Mưỡu:
“Tìm tiên trở lại Thiên Thai
Rêu xanh đá trắng tơi bời bụi tan
Hang sâu im lặng tiếng đàn
Một vùng hạc nội mây ngàn ngẩn ngơ
Cỏ cây khác vẻ ngày xưa
Khói mây xuân trước bây giờ khác xa
Vẫn nguyên lưu thuỷ đào hoa
Mà người chuốc chén nay đà ở đâu?”
Nói:
Từ ngày Vũ Lý, Thanh Đường, Tử La, Dao Chương cùng đến Linh Nham, thường ngày đều cùng Kim Khánh, Phi Ly đọc sách viết chữ, ngắm hoa xem cảnh, chơi cờ thả diều, bày nhiều trò vui. Quán Tuyên Văn cách viện Chiêu Dương chỉ một con đường, đi qua vườn Thái Hư là tới ngay đình Chiết Liễu, hiên Phương Trần, hiên Giáng Tuyết. Duy chỉ có gác Phượng Cầu mà Thanh Đường ở là hơi xa song cũng vẫn ở mé Tây phủ. Lúc bấy giờ mới đầu xuân, bọn họ chưa phải đến gia thự đi học lại. Vả lại, người lớn trong nhà thấy bọn họ là chỗ anh em họ hàng với nhau mà từ nhỏ đến bây giờ gặp nhau chưa được mấy bận, nên đều ngầm để bọn họ được cùng nhau thoả thích chơi đùa. Vũ Lý, Tử La vốn nhiều trò lạ chước hay, biến hoá khôn lường, lại được Thanh Đường chẳng kiêng nể ai nên việc gì cũng dám làm. Phi Ly tuy ngoài mặt ra vẻ kín kẽ trầm lặng nhưng thực ra cũng thích vui đùa nên ngấm ngầm hùa theo. Kim Khánh, Dao Chương lớn hơn bọn họ một chút nên dù thường chiều theo ý họ nhưng lúc quá đà vẫn lựa lời khéo léo khuyên ngăn. Nhờ hai người cẩn thận giữ gìn mà phủ Tây mới chưa bị kéo đổ.
Một bữa trời hơi hửng nắng, gió buốt tạm ngưng, Vũ Lý viết đôi câu đối, mang sang cho Kim Khánh cùng xem. Hai người bàn luận một chốc thì Dao Chương tới, nàng liền thuận nước đẩy thuyền, nhờ Vũ Lý chỉ bảo cho Lý Tử Long. Vũ Lý vốn tính vô tư, với người ngoài cũng ra sức giúp rập huống chi với anh em trong họ. Dao Chương vừa ngỏ ý, chàng ta đã gật đầu ngay. Dao Chương thấy vậy rất mừng, liền bảo Nhuyễn Hồng về gọi Tử Long tới. Ba người ngồi nói chuyện thêm một lúc thì Tử La và Tử Long cùng tới. Hoá ra, ban nãy Tử La qua hiên Phương Trần tìm Dao Chương thì vừa hay gặp Nhuyễn Hồng từ chỗ Kim Khánh đi về. Biết Dao Chương đương ở đó nói chuyện, nàng liền cùng Nhuyễn Hồng, Tử Long qua đây. Thấy vậy, Dao Chương cười nói.
“Hôm nay không hẹn trước mà cũng đông đủ thực, chỉ còn thiếu mỗi cô Ly với cô Thanh thôi.”
Tử La hào hứng nói ngay.
“Không phải mọi người đương định viết chữ đấy ư? Đã thế thì sang ngay chỗ cô Ly, chỗ cô ấy vừa đủ các thứ bút mực, lại đỡ cho cô ấy phải đi xa nhiễm sương nhiễm gió, như vậy hay hơn.”
Mọi người đều lấy làm phải, Kim Khánh lại nói.
“Vậy cũng phải cho người đi mời cô Thanh mới được, không cô ấy biết lại không ra làm sao.”
Nghe vậy, ai cũng gật đầu nói “phải đấy”. Tử La vui vẻ nói.
“Để em đi gọi cho. Cho người khác đi thế nào cô ta cũng tự ái rồi lại lủng bủng cả ngày. Người đã lớn như vậy mà tính tình vẫn còn trẻ con, không biết sau này ai chiều chuộng nổi cô ta nữa.”
Nói đoạn, nàng liền xin Kim Khánh một lọ mật hoa, đến gác Phượng Cầu tìm Thanh Đường. Mọi người cùng nhau qua đình Chiết Liễu. Bấy giờ, Phi Ly đương nha nhẩn cùng Tịch Nhan ra vườn chăm hoa lan. Nguyên dịp trước quan Thông sứ là Chu Thái Chiêu đến nhà họ Trần bàn chuyện với Trần Đăng Chung có mang theo mấy giò lan quý làm quà. Đăng Chung ngẫm thấy trước giờ hoa lan thanh nhã bất phàm, chăm lan cũng là cách tu tâm dưỡng tính, liền bảo người nhà đưa mấy giò lan ấy sang cho con cháu trong nhà. Thanh Đường, Tử La được đôi chậu kiến lan. Kim Khánh, Dao Chương được thứ thanh lan. Phi Ly được thứ tố lan. Vũ Lý được thứ thạch lan. Phi Ly quý lắm, liền phá bỏ chậu sứ, tìm nơi chỗ u cốc vắng vẻ, nơi non bộ ít bàn tay đẽo gọt trong vườn mà trồng. Hằng ngày chỉ bắt sâu, tưới nước, ngoài ra không bón thêm một thứ nào khác nữa, lại cho rằng làm như vậy mới giữ được chất, được thần thanh u nhàn tĩnh của lan, khi nở ra lan mới có thể phát được kỳ hương. Tịch Nhan thấy người khác chăm lan thường lúc nào cũng cẩn thận dùng thứ bùn đã phơi khô đốt ủ mà bón, lấy những sừng hươu, bã chè khô phủ lên trên gốc, hằng ngày cắt lá úa, rửa lá tươi. Phi Ly lại chẳng làm gì cả, trồng lan mà chẳng khác trồng các thứ cây khác trong vườn là mấy. Chị ta lấy làm lạ song cũng không hỏi thêm, chỉ chuyên tâm hầu hạ, cốt để nàng ta vui vẻ, không muộn sầu sinh bệnh là được.
Thấy mọi người tới chơi, Phi Ly bỏ lại gầu nước, cùng Tịch Nhan đưa họ lên nhà. Dao Chương cởi tấm áo khoác của mình choàng cho Phi Ly, cầm tay nàng, nói.
“Em mới đỡ mệt một chút đã ra đây hứng gió, không tốt đâu.”
Phi Ly nhỏ nhẻ đáp.
“Em đã uống thuốc rồi, không can chi đâu.”
Dao Chương nói.
“Dẫu vậy vẫn phải cẩn thận mới được.”
Nói đoạn, nàng đem việc viết chữ nói một lượt với Phi Ly. Phi Ly thấy rất thú, liền bảo a hoàn mang một chiếc bàn dài đặt trong phòng khách rồi mang hộp đựng bút tới. Chiếc hộp đựng này làm bằng gỗ giáng, phân làm mấy tầng, mỗi tầng cất một loại bút. Có thứ bút Tử hào làm bằng lông thỏ rừng dài nhọn, dùng để viết chữ vuông vắn, ngay ngắn. Lại có thứ bút Dương hào làm bằng lông dê mềm mại, dùng để viết chữ tròn trịa, không lộ liễu phô trương. Cũng có loại bút Lang hào làm bằng lông chồn vàng ở vùng Đông Bắc, khi viết lực mạnh hơn bút Dương hào. Tịch Nhan vào trong buồng một chốc, lúc bước ra lại cầm theo một hộp đựng một lượt mười thoi mực của Lý Đình Khuê. Vũ Lý cầm lên xem thử thì thấy trên thân thoi mực có chữ “khuê” bộ ấp, chất mực khác hẳn thứ mực tùng yên trong phủ hay dùng. Một chốc sau, Thuần Ly lại mang thêm nghiên mực, giấy Tuyên, chấn chỉ, ấn triện, chu sa, bồn rửa bút ra. Bàn tay Kim Khánh nhẹ nhàng lướt trên mặt giấy, nàng cười bảo.
“Giấy thục chỉ dùng để vẽ thì đẹp. Hôm nay viết chữ, ta chỉ nên dùng giấy sinh chỉ thôi.”
Thuần Ly nghe nói liền đem giấy thục chỉ cất đi. Bấy giờ, Tử La và Thanh Đường cũng tới. Vũ Lý đương vén tay áo mài mực, hỏi Tử Long muốn viết chữ gì. Tử Long nghĩ một chốc rồi nói.
“Dù sao cũng là chữ để treo ở trong phủ, thôi thì lấy câu “Dương liễu gió chiều, men ngõ hẻm; Dòng xuân hoa thắm, khách rèm châu” đi.”
Bấy giờ, Thanh Đường đương cùng Phi Ly chọn bút, nghe vậy liền cắn môi nhịn cười. Phi Ly khẽ kéo vạt áo cô ta một cái. Thanh Đường đành ngoảnh mặt vờ ngắm bình phong. Tử Long thấy không khí là lạ, lại thấy Thanh Đường có vẻ ngơ ngẩn lạ lùng, khác hẳn ngày thường thì không hiểu ra sao. Vũ Lý thấy không hay, liền cười bảo.
“Câu ấy cũng có tứ đấy nhưng chưa phải câu hay nhất của Lý Khiếu Thôn. Em thử nghĩ xem còn câu nào khác hay không?”
Tử Long nghĩ mãi không ra. Phi Ly thấy vậy liền nhân lúc ra rửa keo đầu bút, đến gần Tử Long, nói khẽ với hắn.
“Anh thực hay quên, tứ thơ ấy ở ngay chỗ anh đương ở, sao lại không nhớ?”
Tử Long nghe vậy, trong dạ đã hơi lờ mờ song vẫn chưa thực rõ, đành thở dài, giơ hai tay, nói.
“Tôi chịu trò này thôi. Em có biết thì đọc giúp tôi với.”
Phi Ly cười nói.
“Cái ấy tôi không được làm chủ, phải xem ý của chị em thế nào.”
Kim Khánh cười bảo.
“Đọc hộ cũng được, nhưng nếu vậy thì em Long phải chịu phạt.”
Tử Long như được đại xá, vội nói.
“Xin nghe chị em cả.”
Bấy giờ, Phi Ly mới cười nói.
“Ban nãy, tôi gợi anh nhớ đến hiên Phương Trần là vì Lý Khiếu Thôn có ý thơ “Nhẹ quét tường vôi, phấn hoa rơi”. Những câu ấy ý tứ rất nhã mà lại gợi, câu chữ chỉ như giãi cảnh thật, không giống như gò đúc uốn nắn, mất hết tính linh.”
Vũ Lý liền cẩm bút, viết ngay bài thơ ấy lên giấy Tuyên. Bấy giờ, Tử La bảo.
“Những câu ấy nhã đấy nhưng khí thơ lại nhẹ quá, cứ như ý tôi thì những câu như “Gió sương vẫn chở khách về nhà” lại hay hơn. Không chỉ câu chữ tự nhiên mà khí lực trong thơ cũng mạnh mẽ phiêu diêu, khiến người ta sảng khoái.”
Thanh Đường cũng cười bảo.
“Các câu ấy đều hay cả nhưng lại kém vẻ phong lưu, sao không ai nhớ những câu “Rượu xanh đèn đỏ giáp đôi bờ; Giọng ca một loạt vang trên nước”, không phải là đủ hết ý vị các cô vừa bàn đó sao?”
Kim Khánh cười, nói đùa.
“Anh Thiên Thanh là người viết, đúng ra phải hỏi xem anh ấy thích câu nào mới phải. Các cô chỉ biết vui mình thôi.”
Vũ Lý cười nói.
“Thơ hay xưa nay không nhiều. Tôi thiết nghĩ những câu các cô vừa nói và đôi câu “Nhà ai đình viện vẫn xanh tươi; Rêu phủ đầy song án bụi rơi” cũng là những câu có tứ đấy.”
Dao Chương đương định bàn thêm thì Thái Vân đã sang, nói rằng bên các cụ vừa mời một phường hát tới. Các cụ bảo gọi họ sang xem cùng cho vui. Vì trời còn rét nên sân khấu bày ở lầu Bạch Môn. Nơi này khuất gió, tường lại trát tiêu, màn chắn lông ngỗng treo trắng xoá, bốn bề ấm sực. Mọi người nghe vậy liền cùng nhau đi theo Thái Vân. Bấy giờ, Lý Ninh, Cung Uyển và Lý Ban đều đã ở đó hầu chuyện các cụ. Cung Ỷ còn đương bận rộn sửa soạn đồ dùng cho các lễ lạt dịp tết âm nên không tới, chỉ cho người mang mấy tấm nhiễu, lụa, các thứ đồ chơi nhỏ bằng vàng, bạc cùng hoa quả đến để bề trên thưởng cho con hát. Bọn chị em chào các cụ cùng những trưởng bối rồi ngồi xuống ghế. A hoàn lập tức rải đệm nhung đã ủ, mang thủ lô tới, lại đặt một lồng ấp ở dưới ghế rồi đốt thêm than xương thú vào bình lưu hương bằng đồng đỏ cho ấm đượm.
Tế Liễu dâng tập khúc lên cho cụ bà. Cụ bà lại đưa cho Vũ Lý, bảo hắn chấm hộ mình. Vũ Lý nghĩ một thoáng rồi hỏi Phi Ly.
”Em muốn nghe vở hát gì thế?"
Phi Ly ngần ngừ một thoáng rồi nói vở "Thoa đầu phượng". Vũ Lý chọn xong cho nàng thì không chấm nữa. Phi Ly đâm ngờ, hỏi dò.
“Anh Thiên Thanh, anh nghe vở gì thế?”
Vũ Lý cười, đáp.
"Tôi không phải chọn nữa, vở vừa rồi em chấm đã đủ hay rồi."
Phi Ly không biết làm thế nào, đành quay mặt đi nói chuyện với Dao Chương. Thanh Đường thấy tình cảnh ấy liền cười nhạt, nói.
"Một Đường Huệ Tiên, một Lục Phóng Ông, chẳng biết ai mới là người buồn thảm phần hơn, ai mới là người tình sâu chấp nặng."
Những người nghe được câu ấy vì không biết câu chuyện phía sau nên chỉ cho rằng nàng ta nói về nhân vật trong vở kịch. Kim Khánh trông sắc mặt Vũ Lý, Phi Ly thì nhận ra mọi chuyện song biết không nên nói thêm, tránh cho chị em lại lủng củng với nhau, làm cụ và cha mẹ không vui, chỉ giả ngơ giả dại, chăm chú xem hát mà thôi. Vũ Lý trong lòng cũng giận nhưng trước mặt cụ, bà và mẹ nên không tiện nói, đành phải chấm qua loa vở "Bạch Đế thành" cho đỡ sinh chuyện rồi đấu dịu hỏi nàng ta.
"Em muốn xem vở gì? Sẵn đây anh chấm hộ cho."
Thanh Đường cười nhạt, nói.
"Tôi có tay có chân, chưa dám phiền anh đến hầu."
Vũ Lý nghe vậy, đành đưa tập khúc sang cho nàng ta. Thanh Đường thấy vậy cũng không vừa ý, liền cố tình bảo Thuý Hoàn.
"Em chấm cho ta vở "Bách Hoa công chúa"."
Chấm xong, Thuý Hoàn dâng tập khúc cho Tử La. Nàng không nghĩ nhiều, chọn nghe vở "Bạch Môn lâu". Kim Khánh đã nghĩ từ trước nên chấm ngay vở "Thuý Bình sơn". Mọi người xem hát, đôi lúc lại nhỏ giọng trò chuyện phẩm bình. Khi phường hát diễn đến vở “lầu Bạch Môn”, nghe những câu “Người ngựa liều mình vượt hiểm nguy, Xác xơ yên giáp gãy quân kỳ, Hoàng hôn ủ rũ buông chầm chậm, Như khóc sa trường vạn tử thi”, ai nấy đều bùi ngùi thương cảm. Kim Khánh cũng thở dài, nhỏ giọng bảo với Thanh Đường.
“Lã Phụng Tiên đường đường là dũng tướng một thời, vậy mà khi gươm kề cổ cũng mất sạch dũng khí. Thực là “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”. Muốn biết ai là “chân anh hùng”, phải tới lúc cận kề tử sinh mới hay được.”
Thanh Đường nghe vậy thì cười nhạt, nói.
"Chị thật là không thông gì cả. Chẳng lẽ cứ phải gân cổ chửi mắng địch, vươn đầu cho người ta chém mới là anh hùng hay sao? Đó chỉ là anh hùng trong lời bọn phàm phu tục tử, bọn văn nhân mặt trắng mà thôi. Chết như thế mà gọi là đáng à? Chết xong rồi thì sao, bỏ cơ nghiệp thiên thu, thù dày chưa trả lại cho ai. Đấy chẳng qua là đâm đầu tìm chết để mua lấy tiếng khen hão của thiên hạ đó thôi. Tôi xem những hạng ấy còn không xứng với chữ "dũng" bằng Lữ Phụng Tiên."
Kim Khánh đã nghe tiếng từ nhỏ Thanh Đường đã là một cô con gái đáng cười, đáng giận. Kể chuyện về cô ta ra chắc chắn sẽ làm cho nhiều người học đạo thánh hiền phải chau mày nghiến răng, dậm chân tức tối. Cung Hữu Quang trị nhà có phép, dạy con rất nghiêm, vậy mà không sao dạy nổi cô ta. Hồi còn nhỏ, khi bà vú cho cô ta thứ đồ chơi cuốn bằng dây gai, ý mong cho sau này cô giỏi việc nữ công gia chánh, lại cho anh trai cô một thỏi ngọc để tỏ ý rằng nam nhi phải trọng nhất là danh dự. Thanh Đường thấy dây gai châm chích tay liền tức mình quẳng ngay vào mặt bà vú rồi giằng lấy đồ chơi của anh. Anh trai cô toan đòi lại thì bị cô trừng mắt, cầm thỏi ngọc đập vào đầu, doạ cho chạy mất. Cha cô ta thấy thế không cho là lỗi đạo mà lại cho là có khí phách khác thường nên càng trọng hơn, liền cất công đến gặp những bậc bô lão trong triều, xin những bộ quần áo cũ về để làm "áo phòng lớn" cho cô ta, những mong cô ta được hưởng cái phúc, cái lộc của những người già lão. Song cô ta thấy áo may chắp vá, vải lại cũ sờn, có hơi của người khác thì nhất quyết không chịu mặc, nhất định chỉ mặc những bộ quần áo lụa là gấm vóc được may tỉ mỉ mà thôi, ai khuyên gì cũng không được. Lớn hơn một chút, cô ta giả làm con trai đến trường học. Sau khi biết chữ thì tìm sách khắp nơi để đọc. Người hầu trong phủ có đứa trẻ tuổi, lém lỉnh ham chơi, đã hơi biết mùi đời, thấy cô ta đã xem nhiều loại sách, cái gì cũng đã no xôi chán chè, chỉ còn một thứ sách là chưa biết nên chạy ngay ra mấy sạp hàng bày ở đầu đường xó chợ, mua mấy quyển sách kể chuyện trai si gái oán, phong hoa tuyết nguyệt về dấm dúi đưa cho Thanh Đường. Cô ta xem qua một lượt, thấy câu từ hoa mỹ, lời văn uyển chuyển nên trong bụng thích lắm, đem tất cả số sách ấy giấu ở đầu giường, thi thoảng đêm khuya không ngủ được lại thắp nến ngâm ngợi đôi câu. Những sách ấy nào là Tây sương ký, nào là Truyện tỳ bà,...chẳng có quyển nào đứng đắn cả. Nhưng kỳ lạ là cô ta lại thích những thứ sách ấy hơn những quyển kinh thư của các bậc thánh hiền nên thuộc nằm lòng. Hễ có người nào thấy những việc ấy mà lấy làm trái mắt rồi lựa lời đứng đắn khuyên ngăn thì cô ta trợn mắt lên mắng người ta.
"Các người đều không đi học, không biết chữ, đều là hạng hồ đồ cả, vậy mà lại xem tôi như trẻ lên ba mà lên giọng dạy đời. Cả đời các người chỉ quanh quẩn trong ba tấc đất này, làm sao hiểu được cái lợi của việc xem sách. Không biết chữ, không đọc sách, các người sao thấy được sách vẽ ra bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình. Nào là quang cảnh hùng vĩ "Rào rào lá trút rừng cây thẳm, Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn", nào là cảnh tế vi "Lún phún mưa nhuần ẩm lối đi, Xa dường sắc cỏ, gần thấy chi", nào là sự phóng khoáng của "Ngựa tựa Đích Lư lao vút, Cung như sấm sét đùng đoàng", nào là cảnh hàm súc "Liễu dương đứng rủ ven sông, Gió ban mai thổi trên không trăng tàn", rồi cả cảnh thanh nhàn "Rào đông hái cúc chiều nay, Xa trông thấy núi Nam ngay trước nhà", hay cảnh ý tình "Dừng xe, chiều ngắm rừng phong thắm, Lá đỏ hơn hoa giữa tháng hai". Vậy mà giờ các người lại bảo tôi bỏ sách để chung lộn với đám người tục như các người, quanh năm suốt tháng chỉ biết đến mỗi những chuyện lông gà vỏ tỏi, tim ruồi mắt muỗi, thế thì tôi còn ra người làm sao được nữa. Rồi ngọc quý không thành, lại chỉ thành mắt cá chết thôi."
Mọi người nghe những lời nói rồ dại như vậy thì đều chán nản, không ai dám khuyên ngăn nữa để mà rước vạ vào thân. Thanh Đường thì nghiễm nhiên coi mình như Ôn Phi Khanh, Tào Đường sống lại, chẳng buồn để ai vào mắt nên cũng không ngó xem sắc mặt họ ra sao. Biết tính cách cô ta vốn dở hơi như vậy nên dù nghe những lời không đâu vào đâu đó, trong lòng Kim Khánh vừa tức vừa buồn cười nhưng cũng chỉ hỏi.
"Cứ như lời em, chẳng nhẽ tướng giỏi tôi hiền lưu danh trong sử xanh đều là hạng không có dũng khí cả sao?"
Thanh Đường nói.
"Họ có dũng khí hay không, tôi chẳng bàn đến. Cái gọi là "tướng giỏi tôi hiền" xưa nay có bao nhiêu người. Có người có, có người không, còn tuỳ vào cảnh huống lúc ấy, không thể vơ đũa cả nắm như thế được. Tôi chỉ biết dù họ có hay không cũng chẳng nên đạp Lữ Phụng Tiên xuống mà nâng mình lên. Dũng khí trong cái cúi đầu của Phụng Tiên không phải là thứ mà những kẻ một mực đinh ninh cho rằng chỉ có liều chết mới là anh hùng có thể hiểu được."
Bọn Lý Ninh cũng láng máng nghe được những câu ấy song họ chỉ xem ấy là giọng trẻ con, không để tâm lắm. Kim Khánh biết không nói lại nàng nên chỉ mỉm cười, khẽ lắc đầu, không nói thêm nữa. Thanh Đường cũng ngoảnh mặt xem kịch. Vũ Lý ngẫm nghĩ về câu nói ấy hồi lâu, mãi tới khi tan kịch mới bảo.
"Lời cô em cũng không phải là không có lý. Chuyện Lữ Phụng Tiên quy hàng cũng giống Câu Tiễn nằm gai nếm mật, Hàn Tín chui háng vậy. Thứ họ quan tâm không phải là tiếng khen chê của người đời mà là mục đích cuối cùng của họ. Vì đạt được mục đích, dù tiếng thơm hay tiếng thối họ cũng chấp nhận để đổi lấy sinh cơ, bởi chỉ khi còn sống mới làm được nhiều chuyện. Chết rồi thì không làm được gì cả, mộng lớn thành hận thiên thu theo xuống tuyền đài. Nhưng, có mấy người dám chà đạp lên thể diện của mình để đạt thành nghiệp lớn như vậy? Ngay cả những bậc anh hùng lưu danh muôn thuở cũng chưa chắc đã làm được. Cứ thế mà suy, riêng về chuyện này, dũng khí của Lữ Phụng Tiên đã hơn nhiều người lắm."
Thanh Đường bật cười, nói.
"Danh với tiếng, người chết là hết, danh tiếng có thơm tho cũng chẳng để làm gì. Huống hồ, với đời này là tiếng thơm, với đời khác có khi lại là tiếng thối. Như việc Điêu Thuyền lúc bị xem là đa dâm, lúc lại được xem như liệt phụ. Có người xem Phụng Tiên là anh hùng, có người con hắn là cẩu hùng. Danh tiếng biến đổi theo thời đại, còn nhanh hơn vai hề kia thay mặt nạ. Nếu chạy theo thì chạy đến bao giờ cho đủ. Vậy thì ngay từ đầu sao còn chuốc cái khổ vào thân?"
Dao Chương nghe nói liền phì cười, bảo.
"Cứ nói như cô Thanh, không khéo mọi sự lộn lạo hết cả, từ trắng thành đen, từ sai thành đúng. Bỗng nhiên sau một đêm, khéo đến Dương Quý phi, Triệu Phi Yến, Tô Đát Kỷ cũng không thể nhìn theo lối cũ được nữa."
Thanh Đường nói.
"Sai đúng, trắng đen mà chị nói không phải là chân lý, nếu là chân lý thì đã không chuyển dời. Trên đời này, chẳng có gì là chân lý cả. Đến trời còn đổi sắc mỗi ngày thì chị nghĩ mấy thứ quan niệm của chúng ta làm sao coi là chân lý được đây. Đã không phải là chân lý thì tự nhiên sẽ thay đổi, chẳng cần đến tôi. Nếu lấy chuyện Dương Thái Chân, Triệu Phi Yến, Tô Đát Kỷ để nói thì có người xem bọn họ là hồng nhan hoạ thuỷ, là yêu cơ hoạ quốc, nhưng tôi chỉ thấy họ là kẻ bị bọn văn nhân sỹ phu cả ngày tụng niệm sách vở lôi ra để gánh tội thay mà thôi. Mất nước đổ lên đầu họ đã là vô lý lắm rồi. Việc trị nước không phải nằm trong tay đám quan khanh đó cả hay sao? Vậy nước còn hay mất, thịnh hay suy cũng là việc của bọn họ; giữ được nước, làm cho nước thịnh vượng là bọn họ có tài; khiến nước mất nhà tan là do họ bất tài vô dụng chứ can gì đến những mỹ nhân kia. Vậy mà sau khi mất nước họ lại quay ra mắng mỏ một người phụ nữ không được can chính trong hậu cung. Thật khéo nực cười. Buồn cười hơn nữa là việc nhà vua bỏ bê triều chính, họ cũng lại dồn lên vai người đẹp. Đã vào cung, ai mà chẳng phải tranh sủng, không tranh sủng thì đầu bạc trắng ngồi trong hành cung mà kể chuyện vua Huyền Tông. Đó là cách các phi tần tồn sinh trong cung cấm. Nhà vua không thượng triều vì say mê người đẹp ấy là lỗi của nhà vua không biết khắc kỷ chứ tội gì ở nhan sắc của người đẹp? Họ muốn lấp sắc đẹp của Phi Yến, huỷ dung nhan của Thái Chân vì nghĩ rằng chỉ cần như vậy sẽ không còn cái đẹp làm loạn nước. Nhưng nào hay sự làm loạn nước ở người mê sắc đẹp chứ chẳng phải ở sắc đẹp. Nếu nhà vua hiếu sắc thì dù Thái Chân rạch mặt, Phi Yến huỷ dung, bọn họ sẽ vẫn bỏ bê triều chính vì những phi tần có nhan sắc khác mà thôi. Chẳng qua, đám văn nhân ấy hèn nhát, không dám trách vua, lại sĩ diện không thích trát gio lên mặt nên mới chuyển qua trách người đẹp. Thật là khéo quá."
Dao Chương thấy sắc mặt Kim Khánh hơi lạnh đi liền nhẹ kéo áo Thanh Đường. Song, Tử La lại không để ý, chỉ ngẫm lại từng lời hai người kia vừa nói, thấy cũng không phải là không có lý lẽ, liền nói.
"Nhưng trong thiên hạ được mấy người nghi, sợ rằng ngàn người không được một. Tôi không nói đâu xa, ngay cả những sách dạy người ta thuật tử vi không phải bây giờ vẫn nhan nhản những câu "Dương Quý phi đa dâm vì tam hợp vào mệnh có Xương, Khúc" ư? Thế thì sao tránh được việc người đời sau nghĩ như thế, lại càng làm hiếm người nói những câu như cô hơn."
Phi Ly sực nhớ đến một việc, liền cười nói.
"Sao lại không có ai? Trước kia tôi đọc thơ Nguyễn Thanh Hiên, thấy bài vịnh quê cũ Dương phi có viết "Trách kẻ đầy triều đồ đứng phỗng, Oan ai nghìn thuở tội nghiêng thành". Câu ấy chẳng có ý giống với lời của cô Thanh sao? Vậy mới thấy trong thơ của cổ nhân, không chỉ có những câu sáo mòn như "Trụ kia mất nước vì Đát Kỷ, Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi" thôi đâu."
Dao Chương, Kim Khánh đều thở dài, lắc đầu bảo.
"Những câu ấy không sáo đâu, tuy lập ý cũ nhưng cũng có đạo lý ngàn năm."
Tuồng hát xong, các cụ thưởng cho phường hát, bảo gia nhân đưa họ về rồi giữ con cháu lại dùng cơm trưa. Thái Vân sắp xếp cho a hoàn đứng hầu xong xuôi, vừa trở ra coi nước trà thì chợt thấy một a hoàn mặt trái xoan, đội mũ lông điêu chạy đến. Chị ta nhận ra ấy là Bách Hạnh theo hầu Cung Uyển từ Hồ Dương đến đây, liền hỏi.
“Chị Hạnh, chị đi đâu mà gấp thế?”
Bách Hạnh thở dốc, không trả lời Thái Vân mà hỏi.
“Bà nhà tôi có ở trong đấy không?”
Thái Vân không hiểu ra sao cả song vẫn nói.
“Có, nhưng bà đương hầu cơm cụ, cô chớ vào vội, có việc gì để chốc nữa hẵng trình.”
Bách Hạnh liền bảo ngay.
“Chuyện này gấp lắm, không thể chậm trễ được. Chị hãy vào trong thưa với bà giúp tôi.”
Thái Vân trông sắc mặt Bách Hạnh có vẻ sợ hãi, biết là không phải chuyện thường, đành phải vào trong nói nhỏ với Cung Uyển. Cung Uyển nghe vậy, chỉ phẩy tay bảo Thái Vân lui ra rồi lựa lúc lựa lời xin phép cụ. Bấy giờ, Bách Hạnh đương đứng ngoài đợi, không màng tới lạnh giá, lòng như lửa đốt. Cung Uyển bước ra, cau mày hỏi.
“Có việc gì thế?”
Bách Hạnh nói.
“Phùng An vừa từ Hồ Dương đến đây, nói rằng ông nhà ta đi thị sát kho lương, chẳng may gặp phải tuyết lở, đã sai người tìm kiếm mấy ngày nay mà không có tin tức gì.”
Cung Uyển nghe vậy thì biến sắc. Song nghĩ tới việc các cụ còn ngồi ở trong phòng, liền cố giữ vẻ điềm nhiên, bảo Bách Hạnh về trước rồi trở vào hầu chuyện các cụ. Sau khi hầu trưởng bối về nghỉ, Cung Uyển sang quán Tuyên Văn, kể đầu đuôi mọi sự với Vũ Lý. Vũ Lý hay tin cha mình không rõ tung tích thì trong lòng rất lo lắng. Cung Uyển sợ bọn người nhà tìm kiếm không được cẩn thận, nhân đó liền bảo cậu ta dẫn theo mấy người, đến Tư Môn xem xét, đôn đốc. Vũ Lý không nề hà điều gì, lập tức gật đầu ngay. Cung Uyển thở dài, nói.
“Con còn trẻ tuổi, việc này đáng ra anh con phải cáng đáng mới phải. Nhưng hiềm một nỗi bây giờ cha con sống chết không rõ, chuyện lớn chuyện nhỏ, việc trong việc ngoài ở Hồ Dương nó phải gánh vác cả. Nếu bây giờ nó bỏ nơi trấn thủ, đến Tư Môn tìm kiếm cha con thì ngộ nhỡ biến loạn xảy ra sẽ không kịp trở tay. Không nhờ đến con, thực là ta chẳng biết nhờ ai được nữa.”
Vũ Lý quỳ sụp xuống, rưng rưng nước mắt. Cung Uyển vội đỡ cậu dậy, yên ủi một hồi rồi dặn cậu giữ kín việc này. Các cụ tuổi đã cao, nếu biết chuyện này thì ắt lo lắng đau buồn mà sinh ốm, trong nhà cũng nháo nhác không yên, như vậy không hay. Chẳng bằng để sau chuyến này nếu có tin tức gì thì báo lên cũng không muộn. Vũ Lý nghe lời bà, chỉ nói rằng có chút việc ở Ô Trình, Vũ Xung Trực vừa đưa tin tới nhờ hắn qua xem xét, bởi vậy phải đi khỏi Linh Nham một thời gian. Chẳng bao lâu, bọn chị em cũng hay việc ấy. Từng người một tới quán Tuyên Văn chào hắn, lại đưa đến những thức quà tiễn chân. Duy chỉ có Thanh Đường không tới. Vũ Lý để ý thấy song lòng dạ còn đương để cả ở việc của cha nên cũng không bận tâm. Tán Hoa, Sở Nguyệt bận rộn chuẩn bị các thứ đồ dùng đi đường, không lúc nào ngơi tay.
Mãi đến chiều muộn, Thanh Đường mới sang. Vũ Lý thấy nàng đến, liền mời vào trong nhà rồi tự mình rót trà. Thấy trà đã lạnh, hắn vội bảo Tần Châu quạt lò pha nước. Thanh Đường ngăn lại, nói.
“Không cần làm rầy rà đến các cô ấy nữa, tôi về ngay thôi.”
Vũ Lý tưởng nàng ta trách mình đón tiếp không chu đáo, ngỡ nàng ta lại chuẩn bị nổi cơn sấm sét. Nào ngờ, Thanh Đường chỉ bảo.
“Đưa tay ra cho tôi xem nào?”
Vũ Lý không hiểu gì cả nhưng vẫn làm theo. Thanh Đường lấy ra một chiếc nhẫn bọc trong khăn lụa, đeo vào ngón tay Vũ Lý, nói.
“Đừng có làm mất đấy, chừng nào anh về thì giả tôi.”
Vũ Lý không hiểu ý tứ nàng ta thế nào cả. Thanh Đường cắn môi, cúi đầu, tự nhiên mặt đỏ rần lên rồi bỏ về ngay. Chất lành lạnh của chiếc nhẫn áp vào da Vũ Lý, khiến hắn thoáng rùng mình. Hắn cúi đầu trông kỹ, thấy trên màu bạc sáng loáng của chiếc nhẫn chạm hình “cửu long chầu nhật” tinh vi khéo léo, sống động như thật. Chợt, gia nhân chạy vào báo ngựa đã chuẩn bị xong. Vũ Lý gác lại những suy nghĩ chưa kịp thành hình, khoác áo tơi và nón vào mình, quày quả lên đường.
Hắn đi bốn ngày thì tới Tư Môn, lại cho người nhà đi khắp đầu thôn cuối ngõ, hỏi han thôn dân ở những làng mạc gần đó mới hay Vũ Xung Trực đã bị người của bang Hạ Hồng bắt giữ. Nghe đồn rằng bọn chúng muốn đưa ông sang nước Nhục Chi, giao cho Kim vương đất ấy để lĩnh thưởng. Vũ Xung Trực bị bắt thì khí thế của quân đội ở Hồ Dương cũng ít nhiều suy sút. Chỉ cần lấy ông làm con tin thì Vũ Nhược Lan dẫu có thế nào cũng không dám làm liều mà hại đến cha. Cũng may mấy ngày này vì tuyết lớn gió lạnh, đường đi lối lại trên rừng núi thường xuyên sạt lở nên bọn chúng chưa đưa Vũ Xung Trực đi được. Vũ Lý định bụng sẽ vờ xin chuộc người bằng số tiền lớn, lại mượn cớ mang tiền đến mà tìm ra nơi bang Hạ Hồng ẩn náu. Sau khi đưa được cha ra khỏi hang hùm sẽ cho người nhà đánh úp trở lại. Song, số người Cung Uyển cho hắn đem theo để tìm kiếm một người thì đủ, nhưng để chống trả một bang phái thì chẳng khác nào châu chấu đá xe. Hơn nữa, bọn họ lại không rõ bang Hạ Hồng ẩn náu ở đâu. Những người dân bản địa đều sợ uy bang Hạ Hồng, lo mang vạ vào thân nên không ai dám hé răng nửa chữ. Đương lúc khó nghĩ, chợt có mấy người đến xin gặp và hỏi chuyện, tự xưng là người chịu ơn của Vũ Xung Trực, xin dốc hết sức giúp rập. Vũ Lý không theo ngay, chỉ nói.
"Ông với tôi không quen không biết. Cha tôi có ơn nghĩa thế nào với ông tôi cũng chưa được hay. Tình thế cha tôi hiện giờ nguy ngập, một bước sai là không cứu vãn được nữa. Vì thế, tôi không dám tự ý hành động. Xin ông để tôi nghĩ một đêm đã."
Quan Đàm đồng ý. Trong đêm ấy, Vũ Lý cho người đi dò xem gia cảnh của y thế nào. Người nhà họ Vũ vừa bám theo Quan Đàm, vừa nghe ngóng chuyện từ miệng người dân thì biết được gia quyến của Quan Đàm đều không ở Tư Môn. Song, tại chốn này, gã qua lại rất mật thiết với một tú bà ở lầu Lệ Xuân. Hôm sau đôi bên lại gặp nhau, Vũ Lý nói.
"Không phải tôi không tin ông, chỉ vì chuyện của thân phụ rất hệ trọng, không thể không cẩn thận. Nếu ông đã có lòng, xin ông mời một người thân thiết đến ở lại chỗ chúng tôi. Chỉ cần cứu được thân phụ, tôi đảm bảo sẽ đưa người ấy về không thiếu một sợi tóc."
Quan Đàm nghĩ một thoáng rồi cho người đi mời Vân San đến thương thảo. Trông thấy Vân San, Vũ Lý mới có phần tin Quan Đàm không nói dối. Sau khi Vân San gật đầu đồng ý, Vũ Lý liền đưa trước nửa số tiền công cho Quan Đàm để tỏ thành ý rồi cử người chuẩn bị phòng ốc, đưa a hoàn ở lầu Lệ Xuân đến, hầu hạ Vân San chu đáo. Hắn lại tìm trong số thuộc hạ đem theo một người trẻ tuổi, dung mạo đẹp đẽ, mặt như dồi phấn, môi tựa thoa son, dặn dò y khéo léo kết thân với a hoàn hầu hạ Vân San. Nếu Vân San để lộ điều gì tình nghi thì lập tức báo lên để kịp thời định liệu. Trịnh Nguyên nhận lệnh, lập tức làm theo. Xong xuôi, hắn lại chọn ra mấy người, bảo họ thuê trọ gần lầu Lệ Xuân. Nếu như Quan Đàm có lòng phản trắc, bọn họ sẽ phóng hoả đốt cháy lầu Lệ Xuân. Sau khi chuẩn bị chu tất, hắn sửa một tiệc nhỏ, kết thành liên minh với Quan Đàm, định liệu kế sách cứu người.
Đầu não của bang Hạ Hồng không ở Tư Môn. Người giữ chốt ở đây chỉ là một đầu mục nhỏ. Hắn vốn nghĩ rằng lần này bắt được con cá lớn, ắt hẳn sẽ được thưởng hậu hĩnh nên canh giữ Vũ Xung Trực vô cùng cẩn thận. Một con chim sẻ cũng chẳng thể lọt nổi vào nhà giam. Vũ Lý biết Tạ Hy có người thiếp yêu là Tiểu Ngọc, liền cho người đưa vàng lụa cùng phấn sáp, trâm vòng và hai người hầu nữ rất khéo từ quê hương Tiểu Ngọc đến dâng cho nàng. Hai người tỳ nữ được dặn dò mỗi ngày đều phải lựa lời ỏn hót, làm sao cho Tiểu Ngọc khuyên kỳ được Tạ Hy đồng ý cho Vũ Lý dùng tiền đổi người mới được thôi. Vậy nên, bọn họ liền tìm cách khơi chuyện để Tiểu Ngọc nói ra nỗi lòng, lại thường chú ý quan sát nàng ta từng ly từng tý một. Nhờ vậy mà hai người nhận ra Tiểu Ngọc đã ở bên cạnh Tạ Hy đã mấy năm. Tạ Hy làm đầu mục ở Tư Môn, chức vụ không cao lắm nên thuộc hạ dưới tay cũng chẳng có bao nhiêu. Mỗi khi địa bàn của bang hội có tranh chấp, y đều phải đích thân ra trận. Vậy nên cứ cách mấy ngày, Tiểu Ngọc lại thấy hắn cả người đầy máu lảo đảo đi về. Chứng kiến cảnh ấy, nàng không lúc nào thôi lo lắng sầu muộn. Nắm được điểm này rồi, hằng ngày hai người thị nữ thường tỉ tê với Tiểu Ngọc, khiến nàng nghĩ rằng nếu Tạ Hy thành thật giao nộp Vũ Xung Trực cho người trên thì cũng chẳng được lợi lộc gì quá lớn. Ngược lại, hắn còn có thể bị y cướp trắng công lao. Mà cho dù không bị cướp công thì cũng càng ngày càng lún sâu vào giang hồ hiểm ác, không sao thoát ra được. Không bằng nhân cơ hội này, dùng Vũ Xung Trực đổi lấy một món tiền lớn bằng cả gia tài, sau đó dùng số tiền ấy làm vốn để bỏ trốn khỏi nơi đây. Như vậy hai người có thể cùng nhau mai danh ẩn tích, thoát khỏi giang hồ, sống đời bình đạm ấm êm. Hai người thị nữ ra sức dùng lời ngon tiếng ngọt, tô điểm cho cuộc sống yên ổn của hai người sau khi bát vàng rửa tay, làm Tiểu Ngọc càng thêm dao động.
Sau đó, không biết Tiểu Ngọc đã nói những gì mà Tạ Hy chịu nghe lời nàng. Âm thầm đồng ý cho Vũ Lý dùng tiền chuộc cha song đưa ra một con số khiến ai cũng phải lắc đầu lè lưỡi. Tạ Hy làm vậy trước hết vì trong bụng y vẫn còn nuôi chí giang hồ. Y ra con số lớn như vậy cốt để làm khó Vũ Lý, nếu hắn không lo được số tiền ấy, y vừa có thể tiếp tục giữ Vũ Xung Trực lại, vừa có thể ăn nói với Tiểu Ngọc. Tiếp đó là vì Tạ An muốn dùng số tiền ấy như vật phòng thân. Số bạc hắn yêu cầu Vũ Lý đưa, chỉ cần hắn và Tiểu Ngọc không tiêu pha đến lở núi Thái Sơn như Thạch Sùng thuở trước, thì nuôi đến đời thứ ba nhà họ cũng còn dư. Có số tiền lớn như vậy, dù đi đến đâu cũng có thể làm ăn sinh sống. Nếu chẳng may hai người bị bang Hạ Hồng bắt được, hắn cũng có thể dùng số tiền đó làm cái cớ thương thảo với những kẻ cầm đầu. Vũ Lý nhận được con số của Tạ Hy cũng không khó nghĩ cho lắm. Hắn vốn đã nghĩ ra cả ngàn cách làm giả bạc trong thời gian ngắn, chẳng ngờ đêm hôm đó Quan Đàm dẫn hắn tới lầu Lệ Xuân, đưa hắn xuống mật thất, cho hắn xem một chục chiếc rương hai người ngồi trong còn chật, bên trong chứa đầy vàng miếng. Từng thỏi một được bọc trong lụa đỏ, cách một lớp lụa lại xếp một lớp vàng, chẳng biết bao nhiêu mà kể. Vũ Lý không ngờ chốn thanh lâu đìu hiu heo hút này lại trữ nhiều tiền như vậy. Hắn im lặng một thoáng rồi nói với Quan Đàm.
"Ai bảo ông đến giúp tôi?"
Vũ Lý biết số vàng này không phải của Quan Đàm. Tuổi tác của ông đã cao, nếu có từng này vàng thì đã lui về ở ẩn cho qua ngày đoạn tháng, sao còn phải làm việc chém mướn đâm thuê cho thanh lâu, càng chẳng cần phải liều mình giúp hắn chui vào hang cọp. Số bạc đặt cọc lần trước Vũ Lý đưa cho Quan Đàm không phải là ít, song so với số tiền trữ ở đây thì chẳng khác nào cái lông măng trên mình con lạc đà. Vừa nhìn thấy số vàng này, Vũ Lý đã đoán ra chỗ này dựng lầu xanh lên chẳng qua chỉ để loè thiên hạ. Thứ mà những kẻ ở đây thực sự buôn bán còn nhiều hơn xác thịt gấp ngàn lần. Nếu bán thân mà kiếm được từng này vàng thì dù có là tiên nữ sắc vóc tuyệt trần cũng phải bán mấy trăm năm mới tích được. Quan Đàm thấy Vũ Lý đã nhìn ra vài chuyện song điều mấu chốt nhất hắn lại không hề hay biết thì không đoán được ý tứ bên trên về việc nói rõ mọi sự với hắn như thế nào. Nếu họ muốn hắn biết thì nói trực tiếp với hắn từ đầu là được, còn giấu Vũ Lý làm gì? Không thể đoán ra nổi, Quan Đàm chỉ bảo.
"Chừng nào việc này xong rồi, cậu tự khắc sẽ biết. Bây giờ, việc cứu ông lớn ra mới là việc trọng, cậu đừng nên câu nệ những chuyện này. Dẫu sao thì người nhà tôi cậu cũng đang giữ, chúng tôi còn dám làm càn được ư?"
Vũ Lý không hỏi thêm việc ấy nữa, chỉ bảo.
"Sao phải dùng tiền tươi thóc thật làm gì? Dùng một số bạc giả không phải đỡ rủi ro hơn ư?"
Quan Đàm cười nhạt, nói.
"Chỗ chúng tôi đến đứa trẻ con mặc quần thủng đáy cũng biết đúc bạc giả. Nếu không làm kỹ lưỡng thì không qua mắt được ai cả. Bây giờ thời gian không có nhiều, số bạc làm vội làm vàng ắt nhiều sơ hở. Bọn chúng sẽ không bị ta lừa đâu."
Hẳn kẻ bảo Quan Đàm đến trợ lực hiểu rất rõ việc này. Vũ Lý thầm nghĩ. Hắn cau mày cố nhớ lại xem đã từng tiếp xúc với những ai kinh lịch giang hồ hay chưa song nhớ mãi chẳng ra ai, đành phải gác lại một bên. Hôm sau, bọn họ đưa số vàng ấy đến điểm hẹn trước. Bên này giao người, bên kia giao vàng, tất cả làm cùng một lúc, tránh để cảnh có kẻ muốn nuốt cả chì lẫn chài. Vũ Xung Trực vừa được trao trả, người nhà họ Vũ đã lập tức bước lên cắt đứt dây trói cho ông. Vũ Lý quỳ xuống nền tuyết, kính cẩn cúi đầu lạy chào cha. Vũ Xung Trực gật đầu cho hắn đứng dậy rồi để hắn đỡ vào kiệu gỗ. Người hầu đã chuẩn bị sẵn thủ lô và chăn ấm trong xe. Vũ Lý kề cận cha, hầu hạ hết mực kính cẩn. Vũ Xung Trực uống một chén trà gừng, nhắm mắt nghỉ một lúc thì hồi sức, liền hỏi Vũ Lý chuyện những ngày qua. Vũ Lý mang những chuyện đã xảy ra kể lại một lượt, không thiếu điều gì. Vũ Xung Trực nghe xong, trông vẻ mặt khó hiểu của hắn khi nhắc tới chuyện của Quan Đàm, liền mỉm cười cầm tay hắn mà bảo.
"Tìm mãi chân trời, gần ngay trước mắt. Ta đã dạy con nhiều lần, con nghĩ xa xôi quá."
Bấy giờ, Vũ Lý mới nhận ra mấy ngày qua mình vẫn luôn đeo chiếc nhẫn Thanh Đường đưa cho ở ngón áp út bàn tay trái. Những ngón tay của Vũ Xung Trực nhẹ nhàng chạm vào từng nếp khắc gồ ghề khúc khuỷu nơi bề mặt lớp bạc lạnh băng, thở dài nói.
"Nhà mẹ con có nuôi gia khách rất lợi hại. Thứ này là "chỉ lệnh" của bọn họ. Ai có nó thì dù đi đến đâu cũng sẽ được những người đầu về nhà họ Cung làm gia khách giúp rập. Nếu ta đoán không lầm thì Quan Đàm hẳn vì thấy thứ này nên mới ngỏ ý giúp con. Khi đã kết thành đồng minh, ông ta cũng dự rằng sẽ phải chi ra một khoản lớn nên gửi tin về cho đầu não. Số vàng mà hôm nay con dùng hẳn là mới được đưa tới cách đây không lâu đâu." - Nói đoạn, Vũ Xung Trực chợt nhớ tới một việc, liền hỏi. - "Nhưng ai đưa cho con "chỉ lệnh" thế? Ta nhớ khi còn ở nhà họ Cung, mẹ con đâu có can dự vào chuyện này."
Vũ Lý thở dài, nói.
"Là con gái thứ của cậu Quang ạ. Lần này cô ấy bỏ ra nhiều vốn như vậy, con sẽ cắt đặt trả lại cho cô ấy."
Vũ Xung Trực nói.
"Không cần đâu, tiền của bọn họ không dễ nuốt như thế. Người tham thì dễ mắc nghẹn. Con đoán xem vì sao không thấy Quan Đàm đi cùng chúng ta?"
Vài bông tuyết theo gió lùa đọng nơi viền cửa, nhanh chóng bị rũa tan thành nước. Vũ Lý vô thức siết chặt nắm tay, thoáng lạnh mình.
Vũ Lý muốn theo cha về Hồ Dương song Vũ Xung Trực cho rằng hắn còn nhỏ, chưa đảm đương nổi việc gì, liền bảo gia nhân đưa hắn trở lại nhà họ Trần. Bấy giờ, bọn chị em đương ở chỗ Tử La chơi đấu hồ, nghe tin Vũ Lý đã về đến nơi thì ai nấy đều mừng rỡ. Dao Chương nghe tin ấy cũng mừng, liếc thấy Thanh Đường cố giấu nhưng ý vui vẻ vẫn tràn ra khoé mắt, nàng chợt nổi hứng, kéo vạt áo Kim Khánh, cố ý bảo.
“Chị xem lòng thành của cô Thanh đã thấu đến đến tận trời rồi. Không nhờ cô ấy, chúng ta đâu đã được nghe tin mừng này.”
Dao Chương chỉ định đùa một câu, nhưng Kim Khánh nghe xong thì trong bụng đâm ngờ. Thanh Đường như mèo bị giẫm phải đuôi, lập tức dựng lên, đuổi theo Dao Chương, nói.
“Con này điên rồi. Mày nói bậy gì thế?”
Dao Chương lanh lẹ nép sau bình phong, cười bảo.
“Ái chà, càng ngày cô càng chẳng kể gì đến đúng sai nữa. Tôi còn chưa tra xét cô, vậy mà cô đã nóng lòng muốn hỏi tội tôi rồi ư?”
Thanh Đường nghe vậy vừa tức vừa buồn cười, nàng uyển chuyển tiến đến gần Dao Chương, như chuột vờn mèo mà hỏi.
“Con này hay thực, ta có việc gì mà mày tra với xét.”
Bước chân Thanh Đường chuyển, Dao Chương cũng xoay mình theo ngay, hai người cứ đối mắt mà nói chuyện với nhau.
“Thôi, cô tiểu thư ngàn vàng của tôi ơi, những ngày qua cô đã làm cho Phật Tổ bận rộn thêm biết bao nhiêu việc, đến nay lại còn muốn giấu tôi ư? Phật Tổ không thể kêu được nên tôi phải đến hỏi cô đây.”
Thanh Đường nheo nheo con mắt, nghĩ một thoáng ra ngay, trong lòng bực lắm nhưng không biết trút vào đâu. Nàng ta im lặng một lúc rồi làm bộ như vỡ ra mọi chuyện, mặt mày tươi tỉnh, nói.
“Những chuyện tôi cầu khấn với Phật Tổ đâu có nói cho ai? Chị đã biết được, hẳn có người nào mách nước cho chị đây.” – Nói đoạn, nàng ta vẫy Thuý Hoàn lại gần, ngọt ngào bảo. – “Chị Hoàn, hãy lại đây.”
Thuý Hoàn thầm nghĩ việc không xong, vội đưa mắt cho Dao Chương. Dao Chương hiểu ý, liền ôm lấy Thanh Đường, kéo nàng ta ra bàn rồi ấn ngồi xuống ghế, cười bảo.
“Chị Hoàn chẳng có lỗi gì, việc gì cô lại muốn dằn vặt chị ấy? Tâm sự của cô, người ngoài thì không nói, nhưng giữa chị em chúng ta chẳng lẽ còn phải e dè? Huống hồ, chỗ chúng ta đâu như con gái nhà khác.”
Thanh Đường cười nhạt mấy tiếng, khéo gỡ cái chuông bạc bên hông ra quấn quanh ngón tay mà nghịch, bảo.
“Tôi có ý ấy đã lâu. Chị thì tôi chẳng ngại gì, chẳng qua đâu phải ai cũng như ai. Cổ nhân có câu “dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”, thành thử tôi cũng đâm ra sợ hãi.”
Kim Khánh nghe câu ấy, biết là Thanh Đường đương nói xa xôi hòng đay nghiến mình. Song, nàng ta nghĩ trước giờ Thanh Đường vốn ưa thói châm chọc cay nghiệt, không chịu nhường nhịn ai bao giờ, mỗi khi giận dữ thì ngay cả Lý Ban cũng không để vào mắt, chi bằng nhịn một chút để tránh làm lớn chuyện, như vậy mọi người đều được nhẹ nhõm. Nghĩ vậy, Kim Khánh cắn môi, vờ như không nghe thấy rồi quay sang cười nói như thường với Tử La. Thanh Đường không có cớ để nói tiếp, đành hậm hực một mình. Dao Chương vốn chỉ định trêu nàng ta mấy câu cho vui, chẳng ngờ lại làm lửa cháy lan đến Kim Khánh, trong lòng rất áy náy. Kim Khánh để ý thấy sắc mặt Dao Chương có vẻ khó xử, liền nói một việc khác để xí xoá câu chuyện.
“Nói gì thì nói, cậu Thanh ở lại đây thực là một việc vui. Vừa hay ngày hăm chín tới đây là sinh nhật cậu ấy, chẳng bằng chúng ta góp tiền, sửa một tiệc nhỏ, vừa là để mừng việc này, vừa là để mừng sinh nhật cậu Thanh. Như vậy chẳng phải là một công đôi việc ư?”
Dao Chương biết Kim Khánh có ý gỡ rối cho mình, trong bụng rất cảm động, liền tiếp lời ngay.
“Ý này rất hay. Mấy ngày trước, cụ vừa nói với tôi mấy năm nay con cháu bận rộn, không có lúc nào được quây quần vui vẻ. Nay chúng ta nhân dịp này, không làm theo lệ cũ nữa, để họ hàng trên dưới được một ngày sum vầy thân mật với nhau. Ăn xong một bữa cơm, người lớn thì nói việc của người lớn, chúng ta thì vui việc của chúng ta. Như vậy càng thú. Việc đúng với ý cụ như vậy, ắt thế nào cụ cũng chuẩn y cho.”
Thanh Đường, Tử La vốn ham vui, nghe hai người bàn bạc với nhau như vậy cũng thích. Phi Ly tuy không ưa những chỗ ồn ào nhưng vì thích chơi đùa với chị em nên cũng lấy làm thú lắm. Thanh Đường mau giận cũng mau quên, thoáng chốc quăng chuyện ban nãy với Kim Khánh ra sau đầu, hăm hở nói.
“Việc làm tiệc cho anh Thanh là ý của chúng ta, theo tôi, chúng ta tự góp tiền thôi, đừng hỏi đến các trưởng bối trong nhà. Họ theo thì thôi, nhỡ không theo lại trách chúng ta vẽ việc. Ta cứ đến trước cụ trình như vậy, nếu cụ vui lòng, thế nào cũng cho thêm và bảo mọi người góp cùng, không lo thiệt đâu. Lời cụ bảo xuống, người trong nhà có góp tiền cũng không oán trách. Ai mà không muốn làm cụ vui lòng?”
Kim Khánh thấy chị em đều đồng lòng thì rất cao hứng, bảo Thuỷ Nguyệt mài mực, đem giấy bút lại để ghi việc thu chi rồi cười nói.
“Cô Thanh thường quản việc này, ắt thạo hơn chúng tôi. Việc này phải nhờ đến cô tính mới xong.”
Thanh Đường cười nói.
“Tôi chỉ biết chuyện tiền nong thôi. Những chuyện sắp xếp trên dưới thế nào, phân công cắt cử các việc cho người hầu, thu xếp dọn dẹp ra làm sao đừng hỏi đến tôi. Tôi mà làm, thế nào cũng quát tháo người ta. Rồi họ lại oán tôi là con quỷ dạ xoa, là sao thái tuế.”
Kim Khánh nhúng đầu bút lông vào nghiên mực, cười nói.
“Cô tính nóng nảy, trách gì bọn họ chẳng oán thán. Nhưng như chúng tôi nhu nhược thì bọn họ lại tuỳ tiện. Nhưng chuyện ấy nếu không có người lo thì họ lại tranh nhau việc nhẹ, đùn đẩy việc nặng, nhốn nháo nhu nhơ. Thôi vậy, những việc ấy tôi và cô Chương đành cắn răng xin nhận. Nhưng như cô tính thì tiệc này mỗi người chúng ta bỏ ra bao nhiêu thì đủ?”
Thanh Đường nói.
“Cái ấy phải bàn đến chuyện các cô dự tính làm tiệc vui cho bao nhiêu người mới được. Nếu chỉ là chị em chúng ta vui với nhau thì chỉ cần hai, ba mươi lạng bạc là no xôi chán chè. Nhưng nếu tính cả các bậc trưởng bối trong các nhà nữa thì không có hai trăm lạng việc này không thể hòm hòm được đâu.”
Dao Chương chớp mắt mấy lần, nói.
“Ái chà, cần chi những thứ gì mà nhiều thế?”
Thanh Đường nói tường tận.
“Trước tiên là tiền sắp sửa các thức ăn uống trong hai ngày thật lịch sự theo lệ cũ. Làm tiệc mời các trưởng bối thì trên mâm ít nhất cũng cần bốn món đồ nguội là nem công, chả phượng, gân nai, thịt đông để nhắm rượu. Tiếp đó là bốn món xào nóng là thịt cừu chiên, gà rang chảo, rau ngải xào thịt, rau thập cẩm chua ngọt. Sau ấy là bốn món hấp hay canh, cốt có nước ăn để ấm bụng là canh sườn nấm đông cô, súp tổ yến, canh cá chua ngọt, súp măng. Chưa hết, sau đấy mới là các món chính. Các món chính này phải thực hay mới được. Tôi đang tính để họ làm món bao tử cay, thịt thỏ rừng và vi cá đuôi phượng. Nguyên liệu đều là những thứ trong nhà ta có thể kiếm được, sẽ bớt được phần nào. Cuối cùng mới đến các món ngọt, món tráng miệng là bánh nếp hấp, cơm sen, bánh sơn trà, bánh nướng nhân táo. Các món này tính sơ cũng phải tốn hơn một trăm lạng. Ngoài ra, còn tiền mời ban hát và phường âm nhạc bên ngoài về, nhà ta từ già trẻ lớn bé, ai cũng đều thích nghe hát cả. Tính ra, đám hát tôi định mời cũng là người của nhà ta, không tốn kém mấy, nhưng bạc quy ra tiền xu để ném lên sân khấu thưởng cho bọn họ thì vẫn phải có. Chưa kể đến tiền mua đồ thưởng riêng cho con hát hát hay, khéo pha trò. Số này ít nhất cũng phải hai mươi lạng bạc. Thế là tính rẻ ra cũng đã đi đứt một trăm hai mươi lạng. Nhà chúng ta đã có lệ năm nào đến sinh nhật ai cũng trích ra một khoản để cúng dường cho nhà chùa để cầu phúc cho người đó, số này đã có lệ trước nay là hai mươi lạng. Nhà khác thì thôi, còn nhà ta thì từ các cụ trở xuống, phần nhiều đều thích đề thơ ngâm vịnh. Sinh nhật người nào năm nào cũng có thơ, nếu không thì cũng là đố đèn lồng, chơi tửu lệnh. Tôi thấy đầu năm ta vừa chơi đố đèn, bây giờ lại chơi nữa sợ cụ chán chăng? Tửu lệnh thì lúc ăn tiệc uống rượu ắt là phải chơi rồi, chơi trong hai ngày, thế nào cũng nhàm. Những trò như đầu hồ, đổ xăm hường thì cụ lại không chơi được. Như vậy chỉ có mấy trò thả thơ, đố thơ là hay hơn cả. Đã chơi trò ấy thì ắt phải bày biện cảnh cho có thi hứng. Số còn lại dành để mua lễ mừng cho anh Thiên Thanh và để thưởng cho những người mang lễ mừng đến cũng là vừa hết. Đó là còn tùng tiệm mới có con số hai trăm lạng. Những đồ âm nhạc, đồ hát tuồng, bát đĩa sứ, các đồ trần thiết đều không mua mới, chỉ bên chị em ta có gì thì mang thứ đó ra bày thôi. Chứ nếu làm kỹ ra thì làm sao mà đủ được.”
Thanh Đường nói đến đâu, Kim Khánh đặt bút viết đến đấy. Phi Ly, Tử La đều nghiêng đầu trông vào nét chữ trên trang giấy. Dao Chương nói.
“Như vậy, việc tính toán giá cả xem như đã xong, giờ phải bàn xem ta làm thế nào để có món tiền ấy rồi mới tính đến chuyện xếp đặt công việc.”
Thanh Đường vốn định nói mọi người góp được bao nhiêu hay bấy nhiêu, còn thiếu chừng nào cô ta sẽ bỏ tiền riêng ra bù vào chừng ấy song lại sợ mọi người trêu chọc nên chỉ bảo.
“Như tôi đã nói trước, chúng ta cứ góp tiền trước, sau ấy đem việc này sang trình cụ. Miễn là việc này khiến cụ vui lòng, cụ ắt sẽ bỏ thêm cho chúng ta làm, lại bảo mọi người trong nhà góp thêm, không sợ thiếu đâu. Như sinh nhật chị Du năm ngoái, người đã bỏ trước những một trăm lạng, cộng dồn với số mọi người góp thì làm tiệc vui hai ngày còn tiêu không hết. Sau ấy, người lại bảo đem số ấy mua thêm các thứ đồ chơi cho chị ấy. Tôi nhớ còn dôi ra đến ba, bốn mươi lạng gì đấy. Nếu có người nào có chỗ khó, tôi sẽ liệu đường trả lại món tiền ấy cho họ. Chút bạc ấy tôi lại không bỏ ra bù cho họ được ư?”
Mọi người nghe vậy đều cho là phải. Kim Khánh gật đầu, nói.
“Vậy thì việc ấy coi như đã xong, không cần lo đến nữa. Chuyện làm danh sách, điểm số người là việc của tôi và cô Chương. Theo ý tôi nghĩ, ít cũng phải dùng đến chín mươi người. Mười người chuyên lo việc trà rượu từ trên xuống dưới. Hai mươi người lo việc dâng đồ ăn thức uống cho các mâm. Năm người ở phòng trà, coi giữ những đồ ấm, chén, bát, đĩa, bàn, ghế, nệm, chiếu. Mười người lo việc trông coi phường hát, sắp đặt các tiết mục, phục dịch trà nước quà bánh, dựng sân khấu cho nghệ nhân, chuẩn bị tiền xu, đồ chơi nhỏ để thưởng, hễ hết là đem lên. Mười người nữa chuyên giữ việc nhận lễ mừng, phát tiền thưởng cho người đưa đồ mừng đến, ghi lại tên tuổi những người gửi lễ mừng để sau này họ có dịp gì, chúng ta đến mừng lại cũng vừa vặn.”
Bọn họ bàn bạc xong xuôi liền lo liệu sắp xếp ngay. Đến khi đã dặn dò trên dưới xong xuôi thì trời cũng chập choạng tối mờ. Thanh Đường chạy đi chạy lại mấy ngày liền, xương cốt trong người rã rượi mỏi nhừ. Vừa về đến gác Phượng Cầu, cô ta đã đá giày rồi lên giường ngủ biến. Thuý Hoàn ngồi bên bàn vừa quạt lồng ấp vừa là các thứ áo mùa rét. Chợt thấy Lâm Xuân dẫn Vũ Lý vào, chị ta liền nhoẻn cười, khẽ nói.
"Hôm nay cậu Thanh tới chỗ chúng tôi, thực là rồng đến nhà tôm."
Vũ Lý cười xoà, nói.
"Chị đừng nói thế, tôi lấy làm xấu hổ. Cô nhà chị đâu rồi?"
Thuý Hoàn nói.
“Cô ấy đương ngủ trong kia, chắc là không dậy ngay được đâu. Cậu đi chơi chỗ khác rồi chốc nữa quay lại đây là vừa đấy.”
Vũ Lý cười bảo.
“Cô bé này lười quá, đến bây giờ mà vẫn còn ngủ à?”
Nói rồi liền nhẹ nhàng bước đến gần giường, vén màn trông vào. Ánh sắng hắt qua màn khiến Thanh Đường bị chói mà chau mày tỉnh lại. Nàng nửa tỉnh nửa mê, nhìn một lúc mới trông rõ Vũ Lý đương ở gần mình. Nàng ta không trở dậy mà nằm trên giường, ngoắc ngoắc ngón tay, bảo.
“Lại đây tôi xem nào.”
Động tác ấy hơi có vẻ xấc xược, song Vũ Lý thấy sắc mặt nàng ta hơi nhợt nhạt nên cũng không để ý đến. Thuý Hoàn kê một chiếc đôn bọc nhung cho hắn ngồi cạnh giường. Thanh Đường vươn tay định chạm vào mặt hắn, song đến bên mành rủ lại do dự rồi thôi. Nàng chỉ lặng lẽ nhìn hắn rồi khẽ nói.
“Ăn uống chẳng ra làm sao, gầy võ đi rồi.”
Câu nói này làm Vũ Lý ngây ngẩn. Hắn im lặng một thoáng rồi cười, bảo.
“Làm gì có, người tôi thế này hùm ăn cũng không hết thịt. Em đừng nghĩ nhiều.”
Vũ Lý đỡ Thanh Đường ngồi dậy, nhẹ nhàng vòng ra sau vấn tóc cho nàng. Bàn tay hắn lúc cài lúc tết, hết sức xảo diệu. Xong xuôi, hắn lấy trong ngực áo một chiếc thoa, nhẹ nhàng cài lên búi tóc nàng. Song, tóc Thanh Đường dày quá, một chiếc thoa không đỡ nổi, vừa cử động một chút đã hơi rũ xuống. Vũ Lý liền rút cây trâm trên tóc mình xuống, quấn lại cài thêm cho thực chặt. Ngắm nghía một hồi, cẩn thận chỉnh vẻ rủ của từng lọn tóc mai, cuối cùng hắn cũng tạm vừa lòng, liền xuống giường mang gương tới cho nàng soi. Thanh Đường ngắm mãi, cười nói.
“Nhị lang khéo quá, chắc là đã vấn tóc cho chẳng ít giai nhân.”
Vũ Lý cười bảo.
“Tôi làm gì có diễm phúc ấy.”
Thanh Đường hỏi.
“Tôi chải tóc thế này có đẹp không?”
Vũ Lý gật đầu.
“Đẹp lắm.”
“Vậy cùng để thế này thì tôi đẹp hơn hay người ta đẹp hơn?”
“Em đẹp hơn.”
Vừa nói xong, Vũ Lý chợt nhận ra mình nói hớ. Nhưng lần này Thanh Đường không giận, chỉ cau mày rồi cười rộ lên.
*
Bình luận
Chưa có bình luận