chúng ta hỏi bác Cả, bây giờ bác ấy nói đồng ý, sau này chuyện vỡ ra lại nói là do chúng ta tự tung tự tác thì làm thế nào?”
Điều Vũ Lý nói cũng là điều Thanh Đường đương suy nghĩ. Dù sao thì người đời cũng tin lời của những bậc trưởng bối mũ cao áo dài chứ không tin lời của đám trẻ vắt mũi chưa sạch, chẳng có chút thế lực nào trong tay như họ. Thanh Đường nghĩ một chút rồi bảo.
“Nếu không ai bảo toàn cho chúng ta thì chúng ta không làm nữa, vậy là xong mà.”
Vũ Lý ngẩn ra một thoáng rồi chợt hiểu.
“Dùng người, dùng thuyền của nhà họ Trần đưa thư tịch đi. Dù sau này có chuyện thì cũng không can gì đến chúng ta cả, chúng ta chẳng qua chỉ là đám trẻ con đi theo học việc mà thôi.”
Thanh Đường nói.
“Việc này, anh nên nhờ chú Quân đến hỏi bác Cả. Chú ấy hỏi xong thì ta đứng sau bảo cách làm cho chú ấy, để chú ấy là người trực tiếp đứng ra lo liệu, ta chỉ ở sau mành thôi. Khi ấy, con tốt thí chuyển từ chúng ta sang chú Quân, bác Cả dù có muốn giữ thân mình thì cũng chẳng thể nào bỏ mặc con trai ruột như bỏ mặc chúng ta được.”
Vũ Lý gật đầu.
“Cái ghế gia chủ họ Trần đời tiếp theo về tay người nào còn chưa rõ. Nếu Trần Văn Quân làm việc này thuận lợi thì ắt lập được công lớn. Chỉ trừ phi chú ấy không muốn tranh đua, còn nếu không thì chẳng có lý do gì để từ chối chúng ta cả.”
Thanh Đường ôm lấy Vũ Lý, cười vang.
“Phải lắm, mà ngay cả chú ấy không muốn tranh thì chị vợ chú ấy cũng không để yên đâu. Chị ta là tay xông xáo tranh công có tiếng, vậy ắt có bụng nghĩ đến ghế chủ mẫu trong nhà. Thấy bản thân mình mất bao tâm sức để tranh quyền đoạt lợi mà chồng lại nhởn nhơ hờ hững, đời nào chị ta chịu để yên.”
Vũ Lý nói.
“Trong lúc chuyển thư tịch đi, em đừng quên chuẩn bị sẵn vài giấy tờ đóng dấu điểm chỉ, cốt để chú ấy điểm chỉ trên đó. Nếu sau này bác Cả có lật lọng hay lấp miệng chúng ta, ta vẫn còn bằng cớ hai năm rõ mười để nói lại, bằng không thì không còn đường nào đâu.”
Thanh Đường gật đầu, bảo thêm.
“Chuyện ấy không khó. Ngoài ra, chuyện của Sở Nguyệt, tôi khuyên anh nên biến kế của người ta thành kế mình. Mẹ anh đã có ý cài chị ta vào để giám sát anh, anh nên lựa đó mà dùng chị ta để truyền tin sai cho mẹ anh. Trong lúc này, anh cố ý nói việc cụ khen vợ anh Phi ra sao, bảo cô ấy hiền lương thục đức, có phong phạm chủ mẫu thế nào. Chuyện ấy được Sở Nguyệt đưa đến tai mẹ anh thì mẹ anh thế nào cũng đưa chuyện với Cung Ỷ. Hai người họ xưa nay vốn thân nhau, chẳng có chuyện gì mà không rỉ tai đâu. Khi ấy, chị ta không ba máu sáu cơn, giục chồng nhanh chóng lập công mới là lạ.”
Hai người bàn tính việc này đâu vào đấy xong xuôi liền lập tức làm ngay. Thanh Đường đến nói chuyện với Trần Văn Quân, lấy cớ là trẻ người non dạ, không thạo công việc, hơn nữa là khách tới đây nên không còn sợ bác Cả, không dám tùy tiện hỏi chuyện mà nhờ Trần Văn Quân cùng mình đi hỏi. Trần Văn Quân chưa nghe gì về việc ấy cả, trong bụng có ý băn khoăn nên chỉ nói rằng sẽ nghĩ thêm, hai ba ngày nữa sẽ sang nói lại. Thanh Đường cũng không gấp, nghe chàng nói vậy thì cáo biệt rồi về. Vừa lúc ấy, Vũ Lý cũng trở về quán Tuyên Văn, vờ như nói chuyện phiếm mà vô tình nhắc tới việc các cụ khen ngợi phẩm hạnh của Vũ Tỏa Trâm. Sở Nguyệt cũng nghe được chuyện ấy, chị ta liền nhân lúc tối trời đến gác Nhã Vũ kể lại đầu đuôi với Cung Uyển. Cung Uyển hay tin, quả nhiên nói lại việc ấy với Cung Ỷ. Cung Ỷ thấy mình ngày đêm lo việc lớn nhỏ trong phủ, đêm nằm ngủ mơ cũng tính toán chu tất đủ thứ mà không được yêu bằng một người quanh năm bệnh tật, nằm trên giường không làm gì thì trong bụng tức lắm. Cô nói chuyện với Cung Uyển một lúc rồi bực dọc trở về. Đêm ấy, Trần Văn Quân đem chuyện Thanh Đường nói hồi chiều bàn với vợ. Cung Ỷ trong bụng đương sẵn mối bực mình, thấy chồng có ý thoái lui, liền lựa lời nói.
“Chàng thực hiền lành thật dạ quá. Từ khi sinh ra đến giờ, phàm việc gì, anh chàng cũng trên chàng một bậc. Từ chuyện công danh khoa cử đến lòng ưu ái của trưởng bối, có việc gì mà anh ấy không chiếm phần hơn? Thiếp trộm nghĩ chàng nào phải người khờ khạo, sao lại không hay lẽ một núi khó có thể dung hai hổ mà cứ khom lưng uốn gối, chịu ở dưới trướng người mãi như thế ru? Không lẽ cả đời này chàng không thể thắng một lần hay sao?”
Văn Quân nghe vợ nói vậy, lòng cũng dao động. Chàng nghĩ bản thân thì chẳng sao, nhưng nếu không có vị thế gì trong nhà thì vợ con bị xem nhẹ. Bây giờ Cung Ỷ còn sức lo mọi việc thì mọi người còn coi trọng. Nhưng con người chẳng lẽ khỏe mạnh được trăm năm? Đến khi đau ốm không gượng dậy được, thế nào cũng phải nhờ vào địa vị của chồng để được săn sóc. Nếu chồng đắc thế thì được nâng niu trân quý, chồng suy bại thì cháo cũng không ai đem đến cho. Hơn nữa, bọn họ chỉ có một người con gái là Phi Ly. Mà phàm đã là con gái thì sau này ắt phải lấy chồng. Mẹ cha bạc nhược thì sao có thể lo cho con mình một chỗ yên thân tốt? Như Trần Khắc Phi nhờ có quyền thế chức tước mà khi biến loạn có thể đưa con gái từ cung cấm về quê nhà tránh nạn. Còn như chàng thì mai kia ngộ nhỡ Phi Ly có rơi vào cảnh khốn khổ, bị nhà chồng ức hiếp thì chàng cũng chỉ biết gạt nước mắt khuyên con cố chịu đựng mà thôi. Phi Ly người vốn yếu, chịu thì có thể chịu được bao lâu. Sợ rằng chẳng mấy bận thì đã bình rơi trâm gãy. Nghĩ đến đó, Văn Quân khóc nức lên. Cung Ỷ thấy chồng muộn phiền mới hối bản thân đã nói quá lời, đành thở dài bảo.
“Chúng ta là phu thê với nhau, thiếp có lỡ lời, xin chàng bỏ quá cho. Nếu chàng không vui, sau này thiếp sẽ không nhắc đến chuyện này nữa.”
Văn Quân xua tay, gượng bảo.
“Không phải lỗi ở nàng đâu. Ý tôi đã quyết rồi, ngày mai tôi sẽ tới gặp cha để thưa chuyện này.”
Cung Ỷ nghe vậy, trong lòng rất mừng song không tỏ ra ngoài mặt, chỉ lựa lời khéo léo an ủi Văn Quân rồi đưa chàng đi nghỉ. Sáng hôm sau, Văn Quân cho người sang gác Phượng Cầu mời Thanh Đường tới, nói rõ ý định rồi cùng nàng ta đến chỗ Trần Đăng Chung. Bấy giờ, Trần Đăng Chung đang xem sách cùng gia khách, thấy người nhà báo có Văn Quân và Thanh Đường xin gặp thì trong bụng lấy làm lạ song vẫn cho gia khách lui cả xuống rồi mời hai người vào. Văn Quân, Thanh Đường hành lễ xong, Đăng Chung cho ngồi xuống ghế. Bấy giờ, Trần Văn Quân mới nói.
“Thưa cha, chuyện cất giữ thư tịch trong nhà con đã được mẹ cho biết phần nào. Song, con nghĩ số lượng thư tịch lớn như vậy để cả ở trong phủ ta thì thực không nên. Hơn nữa, có lời này tuy có thể khiến cháu Thanh phật lòng nhưng con cũng phải xin nói thật. Tuy tứ đại gia tộc đời đời thân thiết, nhưng lành dữ sống chết đến cha con cũng không thể giúp nhau nữa là chúng ta. Nếu trữ cả ở nhà ta, ngộ nhỡ xảy ra chuyện bội phản thì nhà ta ắt không chống được. Nhưng nếu chia ra mỗi nhà giữ một ít thì các bên sẽ không chỉ vì tình nghĩa mà còn vì lợi ích của bản thân mà dốc sức giữ gìn, có vậy chuyện này mới được lâu dài.”
Trần Đăng Chung nghe qua những lời ấy, lại thấy Thanh Đường theo sau Văn Quân, trong lòng đã đoán chắc nàng ta giật dây mọi chuyện. Song, vì quan hệ hai nhà nên ông không tiện nổi nóng, chỉ hỏi.
“Ý ấy của con không phải không có lý. Nhưng nếu chỉ có chuyện ấy thì con đến thưa với ta là được, còn đưa cháu Thanh theo làm gì?”
Văn Quân đáp.
“Cháu Thanh cũng có cùng suy nghĩ với con nên xin được theo hầu để nghe cha chỉ dạy.”
Trần Đăng Chung thấy Văn Quân thực dạ tin người, không biết nói sao cho chàng hiểu ra, đành phải bảo.
“Nếu con đã dự tính như vậy thì cũng phải xem các gia tộc khác có đồng ý hay chăng. Cháu Thanh tuy sành sỏi đấy nhưng vẫn chỉ là hậu bối. Việc này liên can mật thiết, phải bàn với gia chủ nhà họ Cung mới được.”
Lẽ đương nhiên, ý gia chủ nhà họ Cung thế nào Trần Đăng Chung rõ hơn ai hết. Song, ông muốn dùng dằng cho qua việc này để bảo hai người đi về rồi hôm khác sẽ gặp riêng Trần Văn Quân, trước hết là mắng chàng một trận, sau đó cấm chàng nhúng tay vào việc này mà can hệ đến tính mạng. Nhưng Thanh Đường cũng biết ông có ý đó, lập tức nói.
“Bác và chú nói chuyện lớn, đáng ra cháu không nên chen lời. Nhưng nhắc đến cha cháu, xem chừng có chuyện này cháu không thể không nói.” – Nói đoạn, nàng cầm một bức thư, nâng ngang mày, trình lên Đăng Chung. – “Mấy hôm trước, cháu có viết một lá thư hỏi ý cha cháu về việc này. Trong thư hồi âm, cha cháu có nói cứ việc theo ý bác mà làm. Hẳn cha thấy cháu còn trẻ người non dạ, chưa sành công việc nên mới căn dặn cháu không được làm bậy, phải nghe lời bác chỉ dẫn. Xin bác nể tình cha cháu mà vén mây rẽ cỏ, chỉ cho cháu thấy đường sáng để đi. Nếu được như vậy, cháu thực biết ơn bác lắm.”
Trần Đăng Chung mở thư ra xem, quả nhiên thấy hai năm rõ mười là nét chữ của Cung Hữu Quang, ở dưới còn có dấu mộc đỏ thẫm của Chương hầu. Ông thoáng nhìn Thanh Đường một chút rồi gập thư lại, bảo.
“Chỗ anh em trong họ với nhau, bác đâu quản gì việc ấy. Nhưng đây mới chỉ là ý của hai nhà, còn hai nhà nữa chưa rõ chủ ý. Nếu ta tự tiện hành động, e là cũng khiến họ phật lòng.”
Thanh Đường đã có chuẩn bị từ trước, liền lấy lá thư của Vũ Xung Trực từ trong tay áo ra trình cho Trần Đăng Chung xem rồi nói.
“Chủ ý của nhà họ Lý đã ghi rất rõ trong ghi chép thông quan của bến sông Thương. Nếu bác Cả muốn xem, cháu sẽ cho người mang đến.”
Đến sổ sách thông quan mà cũng có thể nói đem đến là đem đến như đồ trong túi, Trần Đăng Chung biết cô ta đã chuẩn bị kỹ càng trước khi tới đây, dẫu có mang sổ sách đến thì kết quả cũng không khác gì, liền khoát tay tỏ ý không cần. Thanh Đường nhân đó, nói.
“Nếu như ý bác Cả đã quyết, xin bác Cả viết cho cháu một lá thư để cháu đưa về Hàn Đương cho thân phụ được yên lòng.”
Trần Văn Quân toan mài mực cho cha song Trần Đăng Chung lại bảo thư đồng giúp mình những việc giấy bút. Lấy được lá thư có đóng mộc đỏ, Thanh Đường cùng Văn Quân tạ ơn Đăng Chung rồi toan trở về. Song, họ vừa đi được mấy bước, Đăng Chung đã gọi Văn Quân ở lại rồi ra hiệu cho gia nhân đóng cửa. Văn Quân ở lại hầu cha. Cửa vừa đóng chặt, Trần Đăng Chung đã ném nghiên mực về phía chàng. Nghiên mực cứng chắc va trúng góc trán của Văn Quân, làm rách một mảnh da, máu tươi đầm đìa chảy xuống. Văn Quân thấy cha tức giận, không dám nói nửa lời, vội quỳ rạp xuống. Đăng Chung thở phập phồng từng hơi, cố nén cơn giận, hỏi.
“Năm nay con bao nhiêu tuổi?”
Văn Quân thành thật đáp rằng hai mươi. Đăng Chung lại nổi trận lôi đình, quát.
“Hai mươi tuổi? Hai mươi tuổi mà để con nhãi mười mấy tuổi đầu dắt mũi mà không biết. Con có biết chuyện nó nói đến là chuyện như thế nào không? Có biết tại sao ta lại giao cho nó chứ không giao cho con không? Nếu như là chuyện tốt đẹp, đời nào có lẽ ấy.”
Văn Quân cúi đầu, thành khẩn nói.
“Quả thực những chuyện này con không được hay, xin cha…”
Chàng chưa nói dứt câu, Trần Đăng Chung đã gằn giọng bảo.
“Đó là họa sát thân. Sao con lại không hiểu? Nếu chuyện vận chuyển thư tịch đó lộ ra, con có mười cái đầu cũng không đủ chết. Con Thanh và thằng Thanh đều là con vợ lẽ, chúng nó chết cũng chẳng đáng gì. Hơn nữa, con cũng biết gia chủ nhà họ Cung vừa có một người con trai. Ông ta muốn để thằng bé đó thừa kế cả Diệu Dương và Hổ Lao doanh. Bà Cả nhà họ Vũ thì muốn con ruột mình kế thừa chức gia chủ, tập tước của tổ tiên. Vậy nên bọn họ mới chung nhau, muốn mượn việc này trừ hai đứa đấy đi nên mới ngầm bảo ta giao cho chúng nó việc ấy. Bây giờ, chúng nó nhận ra chuyện đó nên đến mượn con làm bung xung, bắt chúng ta là người đứng mũi chịu sào, còn chúng nó đứng sau điều đình mọi chuyện. Nếu có việc gì, bọn nó chạy là xong hết, đao kiếm ập xuống đầu kẻ trực tiếp nhúng tay trên danh nghĩa là chúng ta. Tờ giấy có dấu mộc đó chỉ cần trình ra là lấy được đầu ta. Sao con lại không hiểu?”
Bấy giờ, Văn Quân mới vỡ lẽ ra mọi chuyện nhưng ván đã đóng thuyền, tên đã lên cung, thế cưỡi hổ khó xuống, thực không biết làm sao cho phải. Hai người ở trong phòng hồi lâu, gia nhân được lệnh đều lui ra, những tưởng không ai biết đến những gì bàn tính. Chẳng ai hay Phù Tô, Tiểu Kim được lệnh của Thanh Đường, Vũ Lý đã nấp sẵn ở một góc kín để lấy tin. Nghe được việc này, Phù Tô trở về báo cho hai người biết. Vũ Lý đã lường đến việc này từ trước song khi nghe chính miệng Trần Đăng Chung nói ra thì vẫn phiền muộn thở dài, nhắm mắt lại, bàn tay cũng dần siết chặt. Nếu bọn họ hãm hại mình hắn, có lẽ hắn cũng không đến nỗi tức giận như vậy. Nhưng hắn chẳng thể nhìn được những kẻ chỉ lăm lăm nhắm đến người yếu thế, lợi dụng họ rồi khi hết giá trị thì vứt họ như rẻ rách chùi chân. Thanh Đường thì đã quen, nghe chuyện ấy cũng chẳng lấy làm bực mình mà chỉ thấy lạ, liền hỏi Vũ Lý.
“Chuyện thừa kế lấy thân phận làm đầu, dù anh có tài giỏi bằng trời thì cơ nghiệp nhà họ Lý cũng không đến lượt anh thừa kế, giống như tôi chẳng bao giờ mơ đến chuyện được tập tước phong hầu. Cô tôi lo như vậy không phải là lo hão à?”
Vũ Lý thở dài, chừng như không tiện nói. Thanh Đường biết ý, liền ra hiệu cho Phù Tô ra ngoài, tiếp tục theo dõi binh tình. Khi trong phòng chỉ còn lại hai người, Vũ Lý mới nói.
“Em hẳn là đã từng nghe tới danh tiếng của Linh Quân phu tử?”
Thanh Đường gật đầu. Linh Quân phu tử thời trẻ xuất thân danh môn, tài cán hơn người. Đến đời tiên đế, nhà ông vô cớ chịu án oan. Ông ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, giữ được tính mạng. Mấy năm sau, tiên đế xét lại án xưa, chiêu tuyết cho gia tộc của ông, lại phát chiếu tìm tất cả những người còn sót lại trong dòng họ ông ra làm quan. Có người đem nơi Linh Quân ẩn mình tâu lên tiên đế. Tiên đế tiếc tài, cho vời ông ra, muốn phong ông chức Thái bảo của Thái tử song ông chỉ xin được ở lại chốn điền viên bốc thuốc dạy học. Tiên đế không muốn bức ép người hiền, đành phải đồng ý. Từ ấy, Linh Quân đi khắp nơi, đàm đạo luận bàn với những bậc hiền nhân ẩn sỹ. Danh tiếng người ngày một vang xa, người đến xin làm học trò nhiều không kể xiết. Song, Linh Quân không thu nạp một ai mà cùng chín vị cao nhân nữa vân du khắp nước Hoài, mỗi người chọn từ thiên hạ ra một đứa trẻ để truyền vốn học. Học trò của những người ấy hội lại gọi là Vân Thù thập kiệt. Tuy tiếng tăm lừng lẫy nhưng mặt mũi họ ra sao thì chẳng mấy người hay biết.
Vũ Lý cũng không rõ chín vị cao nhân còn lại là ai. Chỉ biết mấy năm trước, Linh Quân phu tử tới nhà họ Vũ làm khách rồi ngỏ ý nhận hắn làm đệ tử truyền thừa. Vũ Xung Trực không ngờ con trai thứ của mình lại có tài lạ, thấy vậy thì mừng rỡ, lập tức làm lễ để Vũ Lý lạy phu tử làm thầy. Từ đó, hắn vẫn thường ở chỗ Linh Quân học đạo. Vừa rồi, vì Hồ Dương có sự biến nên hắn mới về thăm nhà. Cũng vì chuyện ấy mà Cung Uyển có ý e dè hắn, muốn trừ hắn đi để tước hầu chắc phần về tay con ruột của bà là Vũ Thuyên. Vậy nên nhân khi Vũ Lý về Hồ Dương, bà liền kiếm cớ đưa hắn sang Linh Nham cùng. Trước là để ngăn hắn trở lại viện Linh Quân, cắt đứt việc học. Sau là để giữ hắn bên mình, tiện bề sắp xếp.
Bấy giờ, Thanh Đường mới hay mọi chuyện. Trước nay, nàng ta vẫn thường nghĩ số mình đã hẩm hiu chẳng ra gì, nào ngờ Vũ Lý cũng lắm nỗi tân toan khổ lụy. Nàng vừa thương xót vừa phiền muộn, ngồi lặng đi chẳng nói một lời. Vũ Lý thấy Thanh Đường có ý buồn, trong lòng rất áy náy. Hắn lựa lời an ủi nàng rồi gọi Ngọc Tảo đến dặn dò.
“Không phải mấy hôm trước chú Cả phụng lệnh triều đình cùng một vị Tuần án ngự sử thị sát vùng Tây Hạ hay sao? Chỗ ấy rất gần Linh Nham. Ngươi hãy tìm cách đưa tin Trần Văn Quân đang bị cha trách phạt đến tai Trần Khắc Phi. Trần Khắc Phi vốn thương em, thế nào cũng chịu gánh vác cùng Trần Văn Quân. Họ muốn hai chúng ta làm bung xung thì ta kéo hai con trai ruột của họ vào thế chỗ. Họ biết bày mưu tính kế hại ta, chẳng lẽ chúng ta là đèn cạn dầu hay sao?”
Thanh Đường cũng dặn thêm.
"Một mình ngươi làm thì cực nhọc, hãy bảo Yên Hoa, Yên Thủy, Thúy Hoàn cùng theo giúp ngươi. Ba bọn họ đều là người thân tín của ta, có thể tin tưởng được."
Ngọc Tảo lập tức nhận lệnh đi ngay. Hắn biết câu chuyện càng dữ dội thì càng lan nhanh nên mặc sức thêm mắm dặm muối, cốt sao cho việc nói ra càng ly kỳ càng tốt. Nào là Trần Văn Quân bị cha đánh đòn, máu chảy đầm đìa. Nào là ông lớn rất tức giận, đồ đạc trong thư phòng đều bị đập phá cả, chớ ai đến đó hầu hạ lúc này mà rước họa sát thân vào mình. Hắn và ba thị nữ của Thanh Đường đều quen nhiều biết rộng, bọn họ cùng nhau cắn dưa đưa chuyện, chẳng mấy chốc mà đã nhiều người trong phủ hay tin. Thân tín của Trần Khắc Phi là Trương Đình Chi nghe được tin ấy, tay chân rụng rời. Hắn biết chủ mình thương yêu em trai, liền lập tức báo cho Trần Khắc Phi hay, không dám chậm trễ. Trần Khắc Phi nghe được tin ấy, tức tốc đưa thư về nhà, xin Trần Đăng Chung thứ tội cho Văn Quân. Hắn còn nói chờ mấy ngày sau công việc ổn thỏa, hắn sẽ đích thân trở về nhà thay em chịu phạt.
Thư đến tay Trần Đăng Chung, chẳng mấy chốc mà Lý Ninh biết chuyện. Thấy việc không lành, bà thầm đến nói với Vũ Tỏa Trâm, dặn dò nàng khuyên nhủ Khắc Phi không nên nóng vội. Vũ Tỏa Trâm vốn là người mềm yếu, hay chuyện ấy thì chỉ khóc mãi không thôi. Ngân Thúy thấy chủ mình buồn rầu, liền sang nói chuyện này với Kim Khánh, nhờ Kim Khánh tới lựa lời khuyên giải mẹ. Kim Khánh vốn là người chí hiếu, nghe vậy liền vội vã sang ngay. Chẳng ngờ, trên đường đi, đến vườn Nghi Uyên, một đứa hầu nhỏ không biết vội vàng chuyện gì mà chạy từ hướng ngược lại tới, đâm sầm vào người nàng ta. Bấy giờ, Kim Khánh đương mang giày đế hoa cao chừng mấy tấc đi trên tuyết cho khỏi ướt vạt áo, bị đâm mạnh như vậy thì lập tức chao đảo, ngã ngay xuống hồ nước gần đó. Trời tháng hai rét cắt da cắt thịt, chị ta lại vốn vóc hoa da tuyết, khi người nhà cứu lên thì đã thiêm thiếp ngất đi, cả người run cầm cập, chạy chữa mãi mới dần hồi tỉnh. Vũ Tỏa Trâm hay tin ấy, khóc đến chết đi sống lại. Mấy ngày sau đó, Kim Khánh chỉ nằm trên giường nghỉ, không đi lại đâu được. Trong nhà có chuyện gì, Lý Ninh cũng không cho chị ta biết, sợ chị ta nghĩ nhiều mà bệnh nặng thêm. Vì đó, Kim Khánh tuyệt nhiên không hay biết gì cả. Bọn chị em thấy chị ta ốm nặng, ai nấy đều lo lắng, thay phiên nhau chăm sóc. Nếu có ngày bận rộn không sang được, họ cũng sai người đưa những vị thuốc bổ sang cho chị ta bồi dưỡng thân thể. Việc này không ai nghi ngại gì cả, chỉ nghĩ ấy là tai nạn mà thôi. Duy chỉ có Trần Đăng Chung thấy những sự tình cờ liên tiếp xảy ra thì đâm ngờ. Song, vì không tìm được đứa hầu đã đâm vào người Kim Khánh nên cũng không có chứng cớ gì cả.
Mấy ngày sau, Trần Khắc Phi về tới phủ nhà họ Trần. Hắn không kịp nghỉ ngơi, cũng không kịp sang thăm Kim Khánh mà vội tắm rửa chải đầu, thay quần áo sạch sẽ đến gặp Trần Đăng Chung ngay. Thấy Trần Khắc Phi vì chuyện của Văn Quân mà gấp gáp trở về, khuôn mặt còn hằn in vẻ phong trần mỏi mệt, Trần Đăng Chung cũng không giận nổi nữa. Ông thở dài, thuật lại đầu đuôi mọi sự. Đúng lúc hai người đương bàn tính thì Thanh Đường và Vũ Lý cùng chạy tới xin gặp. Cả hai đều nước mắt đầm đìa, trông vô cùng thảm thương. Trần Đăng Chung vội cho gọi hai người vào, yên ủi rồi hỏi chuyện. Mãi một lúc sau, Thanh Đường mới quỳ xuống sụt sùi nói.
"Bác Cả giao cho việc lớn, cháu và anh Thanh vừa mừng vừa sợ, chỉ lo chưa thạo việc, gây nên lầm lỡ thì không thể cứu vãn được nên mới đến nhờ chú Hai cầm tay chỉ việc, để chú ấy làm người giữ cờ lệnh, cho chúng cháu được theo chân hầu hạ mà học hỏi. Chẳng ngờ, vì chuyện ấy làm bác giận, trách phạt chú Hai. Mọi sự tội lỗi âu cũng là từ chúng cháu mà ra cả. Mấy bữa nay, nhà ta không được yên cũng là vì chuyện ấy. Nay, chú Cả cũng phải lặn lội về đây. Tội của chúng cháu thực to lắm. Xin bác trách phạt chúng cháu. Đánh cháu, giết cháu, bán cháu, bác dạy sao cháu xin nghe vậy. Bằng không thì cháu cũng chẳng còn mặt mũi nào mà sống trên đời này nữa."
Bấy giờ, nếu Trần Đăng Chung nhân đó mà phạt hai người thì chẳng khác nào thừa nhận rằng mình đã nóng giận trách oan Văn Quân. Đồng thời, cũng ngầm thừa nhận rằng việc ông giao cho bọn họ làm có ý đồ bất thiện. Nếu như hoàn toàn không có vấn đề gì, tại sao việc hai người trẻ tuổi, non nớt đến nhờ Văn Quân giúp đỡ lại thành tội trạng. Nhưng nếu như ông nói hai người không có lỗi mà tha họ thì đồng nghĩa với việc lần vận chuyển thư tịch này vẫn sẽ do Văn Quân đứng mũi chịu sào. Nếu như có xảy ra sự biến gì, hắn là kẻ đưa đầu chịu báng. Nghĩ một thoáng, Trần Đăng Chung nhẹ nhàng đỡ Thanh Đường đứng dậy, ôn tồn nói.
"Cháu đừng nói vậy, hai đứa còn nhỏ, không biết thì hỏi, nào có tội tình gì. Chuyện chú Hai không liên quan đến các cháu. Chẳng qua vì hôm đó, ta hỏi chuyến này đi nó có dự tính gì mà nó ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời làm ta phát cáu. Ta nay lớn tuổi, một khi nóng giận là không kiềm nổi nên mới thành nông nỗi. Các cháu cũng biết con trai thứ của ta thiên tư không có, chừng này tuổi đầu vẫn chưa lập nên công danh gì cả. Quanh năm ngày tháng, nó chỉ lo đọc sách viết chữ, những việc trong ngoài đều không hay không biết, vụng dại vô cùng. Không phải ta nói quá nhưng đừng nói đến anh nó, chuyện bên ngoài đến các cháu nó cũng không bằng. Để nó dẫn các cháu đi, ta e là lợi bất cập hại. Các cháu đi chuyến này, trọng trách không phải là nhỏ, nên chọn mặt gửi vàng, chớ vì không biết dùng người mà đẩy bản thân vào hiểm cảnh."
Vũ Lý, Thanh Đường nghe vậy, biết là Trần Đăng Chung cố ý chê Văn Quân bất tài vô dụng, không kham nổi việc lớn để mở đường cứu hắn, giúp hắn không phải cùng họ làm việc này. So về miệng lưỡi, hai người dẫu sao cũng còn trẻ tuổi, không thể nhanh nhạy hơn Đăng Chung đã lão luyện quan trường. Đương lúc Thanh Đường chưa biết đối phó ra sao, may thay Vũ Lý đã cười nói.
"Bác dạy rất phải, chúng cháu được bác chỉ bảo, thực là quý lắm. Cháu còn ngu dốt nhưng xét lời bác nói, trong họ nhà ta, nói về từng trải việc đời, thực không ai sánh bằng bác và chú Cả cả. Nếu được bác hay chú Cả xua mây rẽ cỏ, dẫn lối chỉ đường cho chuyến này thì chúng cháu nào dám phiền đến việc sôi kinh nấu sử của chú Hai."
Câu này của Vũ Lý đã lôi cả Trần Khắc Phi vào cuộc để ngầm nhắc nhở Trần Đăng Chung. Bọn họ không thể ngăn ông ta trăm phương ngàn kế thoái thác nhưng nếu ông ta lần lữa trốn tránh, họ sẽ lại tìm cách chĩa mũi dùi vào hai người con ruột của ông lần nữa. Kẻ hung tợn chưa chắc đã đáng sợ, e ngại nhất là phường sẵn sàng cá chết lưới rách. Bấy giờ, Trần Đăng Chung mới nhận ra, ngay từ đầu, mục tiêu thực sự của hai người đã không phải là hai người con trai của ông mà chính là ông.
Mấy ngày sau, Trần Đăng Chung tự tay lựa một phần thư tịch trong kho cất giấu để Thanh Đường, Vũ Lý đưa về nhà họ Cung, họ Vũ. Vũ Lý lấy cớ mình không quen đi lại đường thủy, hơn nữa ở Hồ Dương còn đương xảy ra chiến loạn mà xin Trần Đăng Chung đi cùng mình. Chuyến đi này hung hiểm khó lường, nếu chẳng may giữa đường gặp phải quân phản loạn cướp phá, thuyền hàng bị giữ lại, thư tịch lộ ra thì ông ta khó lòng thoát tội. Song, Trần Đăng Chung không thể thoái thác được, đành cắn răng mà theo. Chọn được ngày đẹp, hai chiếc thuyền lớn rời bến sông Thương. Một chiếc đi về Hồ Dương, chiếc còn lại giong buồm thẳng hướng Thang Âm mà tiến.
Bình luận
Chưa có bình luận