Mưỡu:
“Ngày trước Tây Thi giặt bến này
Giờ rêu in đá não nùng thay
Cô Tô một chuyến đi, đi biệt
Đào lý bên bờ xuân với ai?”
Nói:
Thanh Đường nén nước mắt, cầm tay họ, bảo.
“Các anh hãy đi theo chị Hoàn đến đình Trầm Hương đợi tôi. Chừng nào cắt đặt xong việc, tôi sẽ qua đó ngay.”
Ba người liền đi theo Thuý Hoàn. Thanh Đường thì lên xe, bảo người hầu đến thẳng gác Bội Văn. Nơi đây xây nổi cao giữa hồ nước mênh mang. Những dịp đông xuân, sương mù bảng lảng, trông chẳng khác nào đương phiêu bồng nổi trôi trong mây khói, chẳng giống như ở cõi tục tý nào. Thanh Đường đi qua non bộ điệp trùng, Yên Hoa đi trước vén những rễ phụ rủ dài sát đất như rèm châu của cây si sang một bên, để lộ bậc thang tạc bằng đá cho nàng bước. Kim Khánh đã tới đó từ sớm. Chị ta mặc áo lông điêu, ngồi trên chiếc ghế trải đệm dày bọc vóc đỏ, đương cắt đặt từng tốp người nhà lo liệu các việc và đốc thúc họ chuẩn bị mọi thứ cho chu tất. Nhóm ít người làm các việc nhỏ như bày chén đĩa, treo bức mành “thập nhị mỹ cảnh” lên bốn bề cho thêm phần sinh sắc. Bức mành này dệt bằng gấm thêu phương Bắc, nhìn từ mỗi góc độ khác nhau lại có vẻ biến hoá khôn lường, nay giăng bao quanh như vậy khiến người ngồi trong như lạc giữa muôn vạn cảnh tiên. Những người ấy lại giăng hoa lụa năm sắc đẹp đẽ cầu điềm lành, kết đèn lồng theo lối ngũ sơn bồng bềnh trùng điệp. Những con hát trong nhà hay mời từ bên ngoài về đều đã được sắp xếp đợi cả ở viện Linh Cao. Kim Khánh lại dặn dò nhóm người lo việc trông coi phường hát “phải chú ý thức ăn, thức mặc của họ. Họ muốn ăn gì, chơi gì, chỉ cần trong phủ ta có thì bỏ công tìm kiếm mà đưa lên. Chớ có khinh rẻ họ”. Tử Thuý liền thưa.
“Từ giờ đến lúc nhập tiệc còn lâu lắm, vì sợ họ ngồi đợi có buồn chán hay đói bụng chăng nên đã dọn sẵn mười bàn cỗ bát bảo. Các món thịt, cá, gà, vịt cùng các loại hoa quả trên cạn, dưới nước đều đủ cả.”
Kim Khánh mỉm cười.
“Như vậy tốt đấy. Các em nhớ cắt người vào thay than trong lồng ấp thường xuyên, đừng để họ bị lạnh.” - Nói đoạn, nàng lại nhìn sang Tú Uyên, dặn. – “Các em mang bạc đi đổi lấy tiền xu nếu như mang bạc thỏi đi thì không xong đâu. Hãy mượn cái cặp sắt ở chỗ cô Thanh, cắt nhỏ ra từng miếng một lạng, như vậy thì xong nhanh mà cũng không sợ người ta ăn gian làm dối.”
Tú Uyên liền nói.
“Sáng sớm nay con đã sang mượn chị Hoàn rồi. Bạc cắt ra được tổng cộng năm mươi miếng một lạng, đem đổi được bảy mươi tám thúng tiền xu, vị chi là đồng tiền, chơi một ngày không hết đâu.”
Kim Khánh gật đầu ngợi khen rồi bảo Tú Uyên, thưởng cho nàng một nắm vàng cốm rồi dặn nàng mang số tiền ấy cất đi cẩn thận, cử người thật thà canh giữ, đừng để người ta nhân lúc trong ngoài bận rộn mà giở trò trộm vặt. Tú Uyên vâng lời, vội vàng lui xuống lo toan. Thanh Đường thấy chỉ mình Kim Khánh ở đây cũng đủ lo liệu chu toàn liền qua nhà bếp hối thúc người làm, bảo họ đúng giờ Mão dọn chung vài món đưa đến phòng trưởng bối cho các vị dùng bữa sáng. Sau khi bữa sáng xong xuôi mới bắt đầu làm lễ sinh nhật, đến trưa mới nhập tiệc. Không ai để trưởng bối bụng rỗng mà làm lễ cả, như vậy ắt bị trách là không chu tất. Bà Lưu vâng dạ, bảo đứa con gái là Lưu Hà cùng hơn chục người hầu khác tất bật dọn mâm lên. Bữa sáng nay Thanh Đường cũng đã dặn trước mấy ngày, bảo họ chuẩn bị thịt chim công nguội, canh bách hợp hải đường, toàn dương hấp sữa bò, một vò nước móc ngân nhĩ hoa băng và hơn ba mươi thức điểm tâm khác.
Phi Ly chầm chậm đi xuống nhà bếp. Nàng hơi không quen cảnh này song vẫn cố bước. Thanh Đường trông thấy nàng từ xa bước lại, vội ra ngoài cầm lấy tay nàng, thấy lạnh ngắt thì hoảng hồn, hỏi.
“Trời lạnh thế này em cứ ở trong nhà thôi, chưa ăn uống gì xuống đây làm chi cho cực.”
Phi Ly cười nói.
“Các chị đều bận rộn, không lẽ em lại ngồi chơi?” – Nói đoạn, nàng nâng bàn tay hơi khô của Thanh Đường lên, bảo. – “Chị vội quá, quên xoa mỡ cừu rồi phải không? Mùa này nếu quên xoa thứ ấy, da tay sẽ nứt ra mất.”
Vừa nói dứt câu, nàng liền vẫy Tịch Nhan tới. Tịch Nhan vén tấm rèm the xanh, đưa hai người vào một gian phòng tạm coi là sạch sẽ, lấy các thứ đồ phấn sáp ra, hầu Thanh Đường xoa mỡ cừu vào tay, xức dầu xạ hương lên thất khiếu, tỉ mỉ chải lại mái tóc. Thanh Đường cười nói.
“Kỹ quá làm gì, chốc nữa chạy qua chạy lại rồi vẫn xổ tung ra thôi.”
Phi Ly nói.
“Những việc này chị cứ để nô giám lên trình là được, việc gì phải tự mình xuống chỗ này?”
Thanh Đường nói.
“Em còn trẻ tuổi, đâu biết được những việc trái khoáy của bọn họ. Trước mặt ta họ còn lấp liếm đủ điều, sau lưng ta thì họ còn khuấy nước chọc trời đến thế nào nữa. Ngày thường, ta không chấp nhặt với họ những chuyện cỏn con ấy là vì ta thương họ quanh năm vất vả, mắt nhắm mắt mở để họ kiếm chác thêm một chút coi như bù đắp cho họ. Nhưng hôm nay là dịp quan trọng, người đông việc nhiều, nếu vì tư tâm của họ mà để ngày vui không được trọn thì còn ra làm sao nữa. Mà họ đã làm bậy thành quen, không có mặt ta họ còn biết đến ai. Dẫu biết là không nên, ta cũng đành phải đến tận đây vậy.”
Phi Ly cúi đầu, xoắn xuýt những ngón tay, nhỏ giọng nói.
“Các chị đều bận rộn, em lại chẳng giúp được gì.”
Thanh Đường cười bảo.
“Ai nói vậy? Tôi đang có việc cần nhờ em đây.”
Ánh mắt Phi Ly chợt sáng lên. Nàng nhoẻn cười, bảo.
“Có việc gì em giúp được, xin chị cứ giao phó.”
Thanh Đường nói.
“Chẳng phải mấy ngày trước chúng mình đã bàn rằng lần này sẽ bày trò chơi thả thơ cho thêm thú sao? Mấy ngày nay tôi quên mất chuyện chọn câu thơ, chọn chữ để thả, rồi còn việc làm thẻ thơ, đắp giấy bồi, bây giờ thực không biết nhờ ai cho được, may sao có cô em, xin em đừng khước từ. Nếu như một mình vất vả quá, tôi xin bảo cả anh Thiên Thanh sang giúp em có được không?”
Vành tai Phi Ly đỏ lên, nàng lắc đầu nguầy nguậy, nói.
“Em với anh ấy đã lớn, như vậy không tiện. Tuy em không thực tài giỏi nhưng lựa chữ làm một trò chơi thì vẫn đủ sức. Xin chị cứ giao cả cho em, đến trưa nay, thế nào việc cũng xong cả.”
Thanh Đường gật đầu nói.
“Được như vậy thì hay lắm”
Phi Ly lo sách vở trong nhà mình không đủ, vội cùng Tịch Nhan sang Thanh Hiên các lấy thêm một ít thư tịch nữa. Thanh Hiên các xây trong chùa Không Môn ngay gần phủ để sư sãi trong chùa tu hành nhàn rỗi, có thêm việc cất giữ, bảo quản sách. Ngôi chùa này không quá rộng nhưng bốn bề trồng nhiều cây cổ thụ tán toả rợp trời, phía sau lại có ao đào nuôi cá, vườn rau giàn giậu, tươi tốt lạ thường nên không gian về hè vô cùng thoáng đãng, mát mẻ. Tuy bây giờ là tiết đông xuân, cây cối phần nhiều trơ trụi, cành gầy phủ đầy tuyết trắng nhưng trong chùa vẫn có hàng dãy hồng mai nở rực. Sắc hoa đỏ tươi ánh xuống nền tuyết trông muôn phần diễm lệ. Phi Ly và Tịch Nhan đến gặp trụ trì chào hỏi rồi nói rõ việc mượn sách. Trụ trì thấy vậy liền bảo một sư tiểu đưa họ đến gác Thanh Hiên. Đi một hồi, Phi Ly thấy trong người hơi ngây ngây, bóng dáng sư tiểu trước mắt cũng lúc mờ lúc tỏ. Nàng ngỡ là mình cảm sốt song đã nhận việc nên vẫn gượng đi. Trong lúc thần trí mơ màng, nàng thấy sư tiểu dẫn mình đi vào một chốn núi non kỳ lạ. Phi Ly thầm nghĩ.
“Lạ thật, gác Thanh Hiên bài trí lại từ lúc nào? Tại sao ta không hề biết gì cả?”
Phi Ly thấy lạ liền đi sâu vào trong xem thử. Đi một lúc, nàng chợt thấy phía sau dãy non bộ trập trùng bừng lên tia sáng. Nàng men theo bậc đá đi tới đó thì thấy một tòa cung điện lạ lùng được những dải tường bạc rực rỡ bao quanh. Trên mỗi đoạn tường đều có một bức phù điêu được chạm trổ tinh xảo, khắc họa lại những tích thoại xa xưa lưu truyền ở chốn Đế Hương. Đây chuyện Đế Vĩ lọc cát biển Nam, luyện vàng đất Bắc, tạo nên chín cõi. Kia chuyện Mẫu Hoàng dùng bột cây linh phục, hòa cùng nước sông Nhược, nặn thành hình dạng con người. Sau đó, người lại dùng một giọt lệ, một giọt máu hòa cùng sương vương trên cỏ cây ở Đế Hương rồi rỏ xuống hình người ấy, để chúng hình thành linh hồn, ý thức. Bọn họ đứng trước khung cửa son cao ngàn trượng, mê mải ngắm nhìn. Thốt nhiên, đôi sư tử đá ngậm ngọc trấn giữ hai bên cửa gầm lên một tiếng làm họ giật mình. Ngay sau đó, cánh cửa son nặng nề rùng rùng hé mở. Mấy người bước qua cửa, đi vào trong, men theo con đường kết bằng mây xanh ráng đỏ, rẽ qua vô số điện ngọc lầu châu, cuối cùng nàng dừng lại ở chân một ngọn tháp nguy nga sừng sững, ngay cửa có tấm hoành phi sơn son thếp vàng, đề bốn chữ “Ngọc Kinh Lang Hoàn". Lối đi lên tháp bị chắn bởi một tảng đá cao. Mặt đá nhẵn nhụi, trong sáng như gương. Trên mặt đá có đề một đoạn thơ rằng.
Dứt trần nhập niệm chẳng uổng công
Hiểu lẽ thịnh suy chỉ là không
Thạch lang hiển quý, tan chớp mắt
Sở vương anh dũng, táng bụi hồng
Hỏi người hậu thế ai còn nhớ
Thiên thu nghiệp lớn hóa viển vông
Ngẫm người mà tiếc cho người nhỉ
Trĩu gánh đa mang vẫn đèo bồng.
Nàng thầm nghĩ:“Không biết là đội thợ nào tôn tạo chỗ này, làm cũng khéo” rồi đi lên trước xem thử. Nàng men theo hành lang dài như dải lụa đi lên trên tháp, tất cả những căn phòng trên tháp đều đóng chặt, duy chỉ có một phòng ở tầng tháp cao nhất đang để ngỏ một khe hẹp cửa vào. Cánh cửa không rõ làm bằng chất gỗ gì, chỉ biết là rất nặng, dù đẩy thế nào cũng không thể mở rộng hơn. Trên bề mặt gỗ chạm trổ những cảnh mười tám tầng địa ngục với bao quỷ dữ đầu trâu mặt ngựa đen trắng âm dương đương dùng những hình cụ núi đao, vạc dầu, bào lạc, sái bồn tra tấn, hành hạ những tội nhân bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, tham tài sát sinh, dâm ác loạn luân. Phi Ly lạnh người, thầm niệm trong lòng mấy niệm “A Di Đà Phật” rồi ngẩng đầu lên nhìn, thấy trước cửa căn phòng treo tấm biển lớn đề chữ "quán Đoạn Trường", đôi bên treo biển lớn sơn đen thếp vàng, đề đôi câu đối “Đoạn trường trong mộng căn duyên hết, Bạc mệnh đàn xong oán hận còn”. Phi Ly gọi vài tiếng nhưng bốn bề bặt im, không lời hồi đáp. Nàng đánh bạo nghiêng người len vào trong. Bên trong là một căn phòng rộng lớn, thanh nhã. Trên chiếc án thư bày một bình hoa tươi, màu sắc đẹp đẽ lạ thường, hương thơm tỏa khắp. Mực trong nghiên vẫn còn đọng, đầu bút lông vẫn chưa khô, dường như có ai đó vừa ở đây mài mực, vẽ tranh, viết chữ. Phi Ly nhìn quanh phòng, thấy bên tường có kê một chiếc tủ rộng dài không biết bao nhiêu mà kể, chia làm vô số ngăn, ngăn nào cũng dán giấy hồng đề tên các nước khác nhau, có những nước Phi Ly chưa nghe tới bao giờ. Nào là Nga La Tư, nào là Nữ Man, Lâu Lan, Đồ Bà, Nhục Chi, Kiển Vi, Tây Phiên, Quy Hoà,...Song, những ngăn tủ ấy đều dán niêm phong đỏ chói, chỉ có ngăn tủ của nước Hoài là mở. Phi Ly không nén nổi tò mò, liền mở cửa tủ ra xem thì thấy bên trong chứa cơ man là sách. Nàng tiện tay rút một quyển ở giữa thì thấy bìa sách nằng nặng, góc trái đề mấy chữ “Hoài quốc bát anh đồ thư”. Phi Ly lật trang đầu tiên, thấy dòng phi lộ đề bằng mực son, nét chữ khải rất cân phân, ngay ngắn “Có khi sụp cả đất trời, Hận này dằng dặc muôn đời khôn nguôi”. Trang thứ hai là bức họa cảnh, nét vẽ sống động như thật. Ấy là cảnh trời mưa như trút. Phía xa xa thấy được sắc trời sau mưa thanh trong như ngọc Lam Điền. Bên dưới bức họa có mấy dòng đề khoản. Nhưng lạ là đề khoản không viết niên hiệu của người viết hay người được tặng, cũng không nói gì đến tâm trạng tình cảm mà ghi một bài thơ tiêu đề là “Du tiên – Tuệ nghiệp”. Phi Ly lẩm nhẩm đọc.
“Dây vàng chợt tỉnh tháo tung
Giật phăng khoá ngọc, muôn trùng xuân thu.
Đi về hôm sớm thanh u
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa
Áo đai Tần Tấn mục nhoà
Kiếm cung triều Tống dưới toà cỏ xanh
Sự đời bao xiết mong manh
Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Hào
Từ xưa khanh tướng ngôi cao
Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi?“
Trái tim trong lồng ngực Phi Ly đập thình thịch. Nàng mím môi, cố nén căng thẳng, lật vội trang tiếp theo. Bức tranh thứ tư lại càng lạ hơn. Trong tranh vẽ hình một người trên tay cầm mũi tên, đương đủng đỉnh bước vào một cái cửa lớn, dáng điệu rất nhàn tản. Bên dưới có bài thơ "Lang cố", đề rằng.
“Ngậm ngùi một bước một đau
Vì ai non nước vương sầu với xuân?
Hồn oan vơ vẩn non sông
Hạt châu tầm tã anh hùng ngẩn ngơ.”
Phi Ly xem tiếp bức tranh sau. Bức tranh này vẽ một viên ngọc đương mài dở, những mạt ngọc li ti như tuyết rắc phủ lên hoa. Bên dưới có bài thơ, tiêu đề là "Cốc phong", thơ viết.
“Gió mưa cùng trải bao phen
Vui vầy một thoáng, cửa then rêu vầy
Lòng son đã tuyệt từ đây
Ngọc lằn dấu huyết, chân mây trăng tà.”
Phi Ly lật xem tiếp, lại thấy bức tranh thứ tư vẽ mấy mảnh vàng cốm vứt trong đống máu, bên dưới có mấy câu thơ, đề là “Đan tâm”.
“Lẫy lừng trăm trận ai đương
Vận suy cô thế cùng đường Sở ca
Phù sinh thua trắng giang hà
Mỹ nhân đẫm áo châu sa gọi hồn.”
Bức tranh tiếp lại có một bàn cờ vây quân đen quân trắng, bên cạnh có một người đang chăm chú xem. Dưới tiêu đề “Ỷ lâu” cũng viết mấy câu.
“Trúc Tương dấu ngọc chan hoà
Gió mưa sầu hận hoá ra đá vàng
Người về mấy cõi quan san
Yén giăng mỏi mắt trông làn khói hoa
Ngàn năm chớp mắt thôi mà
Rêu xanh áo phủ, yên hà lệ cay.”
Bức tranh tiếp lại vẽ một bờ giậu tre, bên trong trồng một cây dâu dáng thanh mảnh. Bên dưới cũng chép mấy câu thơ, đặt tiêu đề là “Khí đoản”.
“Chí cao tài giỏi ai bì
Dọc ngang trời đất thiên uy rỡ ràng
Nhược bằng chẳng bận tao khang
Một cây sao đặng đoạn tràng tu my?”
Bức tranh tiếp lại có một đứa trẻ đương đi thong thả, vừa đi vừa đánh nhẹ vào khóm cỏ. Bên dưới tiêu đề “Tích xuân” đề mấy câu rằng.
“Tơ trời vàng ngọc uyên ương,
Ngờ đâu chớp mắt hoá trường mộng trang.
Mấy phen lỡ bước sang ngang
Hợp hoan máu nhuộm, đá vàng vẫn trơ.”
Bức tranh tiếp lại vẽ một mái đình, một cành hải đường đương tàn, hoa rơi đầy gốc cổ sơ. Lớp cũ rữa tàn, lớp mới phủ thêm. Một đêm trăng bàng bạc, lãng đãng sương mây. Dưới có mấy câu tiêu đề là “Bào ảnh”.
“Bảo rằng cầm sắt duyên ưa
Cáo chung luống uổng mây mưa thiên đài.
Trăng tàn ai biết chăng ai
Dâu về bể lớn, hoa cài bóng gương.”
Phi Ly nhẩm đọc xong, mãi vẫn không nhớ ra ấy là thơ từ trong sách vở nào. Nàng gập cuốn sách lại cất đi, rút một quyển khác ra xem. Bìa ngoài cuốn sách này không khác cuốn vừa rồi không khác cuốn vừa rồi là bao. Chỉ có điều chữ đề bên ngoài lại là “Hoài quốc bát diễm đồ thư”. Phi Ly mở xem bức tranh đầu tiên thì thấy vẽ một cành hoa dạ hợp rực rỡ đưa hương, sực nức sắc tình. Nhưng lật trang sau thì thấy cành hoa ấy bị xé tan tác thành năm, sáu mảnh, vứt bừa lẫn với mấy mảnh vàng vụn trong đám cỏ hôi. Ở góc trái bức tranh, có một chấm tròn như mặt trời được chấm phá bằng chu sa đỏ ối. Nhưng sắc đỏ ấy dù chói mắt đến đâu cũng không thể làm dịu đi vẻ u ám của những đám mây mù cuồn cuộn mà trái lại càng khiến khung cảnh trở nên nặng nề hơn. Giữa bức tranh hai màu trắng đen, chỉ có sắc hoa và màu mặt trời nổi lên. Có lẽ thời gian đã qua lâu, màu nhoè đi ít nhiều, khiến nàng ta ngỡ như cả mặt trời và những cánh hoa đều đang hóa lỏng, đang rơi nước mắt. Bên dưới bức tranh cũng đề một bài thơ, tiêu đề là “Tư phàm – Hữu sở”.
“Ai người hoa chất tiên tài
Phù sinh chìm nổi mày ngài đa truân
Chàng đà lánh bước phong trần
Mai xưa bào ảnh, sắt cầm thù du
Đèn xanh đền cổ thâm u
Dâng hoa ngai Phật, khuyến tu chúng tình
Nàng thì một mực chấp kinh
Biển mê đắm trọn, sông tình chìm sâu
Thiên thanh chừng ngả sắc sầu
Hoa rơi Ma điện, cỏ chầu Phật gian.”
Lần này, Phi Ly cũng chưa hiểu ra sao cả. Nàng đành lật xem tiếp thì thấy bức tranh vẽ một cái khánh vàng vùi trong bụi cỏ hoang. Bên dưới bức tranh cũng có một bài thơ, tiêu đề là “Hoàng lương”.
“Sáu quân đình đốn bạo cường
Hồn lìa trước ngựa, thảm thương mày ngài.
Thôi rồi ngọc đính, trâm cài
Khoen vàng rơi rụng không người nhặt lây.
Quân vương che mặt đắng cay
Ngoái trông thì đã lệ dây máu đào.”
Phi Ly khó hiểu, ngẫm nghĩ một lúc song không thông được. Nàng đành xem tiếp bức tranh sau. Bức tranh tiếp theo vẽ hình bảy con rắn quấn quanh một mỹ nhân bị trói trên giàn hoả thiêu. Dưới bức hoạ đề một bài thơ, tiêu đề là “Băng sơn”.
“Thiều xuân nồng đượm vóc hoa,
Hải đường thắm vẻ, giường ngà thừa ân.
Mười năm sát phạt yên phân
Thân vùi bến Sở sông Tần ngẩn ngơ.”
Xem đến đây, Phi Ly bỗng dưng khẽ rùng mình, như vừa có một trận binh đao tàn khốc tràn đến xéo qua trái tim cô. Những ngón tay cô thoáng run rẩy rờ đến mấy dòng thơ đề dôi trên bức vẽ. Bức tranh này lại vẽ một dải lụa tím rách tan nát quấn trên cành cây du. Nơi góc tranh đề đôi câu, tiêu đề là “Hề lộc”.
“Đỗ quyên hoa nở, đỗ quyên gào
Như máu như son giống nhau sao
Muốn níu hồn xuân, xuân chẳng ở
Đêm khuya, sương gió lạnh xiết bao.”
Phi Ly càng xem lại càng không hiểu thế nào cả. Nàng chán nản cất cuốn sách ấy lại chỗ cũ, rút một cuộn tranh khác ra xem thử. Cuộn tranh này vẽ hình một viên ngọc vỡ làm đôi chìm xuống dòng nước sâu thăm thẳm. Bên dưới lạc khoản cũng có bài thơ tiêu đề là "Ngọc chiết" đề rằng.
“Ba xuân cảnh chóng già thôi
Quần liên áo ấu tạ trời nghiệp sâu
Mây lồng cánh hạc lâm tầu
Khuê môn cẩm tú công hầu mà chi.”
Phi Ly rùng mình một cái, mồ hôi lạnh toát đầy sống lưng. Như ma xui quỷ khiến, nàng tiếp tục lật xem xem bức tranh tiếp theo. Lần này, nàng thấy bức tranh vẽ cảnh hoa dương bay tan tác theo chiều gió. Bài thơ bên dưới mang tiêu đề “Sầu đại”, viết rằng.
“Phong lưu một thuở nợ đầy
Liễu tàn lan rủ tháng ngày lịm trôi
Xuân sầu thu hận đầy vơi
Nương đầu kiếm sắc thoáng cười ngâm ca.”
Trong lòng Phi Ly thoáng gợn một vệt xót xa, cô khe khẽ thở dài, lưu luyến nhìn bức tranh ấy mãi rồi mới xem tiếp. Bức tranh vẽ một cây dâu mảnh dẻ, cành lá quấn quýt cùng một gốc hải đường như thể giống cây liền cành. Bên góc trái có mấy dòng thơ lờ mờ, đề đôi câu, tiêu đề là “Tình trường”.
“Phồn hoa tan tác bụi trần
Vô tình nước chảy, cỏ xuân tươi màu,
Gió đông ai oán chim sầu
Hoa rơi tựa gái gieo lầu thuở xưa.”
Bức tranh tiếp theo chỉ thấy vẽ một chiếc khăn che đầu màu xanh dính lấm tấm máu đào, phơ phất phủ trên cành cây bồ đề, bên dưới có bài thơ, đề rằng.
“Gót phàm phạm đến thuý vi
Vượn tan cây đổ, trà mi cũng hèn
Bụi hồng khôn đục lòng sen
Vân mòng tình trọn, châu hoen Phật đài.”
Xem tới đây, Phi Ly gập cuốn sách lại, lòng bàng hoàng thảng thốt. Dường như trong lòng nàng có điều chi đó sắp sửa vỡ ra nhưng cứ ngay khắc quyết định, nó lại thu mình về kín đáo, khiến cô bứt rứt không thôi. Phi Ly lờ mờ cảm thấy những bức hoạ này này không đơn thuần vẽ cảnh, cũng không đơn giản vịnh tranh, nhưng cụ thể nó nói về điều gì thì cô không thể nghĩ ra. Tuy không thể tỏ tường nhưng linh hồn cô cứ phấp phỏm một linh cảm không lành, tựa như ngay giây tiếp theo hoặc trong một khoảng thời gian rất gần, có gì đó nặng trịch ngàn cân sẽ đổ xuống thế gian này, làm cho sinh linh điêu tàn, tiếng than dậy đất. Trái tim trong lồng ngực cô đập thình thịch, bàn tay cũng run run.
Lúc này bên ngoài chợt phát ra tiếng động. Nàng giật mình, bước chân loạng choạng, thân người đâm sầm vào tủ. Phi Ly còn chưa kịp đứng vững đã trông thấy bóng một đứa trẻ mặc áo đỏ thoăn thoắt vụt qua trước mặt nàng. Đứa trẻ này mặt mày kỳ dị. Nó nhìn nàng cười một cái rồi biến mất. Phi Ly rởn tóc gáy, cả người lạnh toát. Bỗng chốc, những thư tịch, giấy bút trong phòng đều bốc cháy. Ánh lửa lan nhanh, bốc mạnh, liếm rụi mười bức hoạ treo trên tường rồi thiêu đốt đến xà nhà, rường cột. Phi Ly thấy vậy, rụng rời chân tay, vội vã ra sức chạy khỏi nơi ấy. Không biết đã chạy bao lâu, khi nàng ngoảnh đầu nhìn lại thì thấy mình đã bỏ xa toà thành dát bạc cả trăm dặm. Toà thành nguy nga là vậy mà giờ đây chỉ nhìn thấy một dải sáng rỡ loè nhoè trong làn sương dày bao phủ. Chẳng mấy chốc, tất cả cung điện đền đài cùng những bức tường bao ùn ùn sụp xuống, làm rung chuyển cả đất trời. Phi Ly đứng không vững, chẳng biết vịn vào đâu, ngã chúi xuống. Bốn bề bụi đất tung mù. Nàng đành nhắm chặt mắt lại, phó thác mọi sự cho số phận.
Chợt, tiếng cửa mở đánh thình một cái khiến Phi Ly giật mình tỉnh khỏi giấc mộng. Những lầu vàng gác tía, xà chạm rèm chau đã đi đâu mất cả. Tất thảy chỉ còn một làn khói mỏng bảng lảng trước mắt nàng rồi cũng tan biến không một dấu vết. Bấy giờ, nàng mới nhìn rõ mình đương nằm trước một cánh cửa gỗ nhẵn thín lâu năm sừng sững, bên cạnh cửa có tấm bia đá. Hẳn bia đã dựng từ lâu, sương gió ít nhiều làm mờ vết tích, chỉ còn thấy nhàn nhạt mấy câu.
“Lịch duyệt anh hùng đà mấy kẻ
Bỗng dưng hỗn độn cũng cơ trời
Thuở xưa khoảng trống không nên để
Thêm một toà cho Phật đá ngồi.”
Phi Ly đương lẩm nhẩm đọc, chợt có tiếng nói.
“Ai đương làm gì ở đó?”
Phi Ly giật mình quay lại, thấy một vị sư già mặc áo gai, bên ngoài khoác cà sa đã cũ, mặt mày hồng hào như gấc, tay cầm chuỗi hạt, chầm chậm đi ngược chiều mà tới. Nàng gượng chống tay trở dậy, thấy mình đau như dần, không đứng lên nổi, chỉ đành cố gắng tựa lưng vào cửa, chỉnh trang quần áo, cúi chào sư già, từ tốn nói.
“Bạch lạy sư phụ, con là cháu nội cụ Chung. Hôm nay bên nhà có tiệc vui, định mở cuộc chơi thơ, chị em giao cho con việc ra đề. Con sợ mình tài học còn kém, sách vở ở nhà không đủ nên định sang gác bên này mượn thêm mấy cuốn. Chẳng ngờ đi tới đây thì không cẩn thận trượt ngã mất. Bây giờ trong mình đau quá, không gượng dậy được, mong sư phụ bỏ quá cho.”
Sư già vừa đỡ nàng dậy, vừa nói.
“Để lão dìu cô Hai về phòng thiền nghỉ tạm cho đỡ đau xương. Còn về sách vở, cô Hai cần cuốn nào, xin viết ra giấy, lão sẽ lên thư tàng lấy xuống. Chân cô Hai đương đau, đi lại lầu gác không tiện.”
Phi Ly ngẫm cũng có lý, liền xin vâng lời sư già rồi cùng người đi về phía dãy nhà tăng ở hướng Nam, vào phòng thiền của một ni cô ngồi đợi. Phòng nhỏ nhưng ấm cúng. Chính giữa phòng bày một chiếc bàn cao, trên bày các thứ quả, thờ Tam Bảo, phía trước phủ một lớp rèm thưa may bằng the tốt, tránh bụi bay từ ngoài vào. Nhang án là một bục gỗ đơn giản nhưng sạch sẽ. Hai bên bàn thờ có hai liễn bằng gỗ trắc khắc đôi câu đối “Chuông sương kêu gọi hồn kim cổ/ Lầu gió đi về bóng sắc không”. Trên tường treo bức tranh vẽ Đức Như Lai Đa Bảo, nét mặt Ngài hiền từ đức độ, khiến thiện nam tín nữ ai trông thấy cũng sinh tâm thiện. Vào trong lại thấy một bức tranh lớn vẽ các nhạc sỹ thiên thần, mỗi vị một nhạc cụ, vừa đi vừa múa điệu “Vũ trụ”. Những đường nét vẽ gương mặt, quần áo, giày đi, dải lụa bay, động tác đều vô cùng tinh xảo. Trí Hải đương quỳ trên bồ đoàn, tụng kinh sám hối, thấy sư phụ vào, vội kính cẩn đứng lên tiếp đón. Thấy sư phụ nói Phi Ly là khách, Trí Hải liền mời nàng ngồi lên chiếu tụng kinh của mình. Diên Hựu bảo Trí Hải lấy bút mực mang tới. Phi Ly cảm tạ Trí Hải rồi viết ra mấy tựa sách mình cần, đưa cho Trừng Tịnh rồi ngồi trong phòng thiền, vừa nói chuyện với Trí Hải vừa chờ đợi.
Phi Ly thấy trên phản xếp các bao lụa vàng chồng lên nhau thì lấy làm lạ, liền đánh bạo hỏi Trí Hải. Trí Hải nói trong những bao lụa ấy đều đựng thứ giấy viết kinh và thứ hương để thắp khi chép kinh. Nghe cô nói chuyện, Phi Ly mới biết ấy là ý cụ bà. Cụ bà nhờ nhà chùa chuẩn bị giúp những vật này, đợi tới khi ra Giêng trời bớt rét sẽ đưa đến cho con cháu trong nhà chép kinh. Sao cho đến tháng bảy lập đàn chay cúng chúng sinh lưu lạc có đủ một trăm linh tám bộ kinh A Di Đà, một trăm linh tám bộ kinh Địa Tạng, một trăm linh tám bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật. Phi Ly thích lắm, vừa nghe vừa sắp xếp giúp Trí Hải một tay. Trí Hải dẫn nàng đến phòng bếp, chỉ cho nàng xem những bồ gạo đầy ắp dưới hầm, bảo.
“Ấy là gạo để nấu cháo lá đa đấy.”
Trông bồ gạo đầy ắp, Phi Ly mỉm cười, đưa tay xuống nắm một vốc xem thử. Chợt, ánh mắt nàng tối sầm lại. Nàng cầm nắm gạo ấy chạy vụt ra ngoài, nhìn kỹ dưới ánh sáng lờ nhờ của trời đông, khẽ nói với Trí Hải.
“Gạo này mốc rồi, không dùng để nấu cháo được đâu. Làm thế phải tội.”
Trí Hải cười nói.
“Cô mới thực lẩn thẩn chứ. Trên cõi này có bao nhiêu vong nhân cô hồn, nếu dùng gạo tốt nấu thì tốn đến mấy trăm, mấy ngàn cân gạo mới được? Dù nhà ta có tiền muôn bạc vạn thế nào, mỗi năm bỏ ra từng ấy tiền của mà lo việc này thì chẳng bao lâu cũng khánh kiệt cả. Mà có phải mỗi việc lập đàn chay cúng cô hồn này mới là việc cần đến tiền đâu? Dẫu tôi không ở trong nhà cô cũng biết còn bao nhiêu công chuyện nữa. Nếu không lấy thứ gạo này mà đắp đổi thì làm thế nào cho đủ. Như thế này cũng đã hơn nhiều nhà trong dân gian lắm rồi. Có những nhà đến dịp này chỉ bày một vài hớp cháo lá đa, lá mít, mấy gióng mía, vài thứ quả quê là xong mà thôi. Cô chớ nghĩ nhiều.”
Phi Ly giàn giụa nước mắt, nói.
“Người ta thường bảo trần sao âm vậy. Ở trên này tôi không sao ăn được thứ cháo ấy thì những người dưới đó ăn thế nào được. Thế này khác nào tôi ăn cơm, bắt họ ăn trấu, họ lại không tủi lòng hay sao?”
Trí Hải lắc đầu, cười bảo.
“Cô thực không biết gì cả, chỉ khéo dư nước mắt đó thôi. Các cô ở trong nhà này quanh năm suốt tháng cẩm y ngọc thực, quen lối ấy rồi thì đương nhiên không ăn được cháo hoa. Nhưng những người quanh năm suốt tháng không được một bữa no thì một bát cháo hoa còn hơn tất cả sơn hào hải vị, có gì mà phải tủi lòng. Năm nay, cô cứ để ý xem những đứa trẻ con nhà nghèo tranh nhau cướp thứ cháo cúng cô hồn, thứ cháo các cô, các cậu không ăn được ấy mà húp soàn soạt thì cô tự nhiên sẽ biết. Với họ, có cái ăn cho ấm bụng là đủ, cứ gì phải ăn ngon. Cô không thiếu ăn, không biết được khi thiếu ăn thì người ta chỉ cốt ăn đủ chứ không cốt ăn ngon. Chỉ phú quý mới rồi mới sinh lễ nghĩa thôi.”
Phi Ly khẽ nói.
“Nhưng nếu họ được ăn ngon thì vẫn tốt hơn chứ?”
Trí Hải nói.
“Chưa chắc đã tốt đâu. Nếu cô cho họ ăn chả phượng nem công, họ sẽ sinh dục niệm, quấy phá chủ nhà. Lúc ấy thực là làm phúc phải tội.”
Phi Ly cau mày, toan nói thêm mấy câu thì chú tiểu chùa Không Môn là Pháp Lam đã giục hai người vào nhà kẻo lạnh. Trí Hải đưa nàng vào, Pháp Lam mang một ấm nước hồng mai đương ủ lên, rót vào chén tử sa, đưa cho hai người dùng thử. Phi Ly vừa nhấp một ngụm, Diên Hựu đã cùng đệ tử mang sách trở về. Phi Ly nhận lấy sách, lạy tạ sư cụ rồi từ biệt, trở bước quay lại phủ Thái Lạc. Đi được một đoạn, nàng thấy Tịch Nhan vội vã đi sang, vẻ hớt hải không giấu được. Trông thấy Phi Ly, chị tay một tay giữ lấy nàng, một tay vịn tường mà thở hổn hển, mãi mới nói nên câu.
“Từ nãy đến giờ, cô chạy đi những đâu? Bên phủ đang tìm cô loạn lên. Sao cô không cầm ngay hòn đá ở kia, đập đầu tôi cho chết đi, còn để tôi sống làm gì?”
Phi Ly nghe những câu ấy, choáng cả người lên, đầu váng mắt hoa, không sao đứng vững. Tịch Nhan trông thấy vậy vội đỡ lấy nàng ta, dìu nàng ta đứng yên nghỉ ngơi một chốc mới chậm rãi hồi thần. Thấy bờ vai Phi Ly vẫn còn khẽ run rẩy không sao kiềm nổi. Lớp áo mỏng lót mình trong cùng của cô cũng thấm mồ hôi ướt đẫm. Tịch Nhan mới giật mình, lòng nóng như lửa đốt, lo lắng hỏi.
“Cô nói gì đi chứ? Hay là bị trúng phong rồi? Đều tại cô Thanh, biết cô người yếu còn cắt đặt cô đi trời tuyết sang bên này lấy sách vở làm gì. Thực là vẽ chuyện. Nếu cần thì bảo người sang chùa lấy rồi đem sang chỗ chúng ta có phải hơn không.”
Lúc ấy, trời đương trút cơn mưa tuyết sầm sập trắng xoá. Phi Ly thấy trong người càng mệt, vì vừa trải qua giấc mơ lạ lùng kia nên tinh thần còn hơi hoảng hốt. Thế nhưng, cô thấy Tịch Nhan nóng nảy, lo lắng chị ta sẽ hấp tấp không phân rõ trắng đen, sai đúng mà chạy đến làm ầm ĩ với Thanh Đường nên vội gượng nói.
"Tôi có làm sao đâu, chẳng qua ban nãy đi lên gác hơi chóng mặt một chút. Với lại đây là việc tôi tự nhận lấy mà làm, sao lại trách chị Oánh được. Bình thường tôi ru rú trong nhà, làm con rùa nuôi trong xó cửa đã đành, hôm nay là dịp vui, các chị lại không cho tôi đi lại, làm chút việc cho khuây khoả ư? Chẳng qua tôi chỉ đi lấy vài quyển sách, có đi sang Tây Tạng thỉnh kinh đâu mà các chị phải sợ.”
Tịch Nhan ấn vào trán nàng ta một cái rồi cầm đỡ những sách vở từ tay Phi Ly, bảo.
“Để tôi xem cô đi mượn những sách vở gì mà đi mất hai canh giờ. Người ta không biết, còn tưởng cô đi mượn thiên thư đấy.”
Phi Ly giật mình, nói.
“Tôi đi mất những hai canh giờ ư?”
Tịch Nhan ôm sách, bĩu môi đáp.
“Tôi nói khoác làm gì, không tin cô cứ về hỏi mà xem. Cô mà không về nhanh, ông lớn đã bắt người đi chuẩn bị ngựa để báo lên quan rồi đấy.”
Phi Ly sợ mình gây ra chuyện, bị người chê trách, vội vàng cất nhanh bước, sốt sắng trở về phủ ngay. Tịch Nhan thấy bộ dạng sốt sắng của nàng thì vừa chạy theo sau nói với theo, bảo nàng ta đi chậm một chút, vừa cố nén cười. Vừa về tới phủ, nàng đã thấy Thanh Đường đứng dưới gốc hoè, đầu đội mũ lông điêu, mình mặc áo da vượn đỏ tươi, phấn son rực rỡ, sau lưng là Thuý Hoàn nghiêng ô giấy dầu khéo léo che tuyết vương. Bấy giờ, cô ta đương xem bọn người nhà bày trí mặt tiền nhà cửa, vườn tược, cổng chào và dựng bàn hương án để tế trời. Từ phía xa, có một đoàn chừng ba chục người đương khênh hàng loạt thăng rượu tới. Thăng nào cũng khênh bằng đòn gỗ sơn son, trên phủ lụa hồng. Đi sau lại có chừng mười người hai tay nâng án sơn son thếp vàng đẹp đẽ, trên đựng các thứ đồ thưởng cho người thắng các cuộc chơi hoặc uống được nhiều rượu. Phi Ly trông thoáng qua, thấy trên mỗi án đựng hai thoi vàng, bốn thoi bạc, sáu cây lụa, hai cây gấm, vải quý hai mươi cây. Nhìn những vật ấy, lòng nàng thầm đau xót. Song trước mặt Thanh Đường, không tiện lộ ra vẻ buồn thương, Phi Ly đành gượng vui, bước đến hỏi. Thanh Đường thấy nàng, liền nói.
“Em về rồi thì hay, để ta bảo người sang bảo cô Hai. Cô ấy lo cuống lên từ nãy tới giờ. Nếu em có chuyện gì, tội ta to lắm.”
Phi Ly áy náy, bảo.
“Em không ngờ lại khiến mọi người rầy rà như vậy.”
Thanh Đường nhẹ nhàng gạt mất hạt tuyết đọng trên tóc Phi Ly đi, nói.
“Không hề chi, em không việc gì là tốt. Người là quý chứ những chuyện khác thì can gì. Em mượn những cuốn sách gì, để ta xem nào.”
Phi Ly liền lấy những cuốn sách trong lòng Tịch Nhan, đưa từng cuốn cho Thanh Đường xem. Ấy là những cuốn “Đường thi tam bách thủ”, “Tuỳ viên thi thoại”, lại có mấy quyển “Nam hoa kinh”, toàn tập thơ của Bạch Cư Dị, Lý Nghĩa Sơn, Lý Bạch. Thanh Đường xem xong, xếp gọn lại, bảo một a hoàn nhỏ phụ Tịch Nhan mang về đình Chiết Liễu cho Phi Ly rồi cười nói.
“Đã mượn “Nam hoa kinh” mà không mượn thêm toàn tập thơ của Vương Ma Cật, Đào Uyên Minh ư? Hay ở bên ấy không có? Chỗ tôi còn mấy quyển, tôi mang sang cho em nhé.”
Phi Ly cười, nhỏ giọng bảo.
“Xưa nay em không thích thơ Vương Duy. Sư không ra sư, tục không ra tục, dùng dằng chẳng dứt, thực là làm người ta khó chịu.”
Thanh Đường đương định nói gì đó, chợt một đứa hầu nhỏ từ vườn hoa chạy tới, điệu bộ hớt hải, đâm vào một người bưng án. Người đó mất đà, ngã nhào xuống tuyết, đồ đạc trên án vương rơi hết cả. Mọi người vừa thu nhặt lại, vừa quát mắng đứa hầu nọ. Thanh Đường thấy ồn ào, lo làm Phi Ly sợ, liền cầm tay nàng, bảo bọn người hầu.
“Mấy lạng vàng bọ, rơi mất thì thôi. Bây giờ tuyết xuống, rơi vào trong tuyết lấp đi không tìm thấy. Mấy hôm nữa tuyết tan thế nào cũng lộ ra, có gì mà sợ, vậy mà cũng phải làm ồn lên, còn ra thể thống gì nữa.”
Thanh Đường nào biết câu nói ấy đâm trúng tâm sự của Phi Ly, làm nàng ta càng phiền muộn. Bụng dạ nàng để cả vào câu chuyện của ni cô Trí Hải, chẳng mấy chốc đã quên quá nửa việc xảy ra trong mộng. Tuy trong dạ có lời muốn nói song chẳng tiện mở lời. Thấy không tiện đứng lâu, nàng từ biệt Thanh Đường về đình Chiết Liễu. Phi Ly vừa đi, chợt có một người hầu mặc quần nhiễu trắng, áo vàng kim từ xa bước đến. Thanh Đường không nhận ra ấy là Kính Hoa hầu ở chỗ Kim Khánh. Chỉ thấy nó còn nhỏ tuổi, đương nhảy chân sáo, tay cầm mấy cành hoa mai thì nghĩ rằng nó đã hái hoa bẻ cành, phá hoại cây cối lại bỏ việc trốn đi chơi nên trong bụng bực lắm. Cô ta vốn là người thật thà, thoắt mừng thoắt giận, không biết kiềm chế giữ ý như ai. Thấy Kính Hoa như vậy, Thanh Đường lập tức nhớ tới việc ban nãy. Việc cũ chưa qua, việc mới lại tới. Bực dọc cả hai lần dồn lại làm máu nóng bốc lên đầu. Cô ta không buồn nghĩ, trút ngay cơn giận lên đầu Kính Hoa.
"Mày là người hầu ở viện nào? Sao giờ này không làm việc mà chạy đến đây chơi? Mày bỏ đi chơi, những chuyện trà nước, quét dọn, lau chùi để cho ai làm? Hay mày muốn các cô, các bà trong nhà này phải tự mình làm lấy? Đáng lôi ra đánh chết. Ngày hôm nay đến ta cũng phải dậy làm việc, vậy mà mày lại tung tăng đi chơi, thảnh thơi quá. Vậy ta nuôi chúng mày để làm gì?”
Kính Hoa thấy Thanh Đường giận dữ, liền quỳ xuống van xin, trong bụng rất ấm ức nhưng không dám cãi. Thuý Hoàn trông mặt mũi nó quen quen, tuy không nhận ra ai nhưng chắc mẩm mình đã gặp Kính Hoa ở chỗ ai đó rồi. Dù Kính Hoa là người ở chỗ ai thì vuốt mặt cũng phải nể mũi. Huống hồ, nếu đã ở chỗ các cô, các bà thì ít nhiều cũng hiểu biết quy cách trong phủ, không đời nào tuỳ tiện hái hoa bẻ cành. Việc này ắt là có ai sai khiến nó. Nhưng Thuý Hoàn biết nếu bây giờ chỉ ra việc ấy rồi biện giải cho Kính Hoa thì Thanh Đường tất sinh ngượng vì đã trách lầm đứa hầu. Nàng ta vốn tính kiêu kỳ cao ngạo, giận lên thì đến Thiên Hoàng cũng không nể mặt, đời nào chịu xuống nước với Kính Hoa. Chị ta tự biết nếu làm cô ta thì cũng như hại Kính Hoa vậy. Chẳng bằng bây giờ tìm cách đuổi Kính Hoa đi trước, làm Thanh Đường quên chuyện này đi. Sau này nếu gặp lại Kính Hoa ở đâu thì sẽ tìm cách dặn dò, an ủi nó sau. Như vậy là yên cả hai bề. Nghĩ vậy, chị ta liền điều đình.
"Mày là người ở chỗ nào nào thì về chỗ ấy làm việc ngay đi, đừng có giở lối ham chơi ra. Hôm nay trong nhà đang cần người. Chịu khó mấy hôm, rồi sẽ có thưởng. Bây giờ, ta và cô Hai đang có việc nên hãy tạm tha cho mày. Nếu mày còn làm biếng, đợi hôm nào sẽ tuốt xác mày ra."
Nói rồi, liền đưa mắt ra hiệu cho Kính Hoa. May thay, Kính Hoa cũng là đứa linh lợi. Ban đầu, nó tấm tức rỏ nước mắt, nhưng thấy Thuý Hoàn ra hiệu cho mình thì lập tức hiểu ý nên trong bụng cũng nguôi nguôi. Bên ngoài, Thuý Hoàn làm ra vẻ đuổi Kính Hoa đi rồi vỗ về, yên ủi Thanh Đường. Thanh Đường nào phải không nhìn ra ý tứ của chị ta. Ban đầu, nàng ta còn giận dỗi lủng bủng “chị trọng đứa hầu, coi khinh cả tôi”. Sau đỡ bực mình thì cũng cho qua, không nói thêm gì nữa, chuyên chú lo công việc.
Kim Khánh, Dao Chương đương cắt đặt người hầu, dặn dò kỹ lưỡng công việc của từng ban một thì Kính Hoa trở về. Thấy vẻ mặt nó có nét buồn rầu, vừa đi vừa lấy khăn chấm lệ, Kim Khánh lấy làm lạ song cũng không có thì giờ hỏi tới. Bấy giờ, một ban chừng hai mươi người mang đèn lồng kết hoa theo lối cung trang đi tới. Đến ngưỡng cửa, Thanh Đường bảo bọn họ đứng thành hàng, từng người một được gọi tới thì cầm đèn bước lên. Dao Chương vội đi ra, chỉ bọn họ đặt đèn vào những hướng tốt mà thầy pháp đã xem để tụ phúc khí. Xong xuôi, Dao Chương cầm tay Thanh Đường, khẽ hỏi.
“Chị Khánh bảo đã bàn với cô cả việc lo thuyền bè, việc ấy đến đâu rồi?”
Thanh Đường nói.
“Thuyền lớn đã đưa tới rồi nhưng ở ngoài phủ, thuyền nhỏ thì đang trang hoàng ở viện sau, chuẩn bị đưa cả tới đầm Linh Dạ rồi. Còn tuỳ theo hứng thú của trưởng bối, nếu như các vị muốn dạo quanh phủ thì dùng thuyền nhỏ là đủ. Khắp đường thuyền đi cũng đã xây cất lại rồi. Nếu như các vị cao hứng, muốn ra sông Thương ngắm cảnh thì chèo thuyền nhỏ ra khỏi phủ, lên thuyền lớn dong buồm ra sông. Trên thuyền đã đủ mọi thức như ở đây rồi.”
Dao Chương gật đầu, cười bảo.
“Được vậy thì tốt lắm, trên thuyền lớn cần thêm thứ gì, cô cứ bảo chúng tôi. Nếu lo liệu được thì chẳng nên ngại làm gì.”
Thanh Đường gật đầu, thấy trong người hơi mệt, nhìn đồng hồ thì thấy còn năm canh giờ nữa mới vào tiệc, liền về gác Phượng Cầu nghỉ một chốc. Trần Huyên, Cung Uyển, Cung Ỷ thấy bọn họ chuyên chú lo liệu, sợ rằng họ bỏ bê chuyện nghỉ ngơi ăn uống, liền cho người đem những món ngon đến tận nơi. Thanh Đường nhắm mắt nghỉ một lúc thì đã thấy Yên Thuỷ mang lên mấy thứ. Nàng ta nhìn thoáng qua, thấy có món trùng thảo phơi khô nấu với mỡ gà trống đựng trong đĩa ngọc thạch, màng nấm trúc nấu canh xương, món gân hươu nấu với thịt nạc, nấm hương, đậu xanh, muối và các vị thuốc bắc như hoài sơn, huỳnh kỳ, khởi từ, đại táo. Yên Thuỷ nói.
“Từ sáng tới giờ cô đã chạy đôn chạy đáo tận đâu đâu nhưng chưa được miếng gì vào bụng. Dù không muốn, cô cũng phải cố ăn chút gì đi. Nếu không thế nào cũng không chịu được đâu.”
Thanh Đường nghe vậy, nhìn một lúc rồi miễn cưỡng chỉ bát canh nấm trúc, húp được mấy thìa lại kêu no, nằm xuống giường. Bấy giờ, Vũ Lý sang tìm nàng. Hôm nay là dịp lễ lớn, hắn ăn mặc khác hẳn vẻ mộc mạc thường ngày. Tất cả quần áo đều là đồ Cung Uyển đưa sang, bảo hắn thay từ sớm. Thanh Đường thấy hắn mặc áo khoác ngoài bằng sa bóng màu thanh thiên, cổ viền bằng đoạn bát ty màu nguyệt bạch, trong cũng lót lụa trắng, thân sau thêu hình núi non. Áo đơn bên trong màu bạch tuyết, thêu gia huy họ Vũ hình thanh long uốn lượn bên mây toả. Trên mái tóc búi gọn ra sau đầu cài trâm ngọc, có dây tua rủ đính trân châu. Đia hia bọc đoạn đen, tất viền gấm. Thanh Đường trông thấy, ngồi ngay dậy, nói một tràng.
“Ngày sinh nhật mà anh mặc cái thứ gì đây? Lụa trắng chỉ mặc lúc nhập liệm thôi, anh muốn chết đấy à? Hoa văn núi non lại đi với rồng? Rồng nào ở trên núi? Chỉ có giun đất thôi. Ai mang sang cho anh những thứ này? Tôi phải đi gặp người ấy, nói cho ra lẽ, nếu không thì nhà này thành giặc mất.”
Vũ Lý giữ tay Thanh Đường lại, nói khẽ.
“Việc ấy để sau hẵng hay. Chuyện bác Cả nhờ, em đã trù liệu ổn chưa?”
Thanh Đường giằng tay lại, quay mặt vào trong giường, bảo.
“Anh không thay ngay cái áo đấy ra thì chúng ta không còn chuyện gì để nói với nhau nữa. Có việc gì mà đáng để anh quăng cả tính mạng với mặt mũi mình ra đằng sau?”
Vũ Lý thấy nàng ta gắt gỏng, đành phải theo. Thanh Đường để chân trần, chạy vào buồng trong, mở hết rương hòm, lục lọi một hồi rồi bảo Thuý Hoàn mang ra một chiếc áo bào nhiễu màu thiên thanh dệt rồng mây, lót bằng lĩnh, hoạ tiết vân mây bằng ngọc lam. Một đôi hia đen trong lót lĩnh màu lam thẫm. Một chiếc mũ văn công có hai dải đính hoa vàng, cẩn ngọc, viền bạc. Đai lưng chạm theo lối “cửu long chầu nhật”, trang sức chín hình hoa bằng ngọc trân châu, san hô. Vũ Lý đi vào sau bình phong ở phòng trong thay đồ, Thanh Đường ở gian ngoài, nghe hắn nói.
“Bác Cả muốn nhân dịp này đưa một số sách vở, thư tịch thu thập được ở Triều Dương cất giữ trong phủ ta. Những thứ em đưa đến chỗ ta đã đủ cả chưa?”
Thanh Đường sắp soạn các chuỗi anh lạc rực rỡ đủ màu, tìm một chuỗi thực hợp với hắn rồi đáp.
“Người của bác Cả mang đến bao nhiêu, tôi đã lận ở trong đó cả. Không phải chất nguyên một hòm đầy sách mà rải rác trong mỗi thứ có một ít, chốc nữa anh liệu mà lấy ra. Lấy xong thì bỏ cả vào rương hòm tôi mang sang, cứ nói là có một số món anh không dùng tới, đem quyên cho nhà chùa, tôi sẽ lựa lúc mang đi. Tan tiệc, anh đến gác Thanh Hiên là được.”
Vũ Lý khoác áo bào lên người, bước ra cho nàng ta xem.
“Những thứ tôi nhờ em chuẩn bị đã đủ cả chưa?”
Thanh Đường chỉnh lại cổ áo và viền mũ cho Vũ Lý, vuốt sợi dây rủ phía sau vòng qua hai bên vai, ngắm nghía một lúc, thật hài lòng rồi mới đáp.
“Đủ cả rồi, anh cứ sang thì biết. Lúc ấy có cần tôi không?”
Vũ Lý cười bảo.
“Em sang được là tốt nhất. Nhưng chỉ sợ lúc ấy em bận thu dọn, không qua được mà thôi.”
Thanh Đường thở dài, nói.
“Để tôi tự liệu. Bác Cả cũng hay thật, đang lúc dầu sôi lửa bỏng lại rước lửa vào nhà. Nếu việc này tra ra, hai chúng ta đã nhúng tay vào rồi cũng khó thoát.”
Vũ Lý điềm tĩnh bảo.
“Em đừng lo việc ấy, tôi đã có cách. Dù thế nào, tôi cũng không để lửa cháy đến em đâu.”
Thanh Đường chau mày, chặn lời hắn lại, vừa đeo dây anh lạc cho hắn, vừa mắng khẽ.
“Nói hay nhỉ? Vậy lửa cháy đến anh thì được? Hôm nay là ngày lành, anh toàn thốt ra những lời nhảm nhí, làm cho người ta chướng cả tai. Thôi, sắp sửa vào tiệc rồi, anh đến chỗ cụ cho cụ mừng, việc ấy tôi khắc lo được.”
Vũ Lý mỉm cười, bước ra ngoài. Hắn đến hầu chuyện cụ bà, được một lúc thì các trưởng bối trong nhà đều đông đủ. Cụ bà bảo người đưa Vũ Lý sang từ đường làm lễ. Trên chính đường treo tấm hoành phi đề bốn chữ “Hiếu nghĩa tri phương” sơn son thếp vàng. Tất cả đều là chữ vua ban. Nơi hương án bày lư trầm hình linh thú, bát hương, hai cây đèn nến bằng đồng, ống hương, bộ ấm chén, lọ hoa, tất cả đều là đồ quý, trang trí tinh xảo. Vũ Lý dâng rượu, thắp hương, đốt lụa rót rượu ở đó rồi đi một vòng quanh phủ, thắp hương đèn ở những điện thờ Phật, thờ vua rồi mới trở về gác Bội Văn. Bấy giờ, từ con đường dài dẫn vào gác Bội Văn, các thứ đèn lồng, đèn che lụa, đèn thêu được giăng trên cây hoa theo đủ lối. Nào là lối liên hoàn, lối lá liễu, lối hoa mai, hoa sen. Cột kèo trong gác đều đã được sơn lại, trong gác đã trải thảm đỏ, bày biện đầy đủ, lịch sự các thứ đệm gấm màn thêu, ở giữa đặt một lư hương lớn bằng đồng cổ đốt hương tùng bách, bốn bề giăng hoa kết đèn, thắp nến sáng trưng. Bàn ghế các mâm đều dùng thứ làm bằng gỗ trắc màu sơn bóng loáng, trên trải đệm da vượn đỏ mới tinh, dưới mỗi ghế đều đặt lò sưởi tráng vàng. Trong bốn góc đặt bốn bàn nhỏ, trên mỗi bàn bày một cái kỷ sơn son, trên kỷ lại bày bình hoa chế tác theo lối kỹ nghệ Cảnh Thái Lam. Thân bình phủ kín hoạ tiết màu lam, màu lục, tạo hình hơn sáu mươi con rồng năm móng. Trong bình cắm hoa mẫu đơn và các thứ tùng, trúc, mai, nhìn rất tươi sáng.
Trưởng bối trong nhà bảo người hầu mang đồ thưởng tới cho Vũ Lý. Những món đồ thưởng muôn màu muôn vẻ lần lượt được đưa lên. Người này mừng bình phong, người kia tặng lò sưởi Tuyên Đức, Phật Di Lặc bằng vàng, tượng Quan Âm bằng ngọc, tua quạt, lá trà băng phiến, đồng hồ báo thức kiểu Tây Dương, ngọc khuê, ngọc bích, ngọc chương cùng các bức thư họa của những bậc danh sỹ. Vũ Lý lạy tạ rồi nhận quà mừng của bọn chị em. Kim Khánh mừng hắn một bức vẽ “Khổng tước khai bình”. Dao Chương đưa tới bức hoạ “Cửu long chầu nhật” chạm bằng gỗ trắc. Tử La tặng hắn một chiếc ống bút chạm phù điêu hoạ tiết mai hoa làm bằng ngà ma mút cổ, miệng và đáy ống khảm gỗ trắc đỏ. Những cành già uốn lượn thế rồng cuộn hổ ngồi, cành non mềm mại như nước chảy mây trôi. Có bông hoa nở rộ, có nụ còn hàm tiếu, nom rất đẹp đẽ. Thanh Đường đưa tới một bức tranh khảm bách bảo lối “Nhất chi mai” trên nền gỗ huyết long. Ngọc và các thứ đá quý như vàng, bạc, thạch anh, mã não, san hô khảm trên tranh tạo thành hình cành mai, vừa có nét uyển chuyển mềm mại lại sống động như thật. Góc tranh chạm câu đối “Thiên Thử điện tiền thiên thụ quế, Quảng Hàn cung lý nhất chi mai”. Phi Ly mừng hắn một bức tranh treo “Phẩm trà đồ” bằng gỗ tử quang đàn vẽ vàng, chế tác bằng kỹ pháp miêu kim. Vũ Lý cảm tạ rồi bảo người cất đi. Bấy giờ, a hoàn theo thứ tự đã được Kim Khánh, Dao Chương dặn dò từ trước, lần lượt mang các món ăn lên. Mọi người chia mâm theo thứ bậc trong họ mà ngồi dùng tiệc. Lúc mọi người dùng cơm, ban nhã nhạc ở cả sau màn, tấu những khúc trong trẻo du dương. Cụ lớn nếm một miếng thịt sâm cầm rồi bảo đưa xuống cho Cung Uyển, Lý Ninh ăn thử, đoạn nói.
“Khúc hát chúc thọ này cũng hay, nhưng cháu Lý còn bé quá, nghe những khúc này sợ mất lộc giảm thọ. Vả lại tuy đầm ấm nhưng còn kém vẻ nhộn nhịp, chưa xứng với tiệc vui hôm nay. Bảo bọn họ không cần đàn hát nữa, hãy bày sân khấu để múa mấy khúc cho vui.”
Cung Uyển xé thịt sâm cầm cho cụ lớn, cười hỏi.
“Chẳng hay cụ thích xem khúc nào?”
Cụ lớn nói.
“Những điệu như “Bát tiên hiến thọ”, “Tam tinh chúc thọ” ta xem đã nhiều, đều không có gì mới lạ. Nhưng hôm nay là ngày vui của cháu Lý, các người đừng để ý đến ta, nên bảo nó chọn mới phải.”
Cung Uyển cười nói.
“Ngày vui của cháu Lý nên càng phải hiếu kính cụ mới phải. Cụ là người phúc lớn, nếu cháu Lý cũng nhờ việc này mà hưởng lây phúc của cụ thì hay lắm.”
Cụ lớn nghe vậy rất vui lòng, liền cười bảo.
“Đã vậy thì múa điệu “Tam Quốc Tây Du”. Điệu này tuy nhiều người nhưng mỗi màn có lớp lang trật tự, đường lối ngay thẳng, màu sắc trang phục nền nã, ánh sáng lung linh mà không bị hỗn loạn nhiêu khê, sặc sỡ chói mắt như các điệu múa khác. Bây giờ, vũ cơ thường không thực uyên thâm điệu nghệ, chỉ cốt mượn tiếng đàn sáo réo rắt hoặc trang phục hoa hoè hoa sói để làm loà mắt người xem, che đi vẻ cứng nhắc lúng túng đó thôi. Nếu là các điệu múa thường như múa Song phụng, múa Tứ linh thì các giáo phường còn có mánh khoé che giấu được. Riêng điệu múa này, nếu như không phải người thực giỏi thì sẽ lộ ra ngay.”
Cung Uyển nghe vậy, liền bảo phường hát thay trang phục, chuẩn bị hiến vũ. Kim Khánh ra hiệu cho Thuỷ Nguyệt, bảo người nhà chực sẵn bên ngoài lập tức bày sân khấu trên mặt nước để các trưởng bối cùng xem. Một chốc sau, bảy mươi hai vũ sinh nam nữ ăn vận đẹp đẽ. Vũ sinh nam mặc áo giáp, có phủ áo đao bào, lưng thắt đai ngọc mang các thứ bảo bối, đi hia đen lót lĩnh đỏ. Vũ sinh nữ mặc áo lụa nghê thường, hai vai đeo đèn lụa vẽ hoa. Đôi bên lần lượt ra vũ đài, vừa múa vừa hát. Bấy giờ, người hầu Dao Chương cắt đặt sẵn cũng mang những thúng tiền xu lớn, xâu dây đỏ lên. Mọi người ngồi xem say sưa. Đến đoạn hay, lại cầm tiền ném xuống sân khấu, thưởng cho vũ cơ. Đến giờ Tý, khúc múa cũng hết, cụ lớn truyền cho bọn vũ cơ nghỉ ngơi rồi gọi người quản múa lên, thưởng cho mười cây lụa, năm cây gấm, năm tấm nhiễu, hai mươi cây vải, lại thêm hai thoi vàng, bốn thoi bạc. Người quản múa lạy tạ rồi lui xuống. Cụ lớn xem sắc trời, cười bảo.
“Ở mãi trong gác này cũng chán, nếu bây giờ có thuyền để uống rượu, ngắm cảnh thì hay lắm.”
Kim Khánh mỉm cười, nhẹ giọng thưa.
“Thuyền nhỏ đã đợi sẵn ở đầm Kim Hà, thuyền lớn đợi bên ngoài phủ, nếu cụ và các bác, các cô cao hứng, chúng cháu xin dẫn đường.”
Cụ lớn nghe vậy, càng lấy làm cao hứng, liền cùng nhau ngồi kiệu tre đến bến Giang Ly. Con cháu trong nhà đều theo hầu cả. Lên thuyền, cụ lớn lại truyền bày tiệc rượu, cho phường hát gảy khúc "Trang mộng" phía sau màn rồi cùng con cháu bày trò tửu lệnh. Bọn chị em đã chuẩn bị từ trước, vừa nghe vậy liền nháy Phi Ly mang ống ngà đựng các que thơ lên. Trần Đăng Chung gắp lấy một que, đặt ra giữa chiếu. Mọi người cùng nhìn, thấy ấy là một câu “Hải đường O tận nhất đình hồng”. Năm chữ được thả lần lượt thả là “khai”, “lạc”, “phi”, “thì”, “tu”. Ai đánh chữ gì, cứ việc viết chữ ấy vào một mẩu giấy rồi đề tên mình bên dưới, đưa cả lên. Kim Khánh đánh chữ “khai” hai lạng bạc. Vũ Lý cũng theo, đánh thêm bốn lạng. Cụ bà thấy vậy rất đẹp lòng, liền theo mười lạng nữa. Trần Đăng Chung biết ý mẹ ưa những ý thơ vui, liền vội theo hầu sáu lạng. Thanh Đường, Phi Ly đánh chữ “phi” sáu lạng. Cung Ỷ cũng toan đánh chữ ấy nhưng thấy Thanh Đường bỏ ra nhiều quá, ngần ngừ một lúc mới đánh thêm chín lạng. Dao Chương đánh chữ “tu” năm lạng. Trần Huyên góp vui theo con gái, liền đánh thêm sáu lạng. Tử La đánh chữ “thì” bốn lạng. Lý Tử Long phân vân một thoáng rồi đánh chữ “lạc”. Những người không đánh thì không nói đến. Trần Đăng Chung đợi qua nửa nén hương rồi từ từ mở lớp giấy bồi, dâng lên cụ bà. Cụ bà rất vui, liền bảo Thái Vân nhận lấy rồi đọc to lên cho mình nghe. Thái Vân đón lấy thẻ thơ từ tay Đăng Chung, cười đọc.
“Hải đường khai tận nhất đình hồng.”
Nghe vậy, mọi người đều cười vang. Người chúc mừng cụ bà đánh thắng, người lo thu bạc. Trần Đăng Chung nói.
“Cụ liếc qua một cái là trúng ngay.”
Cụ bà ôm Kim Khánh vào lòng, cười bảo.
“Cũng nhờ ta có của quý này đây.”
Cung Uyển, Trần Huyên thấy vậy, vội dâng lên mấy thứ đồ mừng. Sắc mặt Vũ Lý vẫn như thường nhưng Thanh Đường thì ngẩn người một thoáng rồi mới chầm chậm uống cạn chén rượu phạt. Phi Ly ngồi cạnh nàng, vẻ mặt cũng thoáng đổi. Dao Chương thấy vậy liền khẽ kéo vạt áo nàng một cái như nhắc nhở. Bấy giờ, Phi Ly mới như bừng tỉnh, cùng mọi người nâng chén song lại nhân lúc không ai chú ý mà đổ cả rượu vào khăn. Tử La, Tử Long đều cho rằng ấy chỉ là trò chơi, không để ý đến. Trần Đăng Chung đưa ống thẻ thơ cho Lâm Tử Tiêu. Tử Tiêu kính cẩn đón lấy, rút một thẻ thơ trước mắt mọi người. Lần này là câu thơ “Nghiệt hải tình thiên ảo mộng O”. Năm chữ được thả lần lượt là “trường”, “gian”, “du”, “diêu”, “mang”.
Cụ bà vẫn để Kim Khánh đánh thay mình, theo chữ “gian” mười lạng. Phi Ly nghe câu này đều rất xúc động, liền đánh chữ “diêu” năm lạng. Vũ Lý hững hờ đánh chữ “mang” ba lạng. Thanh Đường thấy vậy thoáng ngạc nhiên. Vũ Lý nhận thấy ánh mắt nàng liền kín đáo nhìn nhanh, mặt hiện ý cười. Thanh Đường cau mày, không để ý đến hắn nữa rồi xin vào buồng trong thay áo, một lúc sau mới quay lại. Bấy giờ, Tử La, Tử Long cũng đã chọn chữ để đặt tiền xong. Tử La đặt chữ “trường”, Tử Long đặt chữ “du”. Thanh Đường cười nói.
“Không ai đánh chữ “mang”, để cháu đánh vậy.”
Nói đoạn liền bỏ ra chín lạng, đánh chữ “mang”. Cung Uyển cười nói.
“Cháu Thanh đã mạnh tay như vậy thì ta cũng liều theo cháu xem sao.”
Nói rồi liền bỏ ra chín lạng. Thanh Đường cười bảo.
“Bác đánh nhiều như vậy, chốc nữa nếu như không được mà trách móc cháu thì cháu không chịu đâu.”
Cung Uyển bật cười, nói.
“Chỗ người trong nhà mà mấy lượng bạc cũng khó dễ cháu thì ta còn bảo ban được ai nữa. Đã là anh em thì nhường nhịn nhau mới phải.”
Thanh Đường nói.
“Bác nói rất phải, tình cảm anh em trong nhà mới là trọng, những thứ là vật ngoài thân thì thế nào cũng xong.”
Cung Uyển gật đầu, nói.
“Chỉ cần các cháu hiểu lễ nghĩa, biết tôn ti trật tự thì ta đâu tiếc.”
Thanh Đường chỉ cười mà không nói. Bấy giờ, Lâm Tử Tiêu chợt thấy một tiếng động vang lên sau lưng mình. Chàng quay lại thì thấy một chiếc thoa vàng chạm lộng hình chim phượng ngậm hạt châu rủ xuống thành tua đẹp đẽ. Chàng ngần ngừ một thoáng rồi nhặt lên, hỏi.
“Của ai đánh rơi đây?”
Thanh Đường trông chiếc trâm hơi quen, liền vươn tay cầm lấy, ngắm nghía một hồi rồi bảo.
“Hình như tôi đã trông thấy cái này ở đâu rồi. Để chốc nữa tôi tìm chủ cho.”
Lâm Tử Tiêu nghe vậy liền không để ý đến việc ấy nữa, cúi đầu chuyên chú gỡ lớp giấy bồi trên thẻ thơ. Lớp giấy gỡ ra, câu thơ nguyên gốc là "Nghiệt hải tình thiên ảo mộng diêu". Tử Tiêu đưa thẻ thơ cho Thái Vân. Chị ta nhìn qua rồi cười, đọc ngay.
"Nghiệt hải tình thiên ảo mộng gian."
Tử Tiêu ngạc nhiên song lập tức hiểu ý, không để lộ ra ngoài mặt, chỉ cười rồi cùng mọi người chúc mừng cụ lớn. Cụ lớn được liền hai ván, rất vui, nói với Trần Đăng Chung.
"Chúng nó bày ra trò chữ nghĩa này, cứ tưởng ta không chơi được đấy. Thế mới biết lấy tiền từ túi ta cũng không dễ đâu."
Trần Đăng Chung cười, thưa.
"Nếu cụ không chơi được thì trong số chúng con thực không ai dám nhận là biết chữ nữa."
Cụ bà cười bảo.
"Chẳng qua ta ăn may đó thôi. Nói về chữ nghĩa, ta khi nào bằng được các anh. Hồi bé, cụ thân sinh đưa ta đến gia thự học chữ, vì ta yếu quá nên cứ nghỉ luôn, thành ra chỉ biết được mấy chữ vừa đủ đọc sách mà thôi. Ta cáng đáng được đến bây giờ, âu cũng nhờ phúc ấm tiên tổ. Nhà ta đời đời ăn lộc thánh, các anh nên làm sao cho con cháu ai cũng tinh thông chữ nghĩa, văn võ kiêm toàn, ấy mới không phụ lòng vua thương chúng ta."
Trần Đăng Chung cúi đầu xin vâng rồi nói.
"Con vẫn thường lưu tâm việc ấy. Nhờ phúc trạch của cụ, các cháu trong nhà cũng đều khá cả. Nay cụ đã dặn dò, con xin chu tất hơn."
Cụ ông nghe vậy, liền nói.
"Đã vậy thì các cháu mỗi người làm một bài thơ mừng. Cháu Lâm là khách nên cử đứng ở giữa, xem thơ rồi bình thơ cho chúng ta nghe. Lại chọn ra mấy bài hay nhất để chép lại, như vậy chẳng hay ư?"
Mọi người đều cho là thú. Trần Đăng Chung xin cụ ông ra đề. Vừa lúc ấy, phường hát tấu khúc "Suất cầm tạ tri âm", cụ ông liền bảo.
"Lấy chuyện Tử Kỳ đập đàn tạ tri âm làm đề, lấy một nén hương làm hạn. Ai viết xong cứ đưa lên, chúng ta sẽ xem từng bài một."
Bọn con cháu nghe vậy đều vâng lời. Lui về bàn viết được a hoàn chuẩn bị sẵn mà nghĩ thơ. Chừng nửa nén hương, Kim Khánh cũng viết xong câu thực. Vũ Lý ngẩng lên, đưa mắt nhìn chị ta có ý hỏi. Kim Khánh mỉm cười, khẽ lắc đầu tỏ ý chưa xong. Thanh Đường đưa bài thơ của mình cho Phi Ly, Tử La đọc. Tử La xem xong thì gục đầu vào vai nàng ta, mím chặt môi, cố nén cười. Phi Ly kín đáo lấy khăn tay che miệng song cũng không ngăn được ý cười trong khoé mắt. Vũ Lý thấy lạ, liền khẽ kéo tay áo Thanh Đường, muốn xem cùng họ. Dao Chương trông cảnh ấy, biết họ lại bày trò nghịch ngợm chi đây nên chỉ lắc đầu cười khổ nhìn Kim Khánh. Song, nàng cũng tò mò, liền hỏi Tử La. Tử La ghé vào tai Dao Chương, thầm thì kể mọi chuyện. Dao Chương tròn mắt, dở khóc dở cười. Vũ Lý đọc xong thì trỏ Thanh Đường, cười bảo.
"Em dám để bài thơ này lên cho cụ đọc, anh mới xem là tài."
Thanh Đường giật tờ giấy từ tay hắn lại, bĩu môi nói.
"Có gì mà tôi không dám."
Dao Chương thấy hai người thách đố lẫn nhau, vội cầm tay Thanh Đường, khẽ gàn.
"Thôi, không khéo lại sinh chuyện đấy."
Thanh Đường cười bảo.
"Chị cứ để tự tôi, không làm sao đâu."
Nói đoạn, liền trình ngay bài thơ lên. Vũ Lý, Phi Ly cũng đã viết xong, liền đưa lên cùng lúc với nàng ta. Kim Khánh, Dao Chương không vội, chờ tới khi hương gần tắt mới trình thơ lên. Lúc hương sắp tàn, Tử La vội đưa bài thơ của mình cho Kim Khánh, nói khẽ.
"Chị ở gần, trình cụ giúp em với."
Kim Khánh mỉm cười nhận lấy tờ hoa tiên từ tay nàng ta. Phi Ly bấm nàng ta một cái, nói khẽ.
"Để tôi làm đỡ có phải là không cần vội vội vàng vàng không?"
Tử La cười nói.
"Cụ tinh lắm, căn tính từng người trong thơ cụ không nhầm được đâu. Nếu cụ biết cô làm hộ tôi lại không hay."
Phi Ly ngẫm thấy cũng có lý, liền không nói thêm nữa. Lâm Tử Tiêu xem thơ thế nào, hồi sau sẽ rõ.
*
Bình luận
Chưa có bình luận