Chương 8



Lại nói Ôn Thử Quân thấy Vũ Lý đi ngược chiều mình liền liệu đường đến chào hỏi. Song vì tuyết còn đương rơi, từ xa không nhìn rõ, mãi khi đến gần hắn mới thấy trên lưng Vũ Lý còn đương cõng một người. Bấy giờ, Thúy Hoàn đã quay lưng, lựa đường lánh đi nơi khác. Hôm trước, Ôn Thử Quân tuy đã gặp qua chị ta nhưng lúc này phần vì tuyết rơi, phần vì Thúy Hoàn đã đi được một đoạn xa nên hắn chỉ thấy bóng lưng hơi quen chứ không nhận ra ấy là ai. Vũ Lý thấy hắn chủ động bước đến, đành phải đứng lại gượng cười cho phải lẽ. Ánh mắt Ôn Thử Quân thoáng rơi trên bàn tay vòng qua cổ Vũ Lý. Bàn tay ấy chỉ lộ ra chừng đầu các ngón thuôn thuôn trắng nõn, còn lại đã khuất sau lớp áo lụa hồng. Chỉ liếc sơ cũng đủ biết ấy là bàn tay một người con gái. Dẫu biết chăm chú nhìn thì không phải phép, song Ôn Thử Quân vẫn không kiềm được mà dừng lại ánh nhìn nhiều hơn nửa khắc trên hai ngón để móng tay tháp bút, nhuộm sắc đỏ hồng. Sắc hồng của màu nhuộm thấm ít nhiều vào kẽ ngón, hòa cùng vẻ ửng thắm của đốt tay mảnh khảnh. Hắn vụt nhớ tới bàn tay người con gái nhận lấy cây trâm từ chỗ mình hôm trước, trong lòng rất hồ nghi. Song, lúc ấy, Vũ Lý đã kịp thời lên tiếng giải mối ngờ.

“Ban nãy, ở nhà bên có tiệc vui, cô em tôi uống hơi nhiều rượu nên trong người không khỏ, tôi phải đưa về, chẳng dè đến đây lại gặp tôn huynh. Tôi xin thay cô em tôi gửi lời chào, hôm nay em tôi thực là có phúc gặp quý nhân.”

Ôn Thử Quân nhớ tới ánh mắt nhìn “quý nhân” không khác nào muốn ăn xương uống máu của Thanh Đường bữa trước, trong lòng hơi buồn cười. Song, Vũ Lý đã nói như vậy, hắn cũng không tiện nhắc lại việc không vui ấy, chỉ bảo.

“Lệnh thư và công tử là chỗ họ hàng, vậy lệnh thư cũng như chị tôi, không cần câu nệ những việc ấy. Lần trước gặp ở trong tiệc tôi đã có ý muốn đến chào nhưng chưa có dịp, nay thế này cũng là dịp may của tôi đó.” – Nói đoạn, lại sực nhớ tới một việc, liền bảo. – “Khi trước tôi về Hồ Dương, tình cờ gặp lệnh huynh của công tử, lệnh huynh nhắc công tử lắm, dặn tôi nếu gặp công tử thì nhắc công tử viết thư về nhà cho đỡ mong.”

Vừa nghe hắn nhắc đến Vũ Thuyên, Vũ Lý lập tức rơm rớm nước mắt. Hai người họ tuy không cùng một mẹ sinh ra nhưng tình thân thắm thiết, ai cũng lấy làm lạ. Nay vì chiến loạn mà mỗi người một ngả, sao tránh khỏi nhớ mong?

“Tôi vẫn biết anh tôi yêu tôi lắm, chỉ tiếc đường xá hiểm trở, không tiện thư từ.”

Hai người nói thêm vài câu chuyện nữa rồi Ôn Thử Quân cáo biệt, nói rằng trưởng bối vừa tới gọi sang gác Đông Lân hầu chuyện trưởng bối. Vũ Lý chào hắn rồi đưa Thanh Đường về gác Phượng Cầu. Không biết Thanh Đường tỉnh từ lúc nào, nàng ta ghé vào tai Vũ Lý, hỏi khẽ.

“Tên này quen anh của anh à? Hai người này là thế nào, sao tôi chẳng biết gì cả.”

Hơi thở của nàng phả vào vành tai hắn hơi nhột. Vũ Lý hơi rụt người lại, lườm nàng ta một cái.

“Tưởng là em ngủ, hóa ra đã tỉnh từ lâu, vậy mà không dậy chào người ta, có vô ý không?”

Thanh Đường đáp gọn lỏn.

“Tôi ghét hắn.”

Vũ Lý đoán biết vì chuyện sửa thơ lần trước mà nàng ta không ưa Ôn Thử Quân song cũng không tiện nói nhiều thêm, chỉ trả lời câu hỏi lúc trước của nàng.

“Anh tôi hơn tôi mấy tuổi, từ nhỏ đã được cha tôi đưa đến nhà nhiều bậc danh sỹ học hỏi. Không chỉ là học đạo trung quân ái quốc, học thơ phú chương từ mà còn học cả đạo kinh doanh. Nhờ một lần tới nhà họ Ôn làm khách, anh tôi đã quen Ôn Thử Quân. Đôi bên trạc tuổi nhau, tư tưởng nhiều chỗ tương đồng nên rất tương đắc. Hai người kết nghĩa làm anh em từ đó, đến bây giờ vẫn qua lại thân thiết với nhau, so với anh em ruột thịt trong nhà như tôi thực không kém gì.”

Thanh Đường ngẫm một lúc rồi nói.

“Như thế thì tôi cũng phải uốn lưỡi gọi anh ta là anh mới phải phép. Nhưng nếu không phải gặp nữa thì càng hay. Mà anh ta có vẻ thân thiết với anh trai anh hơn thì phải.”

Vũ Lý không để việc ấy trong lòng, đáp.

“Người hợp tính nhau thì thân nhau hơn, cái ấy có gì mà lạ.”

Thanh Đường cười nhạt, nói.

“Đơn giản như trò trẻ con vậy thì tôi nói với anh làm gì? Dưới tay họ Ôn này có anh em trai gì không?”

Vũ Lý nghĩ một thoáng rồi đáp.

“Hình như có một người em do cùng mẹ sinh ra. Nếu tôi nhớ không nhầm, người này tên tục là Tiêu, tự là Huyền Linh, năm nay tuổi chừng mười hai, mười ba, cũng là người tính tình mẫn tiệp. Ngoài ra còn có một người anh trai tên tục là Lãng, tự là Bá Trung. Những người ở dưới do thiếp thất của Ôn Đông Tĩnh sinh ra thì tôi không nhớ được hết.”

Thanh Đường nghe vậy trong lòng lại càng nghi lắm. Song nàng ta biết tính cách Vũ Lý xưa nay chỉ muốn nghĩ tốt, không muốn nghĩ xấu về người khác. Nếu chưa có bằng chứng rõ rành mà đột nhiên buông lời không hay thì ắt bị hắn trách cứ. Hai người gặp nhau tuy nhiều nhưng hiếm khi hòa hợp, nàng ta không muốn làm hỏng thời khắc yên ổn này nên chỉ bảo.

“Người ta nói kẻ chung dục vọng thì ghét nhau, người chung nỗi lo thì thân nhau. Câu ấy thế nào, anh nên nghĩ cho chín. Chốc nữa về đến nơi, anh hãy để thư lại, tôi sẽ bảo người gửi đi cho.”

Vũ Lý nghe Thanh Đường nói ý như vậy cũng hiểu ra quá nửa, hắn gật đầu, không nói thêm câu nào nữa. Một chốc sau tới gác Phượng Cầu, Yên Hoa, Yên Thủy đỡ Thanh Đường xuống, dìu nàng ta vào trong. Vũ Lý theo sau, đợi lúc không có ai đưa lá thư nhà cho nàng ta. Thanh Đường nhận lấy, cất xuống dưới gối, lại bảo Yên Hoa, Yên Thủy dâng trà, giúp mình tiếp đãi hắn rồi gục xuống gối ngủ thiếp đi. Vũ Lý nói đôi câu chuyện với hai a hoàn rồi cáo biệt. Yên Hoa tiễn chân hắn về quán Tuyên Văn. Lúc ấy, Thúy Hoàn cũng về đến nơi. Thấy Yên Thủy đã nấu xong canh giải rượu, chị ta liền giúp cô cho Thanh Đường uống rồi bỏ thêm than vào lồng ấp, chờ Yên Hoa trở về. Hai người vừa ngồi khâu vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc đã qua hai canh giờ.

Lại nói chuyện ở lầu Quảng Hàn, sau khi bọn chị em đi khỏi thì Thái Tần cũng vào đến nơi. Chị ta chào Kim Khánh rồi đứng mà hầu chuyện. Kim Khánh sai Thủy Nguyệt mời ngồi, lại bảo Huệ Cô dâng trà bánh lên, hai người nói mấy câu chuyện phiếm, hỏi han nhau một hồi rồi Thái Tần mới nói,

“Hôm nay, bà tôi trong người không được khỏe, lang y bắt mạch không ra, lo là bị bệnh gì lạ chăng nên càng sầu muộn, ăn uống không vào. Bà tôi ngẫm cô là người từng trải, lúc ở trong cung biết chăng đã từng thấy bệnh ấy nên mời cô sang xem thử. Nếu cô sang được thì may cho bà tôi lắm.”

Kim Khánh mỉm cười, nói.

“Tôi cũng muốn sang nhưng hiềm một nỗi mấy hôm nay trong người hơi mệt, ra ngoài sợ phải gió lại nặng thêm nên không tiện sang. Nhưng chỉ nghe cô nói vậy, tôi cũng biết bệnh của bác rồi.” – Nói đoạn vẫy tay ra hiệu cho Thủy Nguyệt đem lên một bọc lớn bọc bằng lụa tương và một cái tráp nhỏ rồi bảo với Thái Tần. – “Phiền chị giúp tôi đem thứ này về cho bà nhà giải bệnh.”

Thái Tần vốn là người khôn ngoan, thấy Kim Khánh nói vậy thì như mở cờ trong bụng, liền cảm tạ rồi mang đồ đạc trở về dâng lên Chu Ngọc. Chu Ngọc xem ra thì thấy trong bọc có năm trăm lạng bạc trắng phau, hai bức thư được viết cẩn thận. Một bức giới thiệu Trần Chiêu đến nhà họ Ôn làm khách, cùng góp vốn đi buôn với nhau. Một bức viết cẩn mật những điều cần làm cần tránh. Chu Ngọc thấy vậy thì mừng lắm, vội vã gọi Trần Chiêu lại dặn dò cẩn thận rồi giao cho những thứ ấy, bảo chuẩn bị hành lý để lên đường ngay. Nghĩ một chốc, bà lại sai Thái Tần sửa soạn một ít đồ đạc có giá trị đem sang lầu Quảng Hàn cảm ơn Kim Khánh. Thái Tần chọn mấy cành kim thoa chạm phượng, chân điểm màu cánh trả nạm bảo thạch và dát chín hạt châu xanh, mấy chiếc khăn gấm, vài chiếc quạt vàng đưa sang tạ. Kim Khánh không muốn nhận song sợ Chu Ngọc đâm ngờ, đành phải nhận lấy rồi một mặt lại bảo Thủy Nguyệt sang đánh tin cho Thanh Đường.

Bấy giờ, Thanh Đường mới hơi tỉnh rượu, trong người nôn nao khó chịu, đầu nhức như búa bổ. Song công việc còn nhiều, nàng ta không dám bê trễ, liền bảo Thúy Hoàn mài mực trải giấy, đem đến bên giường, viết một lá thư để đưa về núi Chung Sơn, gửi cho Linh Nguyên để nhờ hắn mang thư của Vũ Lý về Hồ Dương. Thư vừa soạn xong, Thủy Nguyệt đã sang nói chuyện của Trần Chiêu. Thanh Đường đương lúc bực dọc không biết trút vào đâu, nghe vậy liền đập bàn, bảo ngay.

“Ta không muốn tìm nó, nó còn dẫn xác đến đây. Vậy ắt là trời không tha cho nó. Nó tội ác sâu dày, tưởng có thể trốn khỏi lưới trời? Đừng có mơ.”

Nói rồi, nàng ta lập tức giở bản đồ xem đường đến nhà họ Ôn ở Châu Giang. Thấy cách Linh Nam hơn trăm dặm phải đi qua một ngọn núi tên là Nam Sơn, gần Nam Sơn là châu Định Hóa. Nơi này bốn bề tiếp giáp núi non, đường xá hiểm trở, Diệu Dương thường dùng làm chỗ trung chuyển hàng cấm. Thanh Đường lập tức viết thư, vẽ mặt Trần Chiêu, sai người thân tín đưa đến lầu Giang Tương ở châu Định Hóa, nhờ lâu chủ giữ hắn lại. Tốt nhất là bắt giữ hắn trong âm thầm, không để kẻ nào đi theo hộ tống biết được. Nếu chuyện bắt giữ có người nhìn thấy, lập tức giết cả đoàn người đó để tránh tin tức lộ ra. Sau khi bắt được Trần Chiêu thì không được giết hắn vội mà đưa hắn đến vùng Trúc Giang, bán vào lầu Thiên Hương của Diệu Dương làm nam kỹ, số tiền bán hắn cho lầu Giang Tương hưởng cả. Số tiền năm trăm lạng bạc thì hoàn về Linh Nham, trả cho Kim Khánh. Lâu chủ Giang Tương nhất nhất làm theo. Trần Chiêu ở đó ngày nào cũng phải tiếp khách, nam nữ đủ cả. Cấp bậc của hắn không cao, phải tiếp đủ thứ khách thập phương. Dần dà lâu ngày, hắn mắc bệnh phong tình. Bấy giờ, lâu chủ mới sai người may cho hắn một chiếc quần đen thêu trăm con bướm bằng chỉ bạc, cho hắn mặc chiếc quần ấy rồi đưa hắn về Linh Nham, dừng xe trước cửa nhà họ Trần, lại nhắn với người gác của bảo Chu Ngọc ra nhận con trai. Chu Ngọc thấy con trai bị bệnh kín, đầu óc mụ mị, không nhận ra mẹ thì kêu khóc thảm thiết rồi ngã vật xuống. Chẳng bao lâu sau, Trần Chiêu mất, Chu Ngọc đau khổ quá độ, đổ bệnh nặng rồi chẳng bao lâu cũng thác theo. Ngày Chu Ngọc mất, Trần Như Tuệ cũng không về Linh Nham dự tang, người nhà đi tìm cũng chẳng rõ phiêu bạt ở phương nào.  

Nhưng đó là việc của sau này, tạm chưa bàn đến. Lại nói Thủy Nguyệt vừa về được một lúc thì Kim Khánh dẫn các chị em sang gác Phượng Cầu. Thấy Thanh Đường có vẻ mệt mỏi, mặt ủ mày chau, chị ta lựa lời hỏi chuyện. Thanh Đường không thể kể rõ nguyên do, chỉ nói qua loa cho có. Kim Khánh thấy vậy e làm nàng ta thêm mệt, liền bảo.

“Nếu cô không tiện thì chúng tôi xin về, hôm khác sẽ lại sang chơi.”

Thanh Đường không muốn làm chị em mất hứng, vội nói.

“Nào có như vậy, tôi lỗi phép quá. Nãy giờ mải lo nghĩ, còn chưa hỏi chị em sang đây có việc gì?”

Dao Chương cười, kể đầu đuôi.

“Nguyên là anh tôi sắp sửa từ Triều Dương về đây. Câu chuyện này nói ra thì dài, nghe đâu là vì Ngự Dương vương đưa quân về vùng ấy, thấy anh tôi là người của Tiên hoàng nên có ý không ưng nên lệnh anh tôi về Hán Dương đóng quân. Anh tôi ở đất Giang Hoài đã lâu, đồ đạc có nhiều mà Hán Dương đang loạn lạc, không tiện đem theo. Vừa hay Hán Dương sát cạnh Linh Nham, anh ấy có ý muốn qua đây đem đồ đạc gửi tạm, chờ bao giờ bình định Hán Dương sẽ hay. Mới vừa rồi, thuyền chở đồ đã cập bến, bọn gia nhân đã chở các thứ về đây. Ngoài những thứ đồ riêng thì có mấy hòm đồ mua riêng cho chị em chúng ta. Cô cũng có phần nên chúng tôi mang sang đây cho cô.”

Thanh Đường nghe vậy, ra vẻ vui mừng, nói.

“Cảm ơn anh ấy đã có lòng nghĩ đến tôi. Thực quý hóa quá. Hôm nào anh ấy tới đây, tôi xin sang trả lễ.”

Dao Chương đẩy khẽ nàng một cái, bĩu môi cười bảo.

“Chỗ chị em trong nhà với nhau, việc gì cứ phải lễ qua lễ lại. Cô làm vậy chẳng hóa ra chúng ta kém tình thân mật ư? Cô cứ nhận đi, không phải mang qua gì cả. Sau này, anh ấy ở gần đây, còn phải mời chúng ta uống rượu dài dài, lần nào cô cũng sang tạ thì đến bao giờ cho đủ.”

Thanh Đường cười xòa, nói.

“Thôi, đừng nói việc này nữa. Chị em đã bỏ công đến đây với tôi, thế nào cũng phải để tôi thết một bữa mới được.”

Nói đoạn, nàng liền bảo Yên Hoa dọn tiệc rượu. Vừa ăn uống, Kim Khánh vừa cách quãng bàn với Thanh Đường việc trình với Lý Ninh chuyện đợi qua đợt rét này sẽ mời thầy tới dạy học cho con cháu trong nhà. Thanh Đường biết mình là phận khách, nếu việc này nhúng tay nhiều thì người nhà họ Trần ắt có kẻ không vui, vậy nên chỉ lắng nghe rồi gật đầu cho qua chuyện, không bàn thêm điều gì cả. Huống hồ việc của Diệu Dương còn dang dở, nàng ta cũng không muốn ôm đồm thêm những chuyện khác mà cậy khéo khoe khôn. Kim Khánh thấy Thanh Đường có ý né tránh cũng không nài ép, bụng thầm nghĩ sẽ bàn lại với Dao Chương rồi nói sang việc khác. Khi rượu được vài tuần, chị ta thấy gò má Phi Ly hơi đỏ, ánh mắt có phần mông lung, ý chừng đã say, không uống được thêm nữa. Nhưng lúc này ngừng thì hóa ra làm chị em mất hứng. Chị ta chợt nảy ra một ý, liền nói.

“Uống nữa thì chúng ta đều say mất, say rồi thì mất vui. Không bằng nhân lúc còn tỉnh táo, tiệc đang vui, chúng ta hãy lập hội thơ đi. Mỗi tháng gặp nhau vài lần, góp tiền làm thơ ăn tiệc như thế này chẳng vui ư?”

Dao Chương cười, nói.

“Hội thơ cái gì, chị muốn có cớ để chơi đùa thì có. Mượn việc nhã để làm việc tục, thật không ra làm sao cả.”

Mọi người nghe vậy đều lấy làm vui, bảo.

“Lập thi đàn cũng thú, đã có ý như vậy thì làm ngay đi rồi định ngày họp hàng tháng.”

Kim Khánh liền nói.

“Vậy thì trước tiên chúng ta phải bầu một người làm trưởng thi đàn mới được.”

Tử La cười, nói.

“Cô là người khởi xướng thì cô nên làm trưởng thi đàn là hợp nhất.”

Kim Khánh vội bảo.

“Cô nhầm rồi. Tuy tôi là người khởi xướng, cũng biết võ vẽ đôi chút chuyện thơ văn nhưng xem thơ không tinh, bình thơ không sắc, nếu chọn tôi thì không thoả đáng. Theo tôi, chúng ta bầu Thiên Thanh làm chủ trưởng thi đàn mới được. Đằng nào người ta cũng là bậc danh sỹ đất Hồ Dương, dù là xem thơ hay làm thơ đều hơn người, chị em chúng ta bì thế nào được.”

Mọi người nghe vậy đều cười, cho là phải. Thanh Đường chiều theo ý họ, liền bảo Yên Thủy đến quán Tuyên Văn tìm Vũ Lý. Bấy giờ, Vũ Lý đương ngồi bên án xem thư. Không biết thư do người nào gửi tới mà vẻ mặt hắn băn khoăn thấy rõ, mực đã mài lâu nhưng vẫn đắn đo chưa cất bút viết hồi âm. Thấy Yên Thủy đến mời, hắn biết bên chỗ chị em lại có tiệc vui, từ chối thì đâm ra lỗi phép nên đành kẹp lá thư giữa một cuốn sách rồi sửa soạn y trang sang chỗ Thanh Đường. Thấy hắn đến, Kim Khánh mời hắn ngồi, nói đầu đuôi việc làm thơ. Vũ Lý làm ra bộ khiêm nhường, nói nhũn.

“Dù là các cô đùa thì tôi cũng không dám nhận, tôi chỉ là hạng xoàng đó thôi.”

Mọi người nghe vậy đều níu lấy hắn, nói.

“Việc này không có anh thì không xong đâu.”

Vũ Lý từ chối một hồi không được, đành phải nhận. Sau khi đã có trưởng thi đàn, Kim Khánh lại nói.

“Có trưởng thi đàn rồi, bây giờ ta phải nghĩ biệt hiệu cho nhau đi. Tôi xem thơ thấy các vị thi sỹ ai cũng có tên hiệu cả, đọc lên nghe rất nhã. Chứ đương đọc một bài thơ mà lại chen vào những “chị”, những “cô”, những “anh” thì thực là mất hứng.”

Dao Chương cười, nói.

“Việc ấy tất là phải làm, nhưng khoan hãy đặt biệt hiệu. Bây giờ, mỗi người phải làm một bài thơ nhập hội trước mới được.”

Thanh Đường lập tức nói.

“Như vậy thì thú lắm, tôi đang có ngay một trò đây. Lần trước, tôi được một cái ống thẻ ngà, trên đó có khắc những câu thơ hay mọi thời. Chi bằng bây giờ lấy cái ống đó ra, mỗi người chúng ta rút một cái, xem trúng câu thơ nào thì lấy ngay chữ cuối của câu ấy làm vần mà làm một bài thất ngôn bát cú, chị em thấy thế nào?”

Mọi người nghe vậy đều cho là hay. Thanh Đường liền bảo Yên Hoa mở tủ lấy cái ống thẻ ngà ấy đến cho mọi người cùng bốc thăm. Vũ Lý là trưởng đàn nên mọi người mời hắn bốc trước cho phải lễ. Vũ Lý không từ chối, lập tức rút một thẻ. Mọi người cùng châu vào xem thì thấy trên thẻ hắn rút được khắc câu thơ “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Vũ Lý đọc xong thơ thì ứng khẩu ngâm luôn một bài bát cú.

“Liễu buông hoa nở phải chăng ai?
Nửa rèm ngậm tuyết, nửa trăng phai
Tàn hồng trước mắt xuân đi biệt
Thẫm lục bên tai cuốc giục hoài
Hờn ghen yến ngụ lầu Vương, Tạ
Giận tủi sương phai liễu Chương Đài
Thiều quang một chuyến xa, xa mãi
Cuồn cuộn sóng xô vẫn rộng dài.”

Dao Chương vừa nghe Vũ Lý đọc vừa chép lại. Thanh Đường nghe hắn đọc xong câu cuối cùng thì cười nói.

“Có thế này mà cũng tự xưng là tao nhân mặc khách, danh sỹ đời nay. Thứ thơ này tôi làm một lúc mấy trăm bài còn được.”

Vũ Lý không biết Thanh Đường lại tức giận chuyện gì mà kiếm cớ nói mát mình. Hắn tảng lờ như không nghe thấy, khiến cô ta chẳng khác nào đấm phải bị bông, tức đến phồng mang trợn mắt. Đến lượt Phi Ly rút, nàng rút được câu “Rèm đông gió lộng người gầy hơn hoa”. Phi Ly đọc ngay.

“Hoa phai lả lướt quyện gió xa
Ập ã sóng đưa, cánh ướt nhoà
Oanh sầu giục khách dào bầu lệ
Bướm mỏi xui người ngậm xót xa
Kẻ si nặng gánh căn duyên cũ
Người oán vương bừa bãi trăm hoa
Đầy thềm hoa rụng rêu xanh điểm
Mả cũ hoàng hôn khóc nỗi nhà.”

Vũ Lý gật đầu nói được. Dao Chương chép bài thơ mà Phi Ly vừa đọc vào giấy hoa tiên. Ban nãy Ban Anh không ăn nhiều, vừa rồi lại nghĩ nhiều thơ nên trong bụng hơi đói liền ăn thêm mấy hạt sen khô lót dạ. Sau lượt Phi Ly là tới lượt của Tử La. Cô ta rút bừa một thẻ, trúng câu thơ “Một tướng thành danh vạn xác người”. Tử La nghĩ một lúc rồi mới đọc.

“Cánh chở chiều sa vút giữa trời
Hoàng hôn rực ánh bóng chơi vơi
Đường xa bão cuốn mây vần vũ
Lối nhỏ mưa về gió chẳng vơi
Sa trường khói lửa mờ nhân ảnh
Binh đao giết chóc núi xác người
Bao tướng thành danh đều ngã xuống
Máu thắm chiến bào ướp gió khơi.”

Sau lượt của Tử La là lượt của Kim Khánh. Nàng ta rút được câu thơ “Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày” liền nghĩ một lúc rồi đọc.

“Thuyền nan vi vút khói sông bay
Văng vẳng thôn xa tiếng đập chày
Đầy ắp sông sâu hoàng hôn thắm
Cạn khô lạch suối mảnh trăng say
Rừng xanh điệp điệp người phiêu bạt
Núi đỏ trùng trùng cảnh còn đây
Nào nào oan khổ là đâu nữa?
Xé lòng kẻ khách nước non này.”

Hết lượt của Kim Khánh tới lượt Dao Chương, nàng để Tử La chép thay mình rồi rút thử một thẻ ngà, thấy trên thẻ khắc câu thơ “Xuân về nhưng tuyết lại dần xa khơi”, nàng lấy làm thích thú liền đọc ngay.

“Mai nở giữa đời tuyết lạnh rơi
Nhuỵ nở xinh tươi mặc buốt trời
Gió đông thổi khắp, sương buông phủ
Hoa rạng tịch liêu, cảnh vắng người
Lối về chùa nhỏ xa vạn dặm
Chân bước chậm rì, dạ rối bời
Phận người mỏng mảnh như hoa tuyết
Đèn xanh cửa Phật sống đơn côi.”

Sau cùng là tới lượt Thanh Đường, cô ta rút một thẻ thì thấy trong đó khắc câu thơ “Mà vẫn người trong mộng gối xuân”. Bấy giờ, Thanh Đường hơi say rượu, cô ta quăng thẻ xuống bàn, tha thướt xoay một vòng rồi đọc.

“Se sắt sầu giăng khắp cõi trần
Ai xui đòi lệ khách hồng quân?
Hận gì than suốt năm canh vắng
Oán chi thương mãi đã ba xuân
Ấy người phong lưu mà bạc mệnh
Hay kẻ quốc sắc trót đa truân
Vóc tuyết hồn hoa giờ sương phủ
Để khách giang hồ dạ bâng khuâng.”

Mọi người đều cười, khen là hay. Dao Chương chọc Thanh Đường mấy cái rồi nói.

“Thơ được thế này là nhờ công của mấy chén rượu cả đấy. Bình thường cô cứ khoác lác là ngàn chén không say, sao mà bây giờ mặt đã đỏ phừng phừng lên thế?”

Thanh Đường nằm vật lên bàn, không đáp, xem chừng đã say lắm. Má nàng ửng hồng như cánh hoa đào, đôi mắt ướt, sáng long lanh khiến nhan sắc càng hơn lúc thường, khiến ai nhìn cũng phải nao lòng. Vũ Lý trông lấy, trong lòng hơi xiêu xiêu, chuyện lúc trước đã bay đi đâu hết. Hắn bảo Thuý Hoàn.

“Em ra ngoài lấy nước cho cô lau mặt rồi bảo nhà bếp pha canh giải rượu đem lên đây nhé.”

Thanh Đường nghe thấy Vũ Lý có ý săn sóc mình như vậy thì trong lòng cũng nguôi nguôi, cả hai lại vui vẻ như trước. Lúc bấy giờ, mọi người mới bàn đến việc nghĩ tên hiệu cho nhau. Phi Ly nhìn Kim Khánh, nghĩ ngợi một chút, cẩn thận cân nhắc câu từ rồi nói.

“Em đọc sách “cổ kim nhân vật khảo” thấy có viết chuyện xưa kia, trên xe vua ngự thường chạm trổ một con chim loan ngậm chiếc chuông vàng, chữ ấy gọi là “loan linh”. Vừa hay tên chị cũng có ý tứ ấy, vậy em xin gọi chị là “Loan Linh phi tử”, chị xem chữ ấy có dùng được không?

Kim Khánh cầm nhẹ cổ tay Phi Ly, bẹo khẽ má nàng, cười nói.

“Có bao nhiêu chữ em không dùng, cứ phải lấy chữ “phi tử” là cớ gì?”

Tử La kéo Phi Ly lại chỗ mình rồi bảo Kim Khánh.

“Ấy là chữ tốt đẹp đấy. Chị cứ nhận lấy đi. Chị dùng cái tên này, ắt mai kia có số ngồi xe loan, xe phụng.”

Kim Khánh đỏ bừng mặt, đẩy khẽ Tử La một cái, nói.

“Ái chà, cô lại nói nhảm đấy. Nhưng quả tôi thích hai chữ “Loan Linh” lắm, bỏ đi thì sợ chẳng còn tìm được chữ nào ưng nữa.”

Tử La nói.

“Đã vậy chúng tôi hãy cứ gọi chị như vậy đã, chừng nào nghĩ ra được ý gì hay sẽ lại đổi hai chữ phía sau.”

Kim Khánh không muốn nói dông dài, đành phải đồng ý. Bấy giờ, Thanh Đường đang say chếnh choáng. Thấy mọi người bàn luận rôm rả, cô ta cũng nghĩ rồi chỉ vào Vũ Lý, cười ngây ngất, nói.

“Biệt hiệu của hắn thì không phải chọn cầu kỳ gì cả, chỉ dựa vào hai chữ “Thiên Thanh” mà dùng chữ “Thanh Không” có được không?”

Dao Chương cười nói.

“Được lắm, Thiên Thanh là màu trời, Thanh Không lại là bầu trời, như vậy vừa sát lại vừa gợi.”

Vũ Lý thấy chữ ấy cũng hay liền nói.

“Vậy xin chị em cứ gọi ngay tôi là Thanh Không động chủ.”

Mọi người nghe vậy đều cười nói.

“Nghe cái tên là thấy ngông ngạo rồi, anh này đúng là chẳng chịu dưới ai cả.”

Thanh Đường say quá, miệng nói linh tinh, thi thoảng lại gõ đũa xuống đĩa, xuống bát, cao giọng ngâm nga "Thánh hiền tên tuổi bặt đi, Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời". Mọi người vừa thương vừa buồn cười. Phi Ly thấm nước ướt khăn tay, lau qua mặt cho nàng ta rồi nói.

“Sau này chớ có để cô ấy uống nhiều rượu như vậy nữa.”

Thanh Đường ngây ngẩn nhìn nàng, chợt cười rộ lên, nói.

“Biệt hiệu của cô tôi đã nghĩ ra rồi đây. Mấy bữa trước tôi có đọc cuốn “Thần thoại ký”, trong ấy viết thời Thượng cổ ở Nam Hải có loài giao nhân, nửa thân trên là người, nửa dưới là cá. Vì đẹp đẽ thông minh, giao nhân khi lên sống chung lộn với con người cũng rất được con người yêu quý. Khi phải về thủy cung, vì quyến luyến cái tình ấy nên giao nhân khóc lóc thảm thiết. Nước mắt rơi xuống thảy thảy đều hóa thành hạt ngọc. Tôi thấy em mắt ướt, gọi em là “Châu Lang khách” có được không?”

Dao Chương nghe thế thì cười, nói.

“Con Thanh này say mà xem chừng lời nói vẫn tỉnh ra phết đấy. Mày muốn làm trích tiên đó phỏng?”

Thanh Đường không nói gì. Dao Chương nghĩ một thoáng rồi bảo.

“Chị đặt cho Tử La một biệt hiệu, em xem có ưng thì lấy. Thường ngày tính em thích nghe mưa. Vậy nên tôi tính gọi Tử La là “Hồng Vũ sinh”, chị em thấy thế nào?”

Mọi người đều nói được. Nhìn Thanh Đường đang uống canh giải rượu, Kim Khánh chợt nghĩ ra một ý, nói.

“Tôi nghĩ ra biệt hiệu của cô Thanh rồi đây. Tôi từng nghe cô nói cô ở trên một cái gác gọi là gác Phượng Cầu, cao đến mấy chục trượng, những đêm rằm trăng thường lặn ở chỗ đấy, nhìn từ xa chỗ cô ở như thể ở trong mặt trăng giống như cung Quảng Hàn vậy. Cô lại đẹp hơn người nên tôi nghĩ nên gọi cô là "Vân Nga tiên tử" thì chẳng còn gì hợp hơn nữa.”

Mọi người đều cười, khen là phải. Phi Ly ngẫm nghĩ một hồi rồi nói với Dao Chương.

“Em xem trong muôn loài hoa thì chỉ có hoa mai sánh được với chị. Trước kia, khi em còn ở nhà có nghe mẹ nói rằng hoa mai ngày trước còn có tên khác là Tuyết Anh, em thấy hai chữ ấy cũng hay. Nay gọi chị là “Tuyết Anh đại sỹ” quả thực rất hợp.”

Dao Chương cười rồi đồng ý. Mọi người cùng nhau bàn thêm một lúc để định ngày họp hội thơ. Cuối cùng, bọn họ đồng thuận chọn ngày đầu mỗi tháng và ngày cuối tháng. Cứ đến ngày ấy, mỗi người góp năm lạng bạc để sửa soạn tiệc và các thức để làm thơ đề vịnh. Ngày hôm ấy, hễ quyết làm ở chỗ ai thì người đó phải đứng ra để nghĩ đầu đề cho mọi người làm thơ. Vũ Lý thân làm trưởng hội, liền ngỏ ý mời bọn họ sang quán Tuyên Văn. Đầu đề là gì, hôm ấy sẽ biết. Bàn luận đâu vào đấy xong xuôi, mọi người thấy cũng đã muộn liền lần lượt cáo từ ra về.

Vũ Lý cố ý nán lại sau cùng, định bàn với Thanh Đường việc thư nhà. Nào ngờ, nàng ta vẫn còn giận dỗi, liền đánh mấy cái vào người Vũ Lý rồi vùng vằng bỏ ra đài trang ngồi. Nàng ta không chủ tâm đánh hắn đau nên cảm giác chẳng khác chi mèo liếm nước. Đau thì không đau nhưng Vũ Lý chẳng hiểu ra sao cả. Hắn đương lúc phiền muộn, thấy nàng ta hay kiếm cớ giận dỗi sinh chuyện thì càng thêm mệt mỏi liền cáo từ về quán Tuyên Văn. Song chưa bước được mấy bước, Thanh Đường đã đứng lên trỏ vào hắn, nói.

“Anh còn dám hỏi đến tôi sao? Cái áo tôi đưa cho anh, anh cho những phường nào mặc? Anh tưởng tôi không biết hay sao?”

Nghe nàng ta trách móc, Vũ Lý ngơ ngẩn một thoáng rồi mới sực nghĩ ra, bảo.

“Ngày nào tôi cũng ở nhà, có gặp ai đâu mà đưa cho người lạ được. Em đa nghi quá. Chẳng qua hôm trước chúng ta về muộn, chị Sở Nguyệt ra đón tôi, tôi thấy trời tuyết mà chị ấy mặc độc một chiếc áo bông cũ, cả người co ro rất tội nên cho chị ấy mượn khoác một lúc mà thôi. May hôm nay em nói những chuyện này chỉ có hai chúng ta, nếu có thêm người khác, chẳng phải em đã mắc lỗi với người ta rồi ư?”

Thanh Đường nheo nheo con mắt, tỏ ý ngờ vực. Nàng ta kéo cổ áo Vũ Lý lại gần ngửi kỹ rồi hỏi lại.

“Có thật không đấy? Chỗ anh đốt hương long tiên từ lúc nào? Không phải trước giờ anh chỉ ưa thứ hương tùng bách thôi à?”

Vũ Lý sững người, hỏi.

“Trên áo tôi có mùi hương long tiên à?”

Thanh Đường thấy hắn không biết thực thì cơn giận đã vơi quá nửa, liền buông tay ra.

“Nếu anh không rành hương thì gọi ngay người biết tới đây mà hỏi sẽ rõ, việc gì phải căn vặn tôi.”

Vũ Lý liền bảo Ngọc Tảo đi đòi một người buôn bán sành các thứ hương trong thành đến phủ. Người đó cầm chiếc áo của hắn, xem thật kỹ rồi nói lại.

“Thứ này đúng là long tiên hương, không thể nhầm được.”

Vũ Lý chau mày tỏ ý nghi hoặc, hỏi.

“Sao ông biết chắc được?”

Người lái buôn cẩn thận nói tường tận.

“Công tử có điều chưa biết, nguyên thứ hương này vốn là nước bọt của loài giao long ở nước Tịch. Nếu đốt riêng thì không mùi mẽ gì nên người ta thường dùng làm hương nền rồi hòa thêm bột hoa mạt lỵ, hoa tố hinh vào, mùi chẳng những không lẫn mà thơm tho thấu triệt. Mấy năm nay ven biển phía Nam, chỗ giao thương với nước Tịch bị cướp biển quấy phá, không thể vận hương lên được. Thứ hương này đội giá lên mấy chục lạng bạc. Chẳng ít kẻ nhân dịp này làm đồ giả đưa đến chỗ chúng tôi lấy tiền. Nếu chúng tôi không biết hàng thì chẳng phải đã phá hết gia tài rồi ư?”

Thấy Vũ Lý không hỏi thêm gì nữa, Thanh Đường liền bảo Yên Vân tạ người đó năm lạng bạc rồi tiễn ông ta về. Người lái buôn được bạc thì mừng lắm, lạy tạ rồi lui ra. Bấy giờ, hương trong phòng đã cháy hết. Thanh Đường cầm que cời chậm rãi khơi vụn hương trong chiếc lò phó sơn đặt trên khay gỗ. Yên Thủy biết ý liền đem thẻ hương mới đến rồi châm hương bỏ vào trong lò. Yên Hoa cũng mang nước nóng tới đổ vào chiếc khay đặt dưới chân lò. Hơi nước bốc lên cùng khói hương tạo thành lờ mờ sương mỏng. Thanh Đường quạt hương, ngửi thử, chỉnh mãi tới khi mùi thực vừa ý mới ngồi xuống đối diện Vũ Lý đương trầm tư, bảo.

“Loại hương nào đưa đến phủ nào, anh đến chỗ chị Khánh nhờ chị ấy hỏi giúp thì biết. Chị ấy xưa nay giữ lễ, ắt là có hỏi cũng không khiến ai phải ngờ vực.”

Vũ Lý một phần không muốn phiền đến Kim Khánh, một phần còn ngờ vực chị ta từ việc thư tịch nên có ý không muốn, đành hỏi Thanh Đường.

“Chuyện ấy em có biết không?”

Thanh Đường cười, nói.

“Biết thì có biết, nhưng tôi nói nhiều thì e là anh lại ngờ tôi là hạng rắp tâm chia rẽ, gây chuyện thị phi. Anh cứ đi hỏi chị ấy là tốt nhất.”

Nghe vậy, Vũ Lý liền từ biệt nàng ta rồi đến chỗ Kim Khánh lựa lời dò hỏi.

“Bữa trước không biết tôi đến nhà ai mà trên áo lưu lại mùi hương long tiên thơm lắm. Chỗ chị còn thứ hương ấy không, cho tôi xin một ít.”

Kim Khánh nghĩ một thoáng rồi đáp.

“Chỗ tôi không có thứ ấy, xưa nay tôi chỉ ưa đốt hương trầm mà thôi. Thường ngày tôi cùng thím Hai xem sổ sách, thấy thứ hương ấy thường được đưa tới chỗ mẹ anh. Anh thử tới đó hỏi xem, may chăng là còn.”

Vũ Lý cảm tạ Kim Khánh rồi ra về, trong bụng rất băn khoăn. Nếu hương long tiên còn vương trên chiếc áo hắn đưa cho Sở Nguyệt thì ắt chị ta đã đến chỗ Cung Uyển. Song, suốt mấy ngày nay trong quán Tuyên Văn không có công việc gì cần tới đó, mỗi khi hắn tới hỏi thăm Cung Uyển cũng đều là Tán Hoa đưa đi. Hơn nữa, dạo gần đây trời lạnh, tuyết dày, gác Nhã Vũ ở lại xa quán Tuyên Văn, nếu không có việc trọng, các a hoàn ở chỗ Vũ Lý đều ở nhà cho ấm chứ không ra ngoài. Càng nghĩ, Vũ Lý càng cảm thấy có điều chi không ổn. Hắn liền hỏi Ngọc Tảo.

“Em có quen thân với ai ở chỗ mẹ ta không?”

Ngọc Tảo thưa.

“Bà Cả xưa nay không thích tôi, thường ngày tôi cũng không hay qua bên đó nên ai cũng lạ cả. Nhưng bữa trước, tôi có thấy chị Tịch Nhan bên chỗ cô Ly đứng nói chuyện với Bách Hạnh ở bên ấy. Hai người ý chừng thân thiết lắm. Có chuyện gì, cậu nên đến chỗ chị Tịch Nhan hỏi thử.”

Vũ Lý nói.

“Ta đi lại, hỏi han nhiều cũng không hay. Ngươi giúp ta qua bên đó gặp Tịch Nhan hỏi chuyện, cốt làm sao để biết được mấy ngày qua Sở Nguyệt có đến chỗ mẹ ta không, nếu đến thì nói việc gì là được.”

Ngọc Tảo vâng lời đi ngay. Song đi được nửa đường, hắn lại nghĩ đến chuyện mình không thân thiết với Tịch Nhan là mấy, đường đột hỏi thăm ngộ nhỡ cô ta đâm ngờ. Nếu cô ta nói với Phi Ly thì chuyện chẳng có gì, nhưng nếu nói với a hoàn khác thì chỉ e đến tai Cung Uyển. Ngẫm một hồi, hắn liền đến gác Phượng Cầu tìm Yên Hoa. Bấy giờ, Thanh Đường đương nằm trên trường kỷ thiêm thiếp ngủ, Yên Hoa ngồi một bên bóp đùi cho nàng ta. Ngọc Tảo đưa mấy trăm đồng tiền cho đứa a hoàn nhỏ, nhờ nó vào gọi Yên Hoa ra nói chuyện. Đứa a hoàn đó chạy vào nhà trong, nói nhỏ với Yên Hoa mấy câu. Yên Hoa thấy nói có việc gấp, liền bảo nó đi tìm Yên Vân vào thay mình hầu hạ. Thoáng thấy bóng chị ta trước cửa, Ngọc Tảo đã ra hiệu gọi chị ta tới sau khóm hoa, nói khẽ.

“Tôi đang có việc muốn nhờ em.”

Yên Hoa cười nhạt, bảo ngay.

“Anh không nói tôi cũng biết. Không có việc thì đời nào anh nhớ đến tôi?”

Nói rồi vùng vằng định trở vào nhà. Ngọc Tảo vội níu lấy cổ tay chị ta, nói.

“Em nói thế thực oan cho tôi quá. Có lúc nào mà tôi không nghĩ đến em?”

Yên Hoa giằng tay lại, bĩu môi bảo.

“Thôi, anh đừng có nói mèo nói cáo với tôi. Chủ tớ nhà anh sang đây lấy sắc dụ người, cốt được việc mình chứ nào có tình cảm gì. Các người lừa được cô tôi chứ lừa thế nào được tôi. Bữa nay anh qua đây chắc chỉ cốt để hỏi xem chị Sở Nguyệt nhà anh qua gác Nhã Vũ nói những chuyện gì phải không?”

Ngọc Tảo ngạc nhiên lắm, hỏi.

“Em ở đâu mà biết được những chuyện ấy?”

Yên Hoa xoa xoa cổ tay bị nắm hơi đỏ lên, nói.

“Cô tôi đã bảo tôi sang chỗ Tịch Nhan dò hỏi từ nãy kia. Nhưng không phải hỏi Bách Hạnh mà hỏi Lệ Xuyên. Bách Hạnh là người bà cô mang từ nhà mẹ đẻ về nhà chồng, bây giờ lại cùng nhau sang đây, tình thân còn hơn máu mủ. Những chuyện khác hỏi đến thì chị ấy chẳng tiếc gì, nhưng đã là chuyện liên quan đến chủ, đời nào chị ấy chị hé răng nửa lời, hỏi cũng bằng không thôi. Anh xem thường chúng tôi quen, lại xem thường cả chị ấy nữa à?”

Ngọc Tảo lại gần chị ta, nhỏ giọng bảo.

“Em ơi, em đã biết đến gan ruột tôi, tôi chẳng dám giấu gì em nữa. Việc này chủ tôi rất băn khoăn, không biết hỏi ai được, xin em nói cho tôi với. Ấy là tấm lòng của cô em mà cũng có công của em đấy.”

Yên Hoa cười nhạt, đẩy hắn ra, bảo.

“Chúng tôi chẳng thèm. Nhưng việc chị Sở Nguyệt còn can hệ đến chuyện lớn sau này nên anh hãy về bảo với chủ anh là chị ấy sang báo lại việc cậu ấy giữa đêm viết thư từ, không biết gửi cho ai, sáng sớm thì sang tìm cô tôi ngay đấy. Bà cô nghe vậy thì thưởng cho chị ấy rồi bảo chị ấy về.”

Ngọc Tảo nghe vậy thì khiếp hồn bạt vía, vội cảm tạ Yên Hoa rồi ba chân bốn cẳng chạy về quán Tuyên Văn. Trông dáng điệu vắt chân lên cổ mà chạy của Ngọc Tảo, Yên Hoa nhếch mép rồi đi lên gác. Yên Thủy trông thấy cảnh ấy liền đẩy nhẹ chị ta một cái, bảo.

“Gớm chưa, ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Tao đi trình cô cho xem.”

Yên Hoa trỏ về bóng Ngọc Tảo đằng xa, nói với Yên Thủy.

“Con này điên rồi, tao đã làm gì. Phường nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà, mày lại cấm tao cười hay sao?”

Hai người cười nói một lúc rồi vào trong hầu Thanh Đường. Nàng ta đã dậy từ lâu song người còn hơi mệt nên chưa muốn dậy, cứ nằm trên giường nghịch tua ngọc của dây hoa treo trên mành. Thấy họ vào, Thanh Đường cười bảo.

“Các chị nói chuyện rôm rả quá. Có chuyện gì vui thế? Nói cho tôi vui với. Tôi đương buồn bực đây.”

Yên Hoa liền kể lại đầu đuôi chuyện Ngọc Tảo ban nãy. Chủ tớ mấy người đều bật cười. Thanh Đường dựa vào cái gối lụa thêu hoa, để Yên Vân chải tóc cho mình. Đám hầu nhỏ người nào người nấy mặc áo lụa xanh, quần đoạn nguyệt bạch, thắt lưng hoa tùng, mỗi người một việc. Người bưng nước rửa mặt hòa móc thơm, người cầm khay đựng khăn lụa trắng muốt, người dâng phấn son, người dâng gương lược. Thanh Đường vén tóc mai cho Yên Hoa, nói.

“Khe khẽ chứ kẻo cười người hôm trước hôm sau người cười. Hôm nay chúng ta cười vang đến tận quán Tuyên Văn, nếu như hôm sau chỗ chúng ta cũng có kẻ tâm thuật bất chính, ăn ở hai lòng, để họ biết được thì chẳng hóa ra trát gio vào mặt ư?”

Yên Hoa thấy nàng ta nói có ý, liền hỏi.

“Cô nói như vậy nghĩa là nói chúng tôi?”

Thanh Đường cười bảo.

“Tôi nói bung xung, trúng ai thì trúng. Các chị thì tôi chẳng ngại nhưng biết người biết mặt chẳng biết lòng, trên dưới chỗ này, bụng ai cũng như bụng các chị được sao?”

Yên Hoa cười bảo.

“Nếu có ai như vậy, tôi chẳng để nó sống yên đâu.”

Thanh Đường nhìn chị ta, cười hỏi.

“Lòng dạ người ta đã không để ở chỗ mình, chị định làm thế nào? Chị chẳng nghe câu ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên ư?”

Yên Hoa nhếch mép cười, nói.

“Cô còn nuông chiều người dưới không đủ à? Thế mà còn bụng dạ làm phản. Như vậy đủ biết kẻ đó có lòng dạ cũng vô dụng. Nếu lòng dạ đã vô dụng thì nên móc nó ra là xong.”

Thanh Đường cười phá lên, bảo.

“Cách ấy hay lắm. Đã vậy chuyện ấy giao cả cho chị với chị Thủy được không? Độ này chị Hoàn cũng nhiều việc, tôi càng tối tăm mặt mày, nếu không có người lo liệu ắt chẳng ra đâu vào đâu được, đành nhờ các chị vậy.”

Yên Hoa và Yên Thủy lập tức nhận lời. Thanh Đường đến đài trang, lấy hai chiếc trâm vàng chạm hình Chu Tước, miệng ngậm tua kim tuyến xâu hạt châu, hạt to nhất bằng hạt đào, hạt nhỏ nhất chỉ lớn hơn đầu ngón tay út đứa trẻ một chút rồi cài lên tóc mỗi người một chiếc. Hai người lại hầu Thanh Đường rửa mặt, chải đầu rồi sửa soạn y trang sang hỏi thăm sức khỏe trưởng bối, tiện đường mang chiếc trâm hôm nọ, trả lại cho Dao Chương. 

2

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout