Mưỡu:
"Đeo đẳng giang hồ rượu nách lưng
Trong tay ôm nhẹ gái thân ong
Mười năm tỉnh giấc Dương Châu lại
Còn giữa lầu xanh tiếng phụ lòng."
Nói:
Bấy giờ là một ngày cuối năm, khắp đầu thôn cuối xóm, ai nấy đều đương rậm rịch quét dọn vườn tược cửa nhà, sắm sửa những thức đồ làm bánh trái, những vàng mã hoa hương, những câu đối đỏ, quần áo mới chuẩn bị cho dịp giao thừa đã cận kề. Tĩnh Tử vắt chiếc khăn ngả màu lên vai, nhìn vài bóng người khoác áo tơi liêu xiêu đi trong tuyết, định bụng hôm nay sẽ đóng cửa sớm một chút. Anh cất tiếng gọi con vào nhà, gọi mấy tiếng đứa trẻ mới miễn cưỡng phủi tay, bỏ lại ụ tuyết đã đắp lên thành hình người mà đi về phía cha. Trông gò má nó hồng lên vì lạnh, anh cau mày, phát vào mông nó mấy cái rồi khẽ mắng nó tội nghịch dại. Cũng may quần áo mùa đông rất dày, có đánh cũng không đau. Đứa trẻ bĩu môi với cha rồi chạy vụt vào nhà, nũng nịu với mẹ một phen. Vợ Tĩnh Tử biết anh muốn nghỉ sớm, trong bụng không vui, liền vờ nói chuyện với đứa con mà chỉ chó mắng mèo, nói anh ham ăn lười làm một phen. Tĩnh Tử nghe rõ mồn một những lời ấy, anh toan ngoảnh đầu vào quán quát lên nhưng một bóng người mặc áo da cáo đỏ tươi chợt xộc vào làm anh sực nhớ bấy giờ năm mới đã cận kề. Gây gổ với nhau lúc này chẳng lấy gì làm hay, rồi lại phải dông cả năm. Nghĩ vậy, anh nín nhịn, thu nhặt nỗi muộn sầu bực bội trong mình, mỉm cười định chào hỏi người khách vừa bước vào. Người khách đặt bạc lên bàn, ngồi xuống ghế, bảo ngay.
"Hãy dọn cơm rượu lên đây cho ta dùng."
Tĩnh Tử như không nghe thấy, chỉ ngây người trông ông khách lạ. Vợ anh chờ mãi không thấy anh vào liền sốt ruột chạy ra, dúi vào ngực anh một cái rồi áy náy mỉm cười xin lỗi thực khách. Song, chị ta chưa kịp hỏi khách dùng gì, Tĩnh Tử đã lên tiếng.
"Xin hỏi khí không phải, ông có phải ông Lang, người ở huyện Yên Mô đó không?"
Nỗi kinh ngạc hiển hiện trên gương mặt người thực khách. Ông ta cẩn thận gỡ chiếc kính xuống chùi sạch rồi đeo lên con mắt kèm nhèm, cẩn thận nhìn Tĩnh Tử một lúc lâu rồi hỏi.
"Chính tôi đây, cho hỏi anh là..."
Tĩnh Tử cười nói.
"Chẳng hay tiên sinh còn nhớ cụ Lâm Quốc Sỹ, người cùng quê với tiên sinh đó chăng?"
Thứ Lang nghe vậy thì giật mình, càng nhìn Tĩnh Tử lại càng thấy quen. Hồi lâu, ông sực nhớ ra một việc, liền nói.
"Chú có phải là con cả của cụ Lâm, là anh Như đấy phải không?"
Tĩnh Tử rơm rớm nước mắt, xúc động nói.
"Thưa tiên sinh, chính là tôi đây. Từ ngày chúng ta xa nhau, thấm thoắt đã mấy chục năm, cha tôi không nhận được tin tức nào của tiên sinh cả. Mấy ngày trước có vài vị khách đến đây ăn uống, nói chuyện loạn lạc ở kinh thành, tôi nhớ tiên sinh và thân gia quyến thuộc đều còn ở đó, trong bụng rất lo. Nào ngờ hôm nay lại được gặp tiên sinh như thế này. Thế mới thấy tôi đóng cửa muộn mấy ngày cũng đáng. Xin mời tiên sinh ở đây tối nay rồi ta cùng nói chuyện."
Nói đoạn, Tĩnh Tử bảo vợ đóng cửa quán sớm rồi thái thịt, hâm rượu nóng mang lên. Hai người lâu ngày không gặp, hàn huyên tâm sự mãi chẳng hết lời. Khi rượu đã ngà ngà, Tĩnh Tử mới hỏi.
"Mấy năm nay tiên sinh đã an cư lạc nghiệp ở kinh thành, bây giờ bỗng nhiên phải rời đi tất là khó lắm. Tiên sinh đã nghĩ đến chuyện sinh nhai sau này chưa?"
Thứ Lang thở dài, nói.
"Tôi là phận tôi đòi, chủ đi đâu thì tôi đi nấy, có gì mà phải nghĩ."
Tĩnh Tử nói.
"Hoá ra lần này tiên sinh theo nhà chủ về lánh nạn qua đây. Thảo nào ban chiều thằng cu nhà tôi cứ bảo nó nhìn thấy một đoàn người đông đúc với nhiều ngựa xe sang trọng lắm, dễ kéo dài hết cả con đường. Nhà tôi ngạc nhiên chẳng biết là vị tôn quý nào đến chỗ thảo dã này, chẳng ngờ lại là nhà chủ của tiên sinh."
Thứ Lang cười.
"Ấy là trước khi đi, chủ tôi còn bán bớt bao nhiêu đồ đạc và cho đến cả trăm người hầu về rồi đó. Nếu không bán đi mà mang hết cả người lẫn của về thì còn phải thuê thêm mấy chục cỗ xe nữa may ra mới đủ."
Tĩnh Tử kinh ngạc nói.
"Nếu thực như vậy thì gia sản của nhà ấy chẳng biết bao nhiêu mà kể. Làm quan trong triều lương bổng nhiều đến vậy ư?"
Thứ Lang xua tay, nói khẽ.
"Làm gì có chuyện đấy, có làm đến bậc nhất phẩm thì cũng chỉ được hai trăm lạng bạc trắng một năm thôi. Người nào cần kiệm lắm thì cũng phải tiết kiệm mấy năm mới mua được một căn nhà rộng rãi trong kinh. Số bạc ấy sau khi trừ hao đi những chuyện đi lại lễ tết thì cũng chỉ đủ nuôi miệng mà thôi. Nhưng nhà chủ tôi là họ lớn, dòng dõi lâu đời, không thể so với những nhà quan bình thường được. Ngoại trừ bổng lộc hàng năm ra còn đồ thưởng của các vị tôn quý trong cung, đồ mừng của các nhà khác vào những dịp lễ lạt, chưa kể đến tiền của cha ông tích cóp nhiều năm để lại, tiền con cháu làm ăn buôn bán bên ngoài, tính đếm ra thì chẳng biết bao giờ mới hết. Nói thật với anh, chỗ đồ đạc họ mang đi mà anh trông thấy chỉ là cái móng tay của nhà họ. Họ làm những gì mà có chừng ấy đút túi, chỉ có trời mới biết được."
Tĩnh Tử cười nói.
"Tiên sinh cứ đùa tôi, nếu họ làm gì sai quấy, chẳng lẽ các vị quan khác lại không biết mà tố giác lên Kim thượng để trừng trị họ ư? Sao có lẽ người để họ làm càn như vậy được."
Thứ Lang lắc đầu, cười nhạt bảo.
"Này chú em ơi, tôi hãy nói đầu đuôi cho chú em nghe. Việc này muốn nói, phải kể lại từ mấy trăm năm trước kia. Thuở Thái Thuỷ đế mới dựng cờ khởi nghĩa, nam chinh bắc chiến, dẹp tan loạn lạc, tướng tài dưới trướng ngài có rất nhiều nhưng dũng mãnh nhất phải nhắc tới bốn vị: Tích Lịch tướng quân Trần Kỳ Châu, Trì Uy tướng quân Lý Lục Trầm, Chấn Nguỵ tướng quân Cung Viêm Úc, An Đông tướng quân Vũ Chung Tuệ. Bốn vị ấy kết làm anh em, thân như ruột thịt, thề sống chết có nhau, một lòng phụng sự chủ tướng, không quản ngại gian nan. Thái Thuỷ đế được thiên hạ về tay âu cũng nhờ có họ hết lòng phò tá vậy. Trong số bốn viên tướng ấy, Tích Lịch tướng quân lại có một câu chuyện lạ nữa. Người này dùng thương rất giỏi, tài bắn cung có thể sánh ngang với Hậu Nghệ trước kia. Khi giáp mặt với quân địch lại khéo quyền biến, dũng hãn hơn người. Trong suốt mấy mươi năm lăn lộn sa trường, Tích Lịch tướng quân đã lập không biết bao nhiêu công lao lớn nhỏ. Khi thiên hạ về tay, nhiều kẻ đố kỵ gièm pha, Thái Thuỷ đế mới biết Trần Kỳ Châu là con gái. Năm đó, lệnh trên ban xuống chiêu mộ binh lính, nhà nào có con trai đều phải xung quân. Nhưng anh trai của Trần Kỳ Châu là Trần Trọng Yêm chẳng may mắc phải chứng lao, không thể tòng quân, thành ra việc ấy rơi lên đầu người cha già yếu. Trần Kỳ Châu thấy vậy liền giả trai, lấy danh của anh, thay cha tòng quân. Thuở ấy có lệ, con gái không được can dự vào việc quân binh. Tích Lịch tướng quân làm vậy tuy về tình không có gì sai nhưng về lý là phạm vào tội dối vua, khó thoát khỏi tội chết. Thế nhưng, phần vì ba vị tướng quân còn lại hết sức lựa lời xin giúp, phần vì đức vua là người rất sáng suốt, trọng thị hiền tài nên người vẫn coi Trần Kỳ Châu là khai quốc công thần và ban cho tước Dương hầu cùng bổng lộc rất hậu. Sau khi gọi vào triều, thấy nàng đối đáp trôi chảy, xứng là bậc văn võ toàn tài, đức vua thấy những người con gái nhà họ Trầnđều là bậc anh thư, nếu cứ bó buộc họ trong phòng khuê rồi cả đời làm những việc cắt khâu may vá, hầu chồng dạy con thì uổng cái tài mẫn tiệp, chẳng khác nào đem lụa quý vứt vào kho để mục, phí phạm biết chừng nào. Vậy nên, người liền ban chỉ xuống, cho con gái nhà họ Trần được đi học, thi cử, xung quân, mọi việc đều nhất nhất như con trai trong thiên hạ." - Nói đến đây, Thứ Lang dừng lại uống một hớp rượu. - "Nhờ ân huệ đó của Thái Thuỷ đế mà người nhà họ Trần đời này qua đời khác bao giờ cũng có người làm nên cơ nghiệp. Nếu không phải vào triều làm quan văn quan võ thì cũng được tuyển vào hậu cung làm phi tần, làm nữ quan, a bảo. Thế nên khắp nơi, không đâu là bọn họ không vươn tay đến được, chẳng chỗ nào không có người của họ, thế lực lớn khỏi phải nói. Như thế thì tôi hỏi chú, còn ai dám hó hé vào đâu nữa. Nhỡ miệng nói bừa một câu thì không những cái mũ quan chẳng giữ được mà cái đầu cũng mất như chơi."
Tĩnh Tử lấy làm lạ, thắc mắc hỏi.
"Như lời tiên sinh nói thì cứ coi như những người thân cô thế cô không làm gì được nhà họ Trần, nhưng chẳng lẽ con cháu của những dòng tộc lớn khác cũng ngồi yên không can dự vào chuyện ấy sao?"
Thứ Lang cười nhạt, nói.
"Những dòng tộc lớn khác là những nhà nào? Không kể đến nhà họ Trần, quanh đi quẩn lại bây giờ cũng chỉ còn ba nhà Vũ, Cung, Lý. Chẳng lẽ, chú không biết ba nhà ấy đều có dây mơ rễ má với nhà họ Trần ư? Sau khi bốn bề yên ổn, Cung Viêm Úc hỏi em gái Vũ Chung Tuệ về làm vợ cả. Chẳng bao lâu sau, Trần Kỳ Châu đem người em gái của mình gả cho Vũ Chung Tuệ. Sau đó, chính Trần Kỳ Châu cũng nên duyên với Lý Lục Trầm. Từ ấy, bốn nhà Trần, Cung, Vũ, Lý đời đời quan hệ thân thiết với nhau, bao năm qua đã đùm bọc che chở lẫn nhau, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chịu. Tuy nói là bốn dòng tộc tách biệt nhưng thực ra chẳng khác nào một thế gia lớn chia làm mấy nhánh, dựa vào nhau mà sống. Bọn họ kết minh với nhau đã lâu, vừa có lợi, vừa có tình. Chú em nói xem, liệu có ai trong số họ tự đem đá đập chân mình, đi tố giác người trong nhà không? Mà nếu họ không nói thì trong triều còn ai dám nói chuyện của họ nữa?"
Tĩnh Tử nghe xong câu chuyện, thở dài bảo.
"Tôi thực không ngờ có câu chuyện lạ lùng như vậy. Từ thuở Tích Lịch tướng quân được phong tước hầu đến nay đã mấy trăm năm mà nhà họ Trần vẫn được thịnh vượng khác xa những nhà sĩ hoạn bình thường khác. Xem ra nhưng câu hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết cũng chỉ là điều hạng cùng đinh như chúng tôi thường tự nói để an ủi mình mà thôi."
Thứ Lang nói.
"Dùng sức người giữ được cảnh phồn hoa lâu như vậy kể ra người nhà họ cũng khéo đấy. Như ông anh họ chủ tôi là Trần Đăng Chung đương giữ chức Tổng đốc ở Linh Nham cũng không phải hạng bao cỏ đâu. Tôi nghe người đi theo bà nói, từ nhỏ ông ta đã ham học, được cha rất yêu thương, kén thầy hay chữ chỉ dạy. Đến khi nhà vua mở khoa thi, ông ta lại đỗ thám hoa. Ban đầu, ông được bổ giữ chức Quốc giám tế tửu. Sau đó, nhờ có công nên dần được thăng lên chức Cần chính điện đại học sỹ. Sau này, ông ta thấy mình già yếu, xin về quê dưỡng lão song Kim thượng vẫn tiếc tài, lại hạ chỉ để ông ta làm Tuần diêm ngự sử ở quê nhà Linh Nham. Vợ ông này họ Lý, cũng lại là con cháu Chương hầu. Lý thị sinh được hai người con trai. Con trai đầu sinh vào năm Thìn nên đặt là Khắc Phi. Con thứ là Văn Quân. Khắc Phi tính tình mẫn tiệp, sức học hơn bạn đồng niên gấp mười lần. Năm mười lăm tuổi, cậu ta đã đỗ tú tài rồi thành gia lập thất với một người họ Vũ, sinh được một người con gái. Ban đầu, anh ta được bổ làm tri phủ. Nhưng nhà vua là người anh minh sáng suốt, thấy Khắc Phi có tài nên triệu vào kinh giữ chức Hàn lâm viện học sỹ, lo việc biên soạn, chỉnh lý kinh thư. Con thứ Văn Quân năm nay mới tròn mười sáu, vẫn đương dùi mài kinh sử, hai năm trước cũng đã lấy một người vợ họ Cung, cũng có với nhau một đứa con gái nữa. Chị này tuy là dâu thứ nhưng sắc sảo gấp mười lần dâu trưởng, liệu việc đâu ra đấy, rất được mẹ chồng tin yêu. Kể ra bọn họ cũng đề là người khá cả. Nhưng bây giờ thời thế đổi thay, loạn ly sắp đến, không nói trước được chuyện gì."
Tĩnh Tử thở dài, lắc đầu nói.
"Mới chỉ một nhà họ Trần đã có đến mấy người làm quan lớn, nếu kể hết những nhà khác thì chẳng biết còn bao nhiêu nữa. Như thế thì bảo sao thế nhà ấy chắc như bàn thạch, dù lay chẳng chuyển dù rung chẳng rời."
Thứ Lang cười bảo.
"Thôi, mặc họ, chúng ta cứ uống việc của chúng ta. Quan nhất thời, dân vạn đại."
Tĩnh Tử nghe ông nói vậy liền đứng lên rót thêm rượu vào chén cho ông, cười nói.
"Tiên sinh làm tôi nhớ đến một câu."
Thứ Lang nâng chén, bảo.
"Hình như tôi biết ấy là câu gì rồi. Có phải là "Thánh hiền tên tuổi bặt đi, Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời"?"
Tĩnh Tử gật đầu.
"Chính nó đấy."
Nói rồi, hai người cùng cười ầm lên.
Ngày hôm sau, Thứ Lang từ biệt Tĩnh Tử, theo đoàn xe ngựa nhà họ Lý đi về Linh Nham. Nguyên là bấy giờ, vì Hoàng thượng đột ngột băng hà, chiếu chỉ truyền ngôi chưa có, sao tránh khỏi việc xâu xé lẫn nhau tranh giành đế vị. Bởi vậy, khi lĩnh cữu Tiên hoàng còn quàn ở điện Trường Xuân, chưa đưa vào lăng tẩm thì các Hoàng tử đã chiêu binh mãi mã, đánh giết lẫn nhau, mỗi người chiếm cứ một phương, tự xưng làm vua khiến chiến tranh liên miên chẳng dứt, con đỏ lầm than. Trước cơn loạn ly đó, nhiều kẻ làm quan to cũng đã bỏ của chạy lấy người, thu xếp tài sản, đưa thân nhân về nơi yên ổn tránh cảnh binh đao khói lửa. Trong cuộc binh biến khiến người người liên luỵ ấy, chồng của Trần Huyên là Lý Kiến Phong cũng không may chết trong đám loạn quân. Bấy giờ, con trai cả là Lý Hành Tri đương đóng quân ngoài biên ải, hằng ngày lườm nhau với nước Nữ Man nên không thể về ngay được. Trần Huyên thấy cảnh máu chảy đầu rơi nhan nhản khắp chốn mà trong nhà lại chỉ toàn đàn bà trẻ nhỏ thì biết rằng không thể nán lại kinh thành thêm nữa. Bà nén đau lòng, bàn bạc với em chồng là Lý Diệp đương giữ chức Tả tướng quân, nhờ ông cho mượn mấy người hộ tống đoàn ngựa xe về Linh Nham lánh nạn, chừng nào bờ cõi an ổn sẽ liệu tiếp. Song, Lý Diệp không yên tâm, liền ngỏ ý đưa chị dâu về tận nơi rồi sẽ trở lại kinh thành. Trần Huyên rất mừng, đồng ý ngay. Bà lập tức đốc thúc người nhà thu dọn đồ đạc, chuẩn bị ngựa xe. Dao Chương lo bọn người nhà làm ăn không cẩn thận, nhỡ hỏng vật này mất vật kia hoặc nhân lúc ngổn ngang đem đi cầm bán không biết chừng nên không dám giao cho người nào mà tự mình trông nom. Mất mấy ngày lo liệu, mọi việc mới tạm êm xuôi. Trần Huyên biết không thể mang theo tất cả gia nhân, hơn nữa về đến chỗ anh họ thì cũng có người hầu nên chỉ giữ lại mấy người hầu hạng nhất theo hầu hạ, còn lại thì chia bạc cho họ, để họ về cả. Xong xuôi mọi sự, mẹ con lên đường. Đường từ kinh đô đến nơi ấy xa xôi ngàn dặm, mất hơn hai tháng mới tới nơi. Cũng may ngày thường Trần thị có sức khoẻ nên dẫu dọc đường mệt nhọc cũng không đổ bệnh nặng, chỉ bị đau xương cốt một chút mà thôi.
Trần Đăng Chung vốn có lượng dung người. Nhận được thư của em họ gửi về, ông liền bảo Lý Ninh dọn dẹp, chuẩn bị nơi ở cho Trần Huyên. Lý Ninh đem chuyện này bàn với Cung Ỷ. Cung Ỷ nghĩ một lúc rồi nói.
"Bà dì trước kia ở kinh thành đã quen ở chốn lầu son gác tía, nhà ta dù rộng rãi mấy cũng không bằng ở kinh đô được. Cứ như ý con, ta cho dọn dẹp hiên Phương Trần, mời dì ấy đến ở chỗ ấy. Hiên Phương Trần tuy không phải chỗ cung quế đền lan nhưng là nơi cây đẹp xanh um, hoa lá thắm màu, lại gần chùa Không Môn, lúc nào cũng yên tĩnh. Mùa này lại đương là mùa hoa mai nở, cảnh sắc rất rực rỡ. Nếp nhà ta từ xưa đến nay đã quen cần kiệm, trong một chốc một lát khó mà thay đổi được. Nay ta mượn cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ này thay cho vẻ hào hoa hương lồng ngọc giát, ấy là phép lấy cái thanh thay cái tục, kể ra cũng không lấy gì làm thất lễ với dì ấy."
Lý Ninh lấy làm có lý, liền nghe theo, lại nói.
"Chị ấy từ kinh thành xa xôi về đây, những đồ đạc mang theo được hẳn cũng chỉ là các thứ đồ thiết yếu thôi. Những thứ như giường, màn, chăn, đệm, bàn, ghế ắt là không thể đem theo cùng được. Hơn nữa, dẫu chị ấy có đem theo thì ta cũng nên sắm sửa đầy đủ để chị ấy khỏi ngại ngùng. Những vật ấy cùng các thứ đồ để bày biện trang trí con hãy lưu tâm mà lo cho đủ, nếu thiếu thứ gì thì cứ mở kho mà lấy. Trong kho mà không có thì con hãy viết một cái đơn, kê những thứ còn thiếu vào rồi bảo Lãm Thuý sang bên phủ Đông, nhờ chú con ra ngoài mua giúp. Chừng nào xong xuôi, con phải gọi ta đến xem trước mới được."
Lý Ninh có hai người em trai. Một người là Lý Diệp đã sớm ra làm quan võ, lập được công lao, nối nghiệp cha anh. Với Lý Diệp, bà chưa bao giờ phải lo lắng điều gì. Song, Lý Mân thì ngược lại. Từ nhỏ, y đã không thích đọc sách thánh hiền, thường xuyên qua lại giao du với đám con cháu thế gia nhiều tiền ít học, nhiễm đủ mọi thói xấu. Khi cha còn sống, Lý Mân còn cố gắng kiềm chế, không dám càn quấy quá. Sau khi Lý Tự mất, y như con khỉ được sổ xích, không điều quái ác nào không dám làm, hư hỏng gấp mười lần khi trước. Mẹ y không dạy nổi y, hằng ngày chỉ biết lấy nước mắt rửa mặt. Lý Kiến Phong và Lý Diệp lại bận bịu việc quan trường, mỗi lần có dịp trở về thăm nhà thì Lý Mân lại lấy cớ đi buôn chuồn biến. Bọn họ không có ba đầu sáu tay, không thể quản nổi y, đành mặc kệ y tự tung tự tác. Sau này, mẹ y cũng mất. Trước lúc lâm chung, bà cầm tay Lý Ninh mà trăn trối.
"Từ ngày mẹ bước về nhà này, dù không được mười phân vẹn mười nhưng cũng chưa làm nên điều gì lỗi đạo đến nỗi thác xuống không có mặt mũi nhìn thấy cha con. Nay ba anh em chúng nó đã làm nên cả, con cũng đã yên bề gia thất, mẹ sống đến từng này tuổi, thấy được những việc ấy, cũng chẳng còn tiếc hận gì nữa. Chỉ có em Mân của con là làm mẹ không sao yên được..."
Bà nói đến đó lại chứa chan nước mắt, mọi người gắng sức khuyên lơn mãi bà mới từ từ thiếp đi. Lúc ấy, bà đã yếu lắm, chẳng bao lâu sau thì qua đời. Lý Ninh hiểu mẹ muốn mình trông coi Lý Mân, giữ cho hắn dẫu không thành nhân thì cũng không đến nỗi đi lầm đường mà thành loạn thần tặc tử. Bởi vậy, những năm qua, bà vẫn thường xuyên tìm những việc lặt vặt trong phủ, giao cho Lý Mân làm để tránh hắn nhàn cư vi bất thiện. Cung Ỷ cũng biết ý mẹ chồng, cô từng theo lời Lý Ninh mà đưa đơn cho Lý Mân, nhờ hắn giúp mình mua các thứ đồ đạc ở những vùng xa Linh Nham để được giá tốt. Cô cũng biết ngoài số tiền công mình trả cho Lý Mân, y cũng thường ăn bớt tiền mà cô đưa rồi đem đi đánh bạc. Song, Cung Ỷ nghĩ dù sao hắn cũng là họ hàng bên ngoại của Lý Ninh, mình chỉ là phận dâu con, là nữ nhân ngoại tộc, thân sơ có khác. Nay Lý Ninh đã nhắc đến y tức là có ý để y lo liệu việc này, mình nói ra nói vào điều gì cũng không tiện, chẳng bằng cứ thuận nước đẩy thuyền, tuy mất mấy lượng bạc nhưng bà lại được vui lòng. Nghĩ vậy, cô liền nói.
"Được như vậy thì thật hay, nhưng xét theo thứ bậc, con là phận cháu dâu. Đã là bề dưới thì con thiết nghĩ con phải nhờ nhà con đến chào chú ấy rồi nhờ cậy như lần trước mới phải lẽ."
Lý Ninh thấy Cung Ỷ hiểu ý thì trong lòng rất vui, liền gật đầu khen phải. Cung Ỷ ngồi hầu chuyện bà thêm một lúc nữa rồi về viện Phù Sinh nghỉ trưa.
Chiều về trời mát, cô gọi Di Mặc chuẩn bị bánh nhân hoài sơn táo đỏ, bột phục linh cùng mấy món đồ bổ để đi thăm hỏi chị dâu. Toả Trâm vốn chân huyết xấu. Sau khi sinh Kim Khánh, bị băng huyết, chị ta càng thêm ốm yếu, quanh năm không ra khỏi cửa. Cũng may từ nhỏ Kim Khánh đã ngoan ngoãn, ít khi quấy khóc, đặt xuống là ngủ nên chị ta cũng được thanh nhàn. Kim Khánh lớn lên dáng điệu thanh nhã, tươi đẹp nhu mì, lại khéo an phận tuỳ thời, cư xử thuận tình đạt lý nên các bậc trưởng bối trong nhà rất yêu. Song, Kim Khánh thấy cha thường vắng nhà, mẹ lại ốm yếu, việc gì cũng đến tay mợ Hai, làm trên dưới trong nhà sinh lời bàn tán thì rất thương mẹ. Nàng lại ngẫm con gái cần lấy trinh tĩnh làm chủ, những việc thơ phú văn chương chỉ để mà chơi, biết cũng được mà không biết cũng chẳng sao. Vậy nên, nàng thường chú tâm học hỏi quán xuyến việc nhà, thêu thùa may vá, đỡ đần mẹ hơn là ngâm thơ đề vịnh. Đăng Chung biết chí hướng của cháu gái, ông cho rằng mỗi người có một ý riêng nên cũng không ép uổng, lại dặn dò Lý Ninh chỉ bảo Kim Khánh nhiều hơn. Lý Ninh vốn có lòng yêu Kim Khánh khéo léo, thấy cháu có chí như vậy thì rất mừng, thường đưa nàng theo mình coi việc nhà, đem những chuyện mình biết nói thực rành rẽ. Sau này, Thái Minh đế lên ngôi. Người vốn trọng thi lễ, mở dịp chọn những người tài năng trong số những con cháu nhà danh hương vào cung làm nữ quan. Kim Khánh tuổi trẻ có tài, đã nhập cung làm nữ sử, hầu các công chúa, hoàng tử đọc sách. Bởi tính tình mẫn tiệp, khéo hầu hạ, rất được lòng người, lại là con cháu khai quốc công thần nên chẳng bao lâu nàng đã được phong chức. Toả Trâm cũng nhờ vậy mà được phong làm Thục nhân. Nhà họ Trần lại thêm một người để dựa vào, thế lực dòng họ càng thêm chắc chắn. Song, từ ngày Kim Khánh vào cung, Toả Trâm không được gặp lại con, hằng ngày thương nhớ, buồn bã âu sầu, người càng thêm mệt. Nửa năm đổ lại đây, chị ta lại mắc thêm chứng rong kinh, bệnh tình càng lúc càng nghiêm trọng. Mấy tháng nay, nghe tin trong kinh có biến, tình hình trong triều loạn lạc, Kim Khánh cũng phải theo Trần Huyên trở về Linh Nham, chị ta càng lo hơn song cũng cố gắng điều dưỡng cơ thể, uống thêm vài thang thuốc bổ để lấy sức gượng dậy khỏi giường, trang điểm sửa soạn, đỡ đần Cung Ỷ lo liệu việc nhà. Hồi sáng, chị ta sang viện Phù Sinh cũng là muốn bàn với Cung Ỷ việc ấy. Khi biết việc mẹ chồng đã gọi em dâu đi bàn chuyện mà không gọi mình, chị ta chạnh buồn nhưng cũng chẳng biết trách ai, chỉ tự oán bản thân lắm bệnh nhiều tật, không cáng đáng nổi việc gì. Ngồi đợi Cung Ỷ thêm một lúc, chị ta thấy trong người hơi mệt nên trở về viện của mình nghỉ ngơi. Khi Cung Ỷ sang đến nơi, Toả Trâm đang nằm trên giường nghỉ. Người hầu của chị ta là Ngân Thuý thấy Cung Ỷ sang thì chỉ vào trong giường, khẽ nói.
"Cô sang không phải lúc rồi, mợ chúng tôi vừa đi nghỉ. Xin mời cô sang bên này uống nước. Mợ tôi ngủ nông giấc lắm, chỉ một lúc nữa là dậy thôi."
Cung Ỷ đang định cùng Ngân Thuý sang buồng bên thì trong rèm đã vọng ra tiếng nói. Tiếng nói ấy rất nhẹ, dường như có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào. Vừa nghe qua, cô đã biết đó là giọng của một người không có nhiều sức lực.
"Ta không ngủ, chỉ nằm nhắm mắt nghỉ vậy một lúc thôi. Em mau mời thím Hai vào, pha trà nước cho cẩn thận rồi đi cho chim ăn đi."
Ngân Thuý nghe vậy liền mời Cung Ỷ vào nhà chính. Cung Ỷ vừa ngồi xuống, rèm cửa lại được vén lên để mấy đứa hầu nhỏ mang nước ấm, gương lược, khăn tay, quần áo vào buồng trong cho Toả Trâm chỉnh trang ra tiếp khách. So với nơi tiếp khách của Lý Ninh, chỗ này được bày biện đơn giản hơn nhiều. Ở đầu gian phòng đặt một bộ bàn ghế bằng gỗ trắc, toàn bộ bề mặt nhẵn thín, không có dấu vết chạm trổ hoa văn. Trên bàn bày một chiếc bình bằng gốm, thân bình vẽ hoạ tiết tinh đình hạ thuỷ, bên trong cắm một cành hoa cúc trắng như một đoá thuỷ tinh cùng một nhánh cây cong cong uốn khúc trông rất đẹp. Tường sau treo bức tranh Trúc thạch của Trịnh Bản Kiều. Nơi tiếp khách được ngăn cách với hai gian buồng nhỏ hai bên bằng bức mành, bên ngoài bọc lụa mỏng như cánh ve. Cung Ỷ ngồi một chốc, Ngân Thuý bưng một chiếc khay, vén rèm bước vào. Cô ta rót trà từ chiếc ấm tử sa Mai băng đưa cho Cung Ỷ. Hồng Loan bảo "uống trà hay bị mất ngủ" rồi từ chối không uống. Ngân Thuý đành phải thôi. Cung Ỷ uống một ngụm rồi đặt chén xuống, thấy vị không được ngon bằng thứ trà hay uống ở chỗ Lý Ninh. Giữa vị trà còn đan xen vị mốc nhẹ. Trong lòng cô không khỏi hơi thương cảm nhưng bên ngoài Cung Ỷ vẫn tỏ ra bình thường giống như một người không biết nếm vị trà. Bởi cô hiểu nếu cô tỏ ra khác lạ, chị dâu có thể sẽ chạnh lòng.
Một lúc sau, Toả Trâm từ buồng trong bước ra. Hai người theo lễ chào nhau rồi phân vai chủ khách ngồi trò chuyện. Toả Trâm thấy Cung Ỷ cử chỉ đoan trang, lời nói mềm mỏng, dáng vẻ khiêm tốn, không cậy mình được quản việc nhà mà kiêu mạn nên trong lòng dần quý mến. Hai người nói chuyện hồi lâu, càng nói càng hợp ý. Từ khi Kim Khánh vào cung làm nữ sử, Khắc Phi quanh năm suốt tháng bận rộn chuyện quan trường, lúc nào Toả Trâm cũng thui thủi một mình, không có người nói chuyện hợp ý. Nay Cung Ỷ đến thăm, chị ta dốc hết bầu tâm sự. Hoá ra, vì sự loạn ly lần này, các cung nhân người thì bị loạn quân bắt đi, người thì trốn chui trốn lủi, không biết sống chết ra sao. Toả Trâm thấy vậy rất đỗi âu sầu lo nghĩ cho Kim Khánh đến nỗi trong mơ hoảng hốt, giật mình tỉnh lại giữa đêm thì không sao ngủ lại được, suy nghĩ mông lung rồi lại khóc một mình. Thành ra, mỗi sáng, đôi mắt chị đều sưng như hai quả nhót, tròng mắt đỏ ngầu, vẻ mặt tiều tuỵ, bệnh càng nặng hơn.
Cung Ỷ nghe vậy thì lấy làm thương cảm, cô lựa lời khuyên chị dâu nên ở trong nhà nghỉ ngơi điều dưỡng nhiều hơn, chuyện sửa soạn đón tiếp dì Uyên cùng công việc nhà cô vẫn chu tất được. Nhưng chị dâu tự nghĩ mình thân là dâu trưởng, có lý nào để em dâu gánh vác hết việc nhà còn bản thân thì nằm giường hưởng phúc nên gắng gượng muốn cùng Cung Ỷ lo liệu công việc. Cô chỉ đành đồng ý để chị cùng coi việc, có điều cô thường tranh làm những việc nặng nhọc, nhường việc nhẹ cho chị dâu lo liệu, tránh để chị dâu phải suy nghĩ lao lực. Toả Trâm cũng biết điều đó nên trong bụng rất cảm kích Cung Ỷ.
Mấy ngày sau, đoàn xe ngựa của Trần Huyên đã đến Linh Nham. Vừa đến nơi, Lý Diệp đã bảo người đưa Trần Huyên và Dao Chương, Tử Long về phủ nhà họ Trần nghỉ trước. Còn mình thì lo việc thu xếp phủ đệ, dọn dẹp đồ đạc cẩn thận rồi sẽ qua sau. Trần Huyên đi đường dài, trong người mệt mỏi, nghe vậy lấy làm hợp ý, liền theo lời ông. Một lúc sau, ba người đã đến phủ nhà họ Trần. Lý Ninh, Cung Ỷ, Vũ Toả Trâm được tin liền cùng nhau ra đón tiếp. Phi Ly được bà gọi ra chào anh chị, song nàng ta nhát nên chỉ nắm áo mẹ, núp sau lưng mà xem thôi. Bấy giờ, Trần Huyên từ dãy xuyên đường bước vào. Phi Ly thấy một mệnh phụ phu nhân khoác áo ngoài bằng da cáo trắng, bên trong mặc áo lụa huyền huân thêu hoa văn như ý nhũ vàng. Mái tóc cài trâm bạc trắng xoá. Trước trán bà đeo một chiếc khăn bịt trán đính ngọc trai. Chân đi đôi tất bằng đoạn trắng, đôi hài cánh phượng xinh xinh. Bà đang vịn tay vào một cô gái, chậm rãi bước đi từng bước trên nền tuyết. Cô gái ấy giống bà ba phần. Người này mũi thẳng như bút, mắt hạnh sáng trong, khuôn mặt trái xoan, nhìn là thấy mến.
Đôi bên là chị em trong nhà, lâu ngày mới gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi, nói không hết lời. Trần Huyên vừa thấy Lý Ninh đã nhỏ nước mắt, kể lể mọi sự tình bi hàn khôn xiết. Lý Ninh đã biết tin anh mình mất ở đế đô, lòng rất sầu muộn. Nay thấy chị dâu thương khóc thiết tha như vậy, ruột gan bà như nát nhừ ra nên cũng ứa lệ sụt sùi. Bấy giờ, Kim Khánh đến chào bà, chào mẹ. Từ ngày đưa Kim Khánh vào cung, Toả Trâm cứ ngỡ rằng cả đời này không bao giờ được thấy mặt con lần nữa. Nào ngờ nay lại được gặp máu mủ của mình, chị ta chỉ nói được một câu "con của tôi ơi" rồi oà lên khóc. Kim Khánh vội bước tới đỡ mẹ, lựa lời khôn khéo yên ủi cho mẹ nguôi ngoai. Lý Ninh, Trần Huyên thấy cảnh ấy ai cũng bùi ngùi thương cảm, lặng lẽ đưa khăn chấm nước mắt. Hồi lâu, Kim Khánh lo mẹ và bà đau buồn sinh ốm nên cố nén buồn mà cười gượng, bảo a hoàn đưa họ vào nhà trong nói chuyện. Dao Chương và Tử Long cùng đỡ Trần Huyên đến chỗ Lý Ninh. Bấy giờ, Trần Huyên mới mang những việc khó khăn từ khi Lý Kiến Phong mất kể lại một lượt rồi khóc nức nở. Mọi người nghe xong lại càng thương xót.
Lý Ninh thấy Dao Chương còn nhỏ mà đã mồ côi cha, trong lòng rất xót xa, lại thấy nàng dẫu đau buồn nhưng vẫn biết lựa lời khuyên giải làm cho mẹ nguôi lòng thì càng thêm yêu quý. Bà gọi Dao Chương đến bên mình mà hỏi chuyện:"Năm nay bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Thường ngày ở nhà thích đọc những thơ, từ gì?". Dao Chương nhỏ nhẹ đáp từng lời một.
"Cháu chỉ biết ít chữ, mới đọc được "Kinh Thi", "Mạnh Tử" mà thôi."
Lý Ninh gật đầu, cười nói.
"Sau này cháu ở đây làm bạn với các chị em, hằng ngày cùng chúng nó đến gia thự đọc sách, viết chữ. Em Ly cũng biết ít chữ đấy, cháu dạy thêm cho em nó. Nếu như thiếu sách gì cứ đến nói với ta, đừng ngại gì cả."
Nói đoạn, bà vẫy tay gọi Phi Ly ra chào Dao Chương. Phi Ly vốn nhát người, nấp sau lưng mẹ, bàn tay nho nhỏ bám chặt lấy vạt áo Cung Ỷ. Cung Ỷ sẽ kéo nàng lên phía trước, sẽ đẩy lưng nàng một cái. Phi Ly luống cuống không biết làm sao. Dao Chương liền bước tới cầm lấy tay nàng, vẻ ôn hoà trong ánh mắt Dao Chương cùng hơi ấm dìu dịu từ lòng bàn tay nàng thấm vào da thịt làm tâm trí đương vát vất trong cơn hỗn loạn của Phi Ly từ từ lắng lại, chẳng mấy chốc chỉ còn một mảng lãng đãng bình hoà. Dao Chương dẫn Phi Ly đến ngồi cạnh mình, rủ rỉ hỏi chuyện. Ban đầu, Phi Ly hẵng còn e dè, chỉ hỏi gì đáp nấy, tiếng nói lí nhí như muỗi kêu. Sau một lúc quen dần, nàng mới nói nhiều hơn một ít. Vốn từ ngày biết chữ, Phi Ly hay ngâm ngợi thơ Khuất Tử. Đăng Chung thấy vậy, lòng biết cháu mình có cốt cách nhưng mệnh bạc, trong bụng rất không đành nên thường gần gũi dạy bảo. Một ngày, Văn Quân sang hầu cha, đưa Phi Ly đi theo. Cha và ông bàn chuyện, Phi Ly không tiện vào cùng nên chỉ đứng bên thềm, xem a hoàn bẻ những cành liễu non mơn mởn kết thành lẵng đựng hoa. Lúc sau, Văn Quân hầu cha ra vườn vãn cảnh. Đến bậc thềm, thấy cảnh ấy, Đăng Chung liền bồng cháu gái lên tay, cười hỏi.
"Lá liễu xanh non giống thứ gì?"
Phi Ly vấp váp, nói.
"Giống dấu bèo trên mặt nước xao."
Đăng Chung nghe vậy cho là lạ, từ ấy ngoài việc học thầy, ông cũng tự mình dốc công dạy dỗ Phi Ly hơn trước.
Dao Chương cùng Phi Ly đương nói chuyện thơ văn rất hợp ý. Chợt bên ngoài có tiếng xôn xao, mọi người đều lấy làm lạ. Lý Ninh nghĩ một thoáng rồi cười nói.
"Hay là nhà cô Uyển cũng đến rồi? Thư về lần trước, cô ấy nói rằng phải ba, bốn ngày nữa mới tới nơi. Nay đến sớm được, thực là chuyện đáng mừng."
Mọi người nghe vậy trong dạ đều hồ hởi, vội sửa soạn ra đón Cung Uyển. Nguyên Cung Uyển là em họ Cung Ỷ. Đến tuổi cập kê, cô được gả cho con trai thứ nhà họ Vũ là Vũ Xung Trực. Sau này, con trai cả nhà họ Vũ là Vũ Chiêu Dương chẳng may đổ bệnh mà mất, Vũ Xung Trực tập tước Võ hầu, trở thành gia chủ nhà họ Vũ, Cung Uyển cũng nhờ vậy mà được vinh hiển. Trước đây, nhà họ Vũ thường ở đất Hồ Dương. Ấy vốn là đất được Thái Thuỷ đế ban cho Võ hầu làm thái ấp. Nhưng gần đây, nhân việc nước Hoài loạn lạc, nước Nhục Chi muốn đục nước béo cò nên thường xuyên đem quân quấy nhiều Hồ Dương, làm cho dân tình không được yên ổn. Vũ Xung Trực nghĩ trong nhà chỉ toàn đàn bà trẻ nhỏ, ở lại Hồ Dương không tiện, liền bảo Cung Uyển đưa con cái về Linh Nham, ở nhà họ Trần đợi đến khi tình hình an ổn rồi trở lại. Cung Uyển thấy có lý, liền thu xếp đồ đạc rồi chọn ngày đẹp lên đường. Đi gần một tháng, cuối cùng cũng tới Linh Nham. Lý Ninh hay tin ấy, đã dặn dò Cung Ỷ dọn dẹp, bày biện gác Phù Dao. Việc sắp sửa đã xong xuôi từ lâu, những bình phong, bàn ghế, giường đệm, màn treo, đèn lồng đều đã được đưa vào viện, bài trí đâu ra đấy. Hằng ngày, dẫu chưa có người vào ở, người hầu cũng phải qua quét dọn luôn luôn.
Lần này tới Linh Nham, ban đầu, Cung Uyển định đưa cả con trưởng là Vũ Thuyên theo. Song, Vũ Thuyên nghĩ mình sắp đến tuổi đội mũ, xin được ở lại Hồ Dương phù trợ cha đánh giặc. Cung Uyển khuyên không được, đành phải mặc hắn làm theo ý mình. Vũ Lý cũng không muốn rời khỏi Hồ Dương, song mẹ đẻ hắn là An Văn sống chết bắt hắn phải theo Cung Uyển về Linh Nham cho bằng được. Vũ Lý bị bà càm ràm đến mức đầu to như cái đấu, đành gật bừa cho xong chuyện. Hắn định bụng vờ đi theo rồi nửa đường tìm cách trốn về Hồ Dương. Song chẳng ngờ, ánh mắt Cung Uyển không rời khỏi hắn nửa khắc, nếu có lúc nghỉ ngơi thì cũng dặn dò a hoàn thân tín bên cạnh mình để ý cậu sát sao đêm cũng như ngày, làm Vũ Lý không sao trốn được, đành phải cùng bà đi đến Linh Nham.
Thuở ấy, Vũ Lý trạc tuổi Dao Chương, Kim Khánh, hơn Phi Ly mấy tuổi. Kim Khánh, Dao Chương thấy hắn mắt hạnh sáng ngời, mày như mực kẻ, dáng vẻ phong lưu, có vẻ phóng khoáng hiên ngang thì trong lòng rất mến, lần lượt ra chào. Vũ Lý cũng cười, khéo léo đáp lễ, gọi hai người là chị rồi dâng trà cho các bậc trưởng bối.
Phi Ly quanh năm suốt tháng ở trong buồng thêu kín như buồng tằm, trông thấy người lạ thì hơi sợ, khép nép nấp sau lưng Kim Khánh. Vũ Lý thấy vậy liền bước đến, cầm tay nàng chào hỏi. Cử chỉ mạnh dạn mà chân thành bi thiết ấy làm Phi Ly giật thót mình. Nàng định rút tay lại song lại tự thấy không tiện nên đành cứ để như vậy, cổ tay se sẽ run lên. Vũ Lý hơi nghiêng đầu trông nàng thật kỹ. Vẻ sắc sảo đến độ không hợp tuổi bởi đã sớm dạn dày đoạn trường nhân gian trong ánh mắt Vũ Lý làm Phi Ly hơi cúi đầu, tựa hồ muốn nép mình sau lớt phớt tóc mai mỏng mảnh tựa cánh ve thu. Đưa ngang ánh mắt, nàng bỗng thấy bên vai áo hắn còn vương mang đôi cánh đỗ quyên đỏ như máu. Cánh hoa hắt sắc giáng vào bóng mắt nàng. Phi Ly màu đỏ ấy đâm vào mắt đau trào nước mắt, không kiềm lòng được nhón tay lấy xuống. Vũ Lý trông cánh hoa giữa ngón tay nàng, chợt cười rạng lên. Cành lá non phả bóng lên tấm mành the màu khói phía sau Vũ Lý, phản chiếu dịu dàng lên vai áo và mái tóc biêng biếc. Nét sắc sảo mờ đi trước vẻ thanh khiết ấy, làm nụ cười và ánh má phớt hồng trong nền khói ngả lam phai khiến người ta mềm mại cả lòng.
Bấy giờ, Phi Ly mới thấy rõ, so với Cung Uyển trên đầu đội trâm ngũ phượng Triệu Dương, mình mặc áo chẽn hồng thêu trăm con bướm vờn mẫu đơn, khoác ngoài bằng áo lụa màu điều, mặc quần màu cánh trả thì Vũ Lý ăn vận có vẻ mộc mạc hơn nhiều. Lối ăn mặc của chàng ta có vẻ giống kiểu thiếu niên hơn là kiểu cậu bé song như vậy lại có nét lanh lợi, phóng khoáng riêng. Một thoáng phân vân qua đi, rốt cuộc Phi Ly vẫn lo sợ người ta ngờ, nàng thả cánh hoa rơi xuống rồi lặng lẽ dỗ lòng mình. Chút tình như gió giang hà lặng lẽ thoảng qua. Vũ Lý như trút được gánh nặng trong lòng. Chàng ta lại tươi tỉnh tự nhiên, ngắm nhìn Phi Ly một chút rồi nói.
"Em tên là gì?"
Phi Ly không nói, chỉ mở lòng bàn tay hắn, viết mấy nét. Vũ Lý đoán ra ngay, cười hỏi.
"Là chữ trong câu "Sáng bừng hoa chen ánh, Rũ mềm lá mảnh mai" đó phải không?"
Phi Ly lắc đầu, nói.
"Là câu "Phấn hồng phủ lối hoa rơi điểm, Oanh yến bận thân luống mệt nhoài" mới phải."
Phi Ly nói xong câu ấy, tự thấy mình không phải, hơi nghiêng mặt đi, tóc mai mỏng như cánh ve hơi rủ xuống, trông càng có vẻ e lệ không thể nói hết được. Vũ Lý chợt ngây ngẩn, Phi Ly càng không biết làm sao. Bấy giờ, ngoài cửa chợt có tiếng động. Phi Ly ngẩng đầu lên trông, trước tiên thấy một cây cung gỗ dâu thò vào trong rèm. Tiếp đó, rèm giao bị vén lên. Ánh sáng bên ngoài dẫu đã len qua mầm đào non, thấm một tầng xanh mát mà vẫn nghịch ngạo với khoảng không gian trong phòng khiến mắt nàng hơi nhói. Phi Ly chớp mắt mấy lần, lệ tràn ướt mi, chỉ thấy lấp loáng triền miên bất tuyệt lớp lớp bóng áo bông đỏ rực hắt xuống tuyết thanh khiết bạt ngàn qua ánh lệ có vẻ khuynh thành quốc sắc, còn chưa trông rõ người đã thấy lanh lảnh tiếng cười. Tử La thấy Phi Ly đương dụi mắt liền quên cả thay áo, vội chào các trưởng bối, chị em rồi bước tới giữ lấy tay nàng, nói:"Đừng lau nữa, đỏ hết lên rồi, để tôi thổi cho". Nói rồi phồng má mà thổi. Khi tròng mắt dịu bớt, Phi Ly trông thấy là một bé gái mắt sắc mày dài, có vẻ thông minh tuấn tú, thoát hẳn trần tục. Cô bé đứng thẳng, thân mình ngược sáng, dáng dong dỏng cao, vẻ linh lợi khoáng đạt phủ mờ mọi tùng lâm huyền bí, đánh thức mọi sức sống còn thiêm thiếp giấc hồng chưa phai. Nhược Thuỷ bước tới hầu cô ta cởi áo lông cáo để mang ra ngoài giũ tuyết. Bấy giờ, Tử La bỏ áo trùm, mọi người mới thấy tóc không để búi, cắt ngắn ngang vai, không cài hoa lược. Nghe nói, nhà bên ấy dạy con học võ nên trai gái trong nhà đều để tuốt như vậy, khi luyện tập chỉ cần túm lên thành một búi trên đỉnh đầu.
Phi Ly thấy rõ mặt nàng, liền nhoẻn miệng cười, khe khẽ gọi một tiếng.
"Tử La."
Tử La cười, xoa má nàng mấy cái rồi nắm tay nàng đến ngồi cạnh Dao Chương. Ba người tuổi gần bằng nhau, lại hợp tính tình. Trước đây bọn họ ở nhà không có mấy chị em nữ bầu bạn, lúc buồn chán cũng chỉ chơi đùa với a hoàn cho khuây. Nay gặp được nhau, bọn họ mừng vui khôn xiết, nói chẳng hết lời. Bấy giờ, Lý Ban mới bước vào, trước hết chào từng người một rồi cười nói.
"Chúng tôi đến muộn, để chị và các cô phải chờ lâu, thật là đáng tội."
Trông thấy chị ta, mọi người đều vui mừng đứng cả dậy đón tiếp hỏi thăm. Lý Ninh vịn a hoàn bước đến cạnh cầm tay chị ta, trách một câu "Đến từ bao giờ? Sao không bảo a hoàn nó vào báo cho chúng tôi" rồi đưa khăn thấm nước mắt. Lý Ban yên ủi bà rồi đưa áo hồ lạc cho a hoàn mang vào nhà trong treo lên giá gỗ, ngồi xuống một chiếc đôn cạnh bàn gần Lý Ninh, cười bảo.
"Tôi vừa đến được một lúc, trước phải sang bên nhà chào cụ, sau ấy mới đưa cháu sang bên này gặp chị và các cô." - Nói đoạn, chị ta gọi Tử La rồi trỏ vào từng người, bảo. - "Đây là bà trẻ bên họ ngoại của con, đây là bác Cả, đây là mợ Cả, còn đây là chị em của con đấy."
Bấy giờ, Tử La đương mải trò chuyện ríu rít với Dao Chương, Phi Ly, lòng dạ còn để cả ở câu chuyện nên nghe câu được câu chăng. Lý Ninh thấy vậy liền cười, bảo với Lý Ban.
"Lúc trước, mấy nhà ở xa nhau thì không nói. Nhưng bây giờ đã ở cùng một chỗ với nhau, chẳng sớm thì muộn chúng nó cũng quen mặt hết. Cô bất tất phải nói nhiều, cứ để chị em chúng nó chơi với nhau đã."
Lý Ban mỉm cười, thưa vâng rồi bảo người hầu đã dâng lên một cái tráp bằng gỗ trầm hương ba tầng làm quà mừng. Mở tầng thứ nhất ra xem thì thấy bên trong lót nhung, trên lớp nhung ấy có mười mấy chiếc lược cài đầu bằng ngọc thân chạm lộng hình phượng hoàng và vân thuỷ ba khảm trân châu, dây buộc bằng tơ vàng, hai bên có dây vàng rủ xuống đeo ngọc trân để giắt vào tai; mấy chuỗi hoa vàng cài áp mái làm theo lối hoa mai, hai đầu có dây kết kiểu lá liễu bằng the đỏ. Mở tầng thứ hai thì thấy mười đôi khuyên tai đồi mồi, sáu chiếc vòng vàng chạm hoa văn liên hoàn, phần khoá vòng tạo hình "lưỡng long chầu ngọc". Mở tầng thứ ba thì thấy mười hai lọ nước thơm, mười hai thoi phấn hoa ngọc trâm, mười hai hộp sáp bôi môi, mười hai thoi phấn kẻ lông mày. Lý Ban cười nói.
"Những đồ trang sức là các cháu nó sửa soạn biếu các cô, các bác, còn những vật trang điểm này xin để lại cho các chị em dùng. Tuy không phải vật gì đáng giá nhưng nguyên liệu chọn cũng khá, dùng cũng tốt hơn đồ mua bên ngoài."
Tử La và Phi Ly còn nhỏ, không dám nhận những vật này, lại càng không dám từ chối ý tốt của Lý Ban. Dao Chương tuy lớn tuổi hơn hai người một chút, cũng đã hiểu ít nhiều việc đời nhưng lúc này còn có các bác, các cô ngồi ở đó nên không tiện nói ra ý của mình, chỉ nhìn Trần Huyên vẻ bối rối. Trần Huyên định nhận rồi bảo Thập Thuý mang mấy món đồ lễ ra đáp lại. Song, bà trông thấy Cung Ỷ hãy còn trù trừ chưa quyết nên cũng chưa dám nhận ngay mà chỉ im lặng xem tình thế ra sao. Cung Ỷ thấy những món đồ này chẳng kém gì trang sức trong cung, nay đã đưa đến tận nơi, từ chối thì lại hoá ra giữa người nhà kém tình thân mật mà nhận cũng không được hay. Thấy Cung Ỷ đắn đo mãi chưa quyết, Lý Ninh cười cười, nói.
"Thím ấy đã có lòng, các người cứ nhận cả, nếu không chẳng hoá ra phụ lòng tốt của thím ấy hay sao. Sau này cháu Du và con Thanh về nhà chồng, các người lại cho chúng nó ít nữ trang làm của hồi môn, cũng thế."
Bấy giờ, Lý Ban cũng nhân đó nói thêm vào.
"Chị ấy nói phải đấy, những thứ này trông vẻ lộng lẫy nhưng thực ra cũng chẳng đáng gì. Chúng ta là chỗ người nhà với nhau, trăm năm nay tình thân mật chưa lúc nào phai nhạt, chẳng lẽ còn phải câu nệ những việc này."
Cung Ỷ nghe mẹ chồng nói vậy, nghĩ thấy không từ chối được, đành phải nhận. Trần Huyên dặn dò Thập Thuý, Lãm Thuý mang lễ vật vào trong, để các cô muốn thích cái gì thì chọn lấy cái ấy rồi lại nhắc Dao Chương, Kim Khánh dẫn hai em sang chào Thanh Đường. Hai người vâng lời, toan đưa Tử La, Phi Ly lui ra. Lý Ban nghe vậy vội ngăn lại rồi nói.
"Nói vai vế, con Oánh phải gọi cháu Chương, cháu Khánh đây là chị. Có lẽ nào mà chị lại sang chào em? Như thế sao được. Để tôi bảo con Hoa vào buồng gọi nó ra đây. Các chị không biết, vì thường ngày các cụ nhà nuông nó nên nó sinh hư, làm vương làm tướng ở nhà, không ai dám hó hé câu gì. Nay đến đây rồi, tôi phải làm nó chừa cái nết ấy đi mới được."
Lý Ban vừa nói dứt lời, Cung Ỷ đã vội bảo.
"Chị vừa nói nhà chúng ta không cần câu nệ những chuyện ấy. Bây giờ chị nói vậy là chị lại để ý rồi."
Lý Ninh cũng nói.
"Phải đấy, thím cứ để cho chị em chúng nó chơi với nhau cho đỡ buồn. Lần nào anh chồng thím vào kinh, ghé qua thăm vợ chồng thím cũng khen cháu Thanh khá lắm. Nào có như lời thím nói. Hẳn lại là cha mẹ không thấy cái tốt của con mình rồi."
Nghe vậy, Cung Ỷ và Trần Huyên cũng cười. Lý Ban nghe vậy cũng không bảo Yên Hoa đi gọi Thanh Đường nữa. Chị ta chỉ vịn tay Nhuyễn Hồng ngồi xuống ghế, thở dài nói với Lý Ninh.
"Chị có điều không biết, ấy là con ranh ấy làm bộ làm tịch đấy thôi. Lúc ở nhà, nó là hỗn thế ma vương, mồm mép điêu ngoa, ai cũng phải sợ. Ban nãy, tôi vốn bảo nó ở đây cùng với chị nó để chờ chào các bác, các cô trước rồi muốn làm gì tôi cũng mặc. Ấy vậy mà nó cứ kêu trong mình khó chịu, bảo a hoàn dẫn đi nằm ngay. Tôi chẳng thể nói được, đành để mặc nó đi. Cũng may các bác, các cô là người nhà, nếu là người ngoài thì chẳng phải đã trát gio vào mặt rồi ư?"
Nói rồi, chị ta thở dài phiền muộn. Cung Ỷ vội lựa lời yên ủi.
"Trẻ con đứa nào mà chẳng vậy. Chị cứ chờ vài năm nữa, thế nào cũng vào khuôn phép cả thôi. Hồi nhỏ, tôi cũng là đứa nghịch ngợm quậy phá, hay làm rầy rà người ta. Nhưng từ khi thành gia lập thất cũng phải tự biết thân biết phận mà cư xử chứ có như xưa được mãi đâu."
Lý Ban thở dài, lắc đầu nói.
"Chỉ trách mẹ nó là người không ra gì, sinh ra đứa con cũng không ra gì nốt. Nếu mẹ nó còn, chưa chắc tôi đã yên ổn sống được đến hôm nay."
Trần Huyên nghe nhắc đến việc ấy mới nhớ ra mọi sự. Trước nay, nhà họ Cung trước nay vốn thượng võ, mấy đời con cháu vẫn theo nghiệp võ biền, đến đời Cung Hữu Quang lại cho rằng trong lòng con gái thường trọng chồng hơn cha, không thể tin tưởng giao cho cơ nghiệp được nên lòng vẫn muốn có một người con trai để đương lấy nghiệp nhà. Khổ nỗi Lý Ban lại không sinh được con trai. Hai nhà Trần, Lý se duyên cho hai người nên duyên vợ chồng đã mấy năm mà chỉ có một mụn con gái là Cung Tử La. Ngày đứa trẻ này sinh ra, theo tục lệ ở nước Hoài, vì cô là con gái nên lẽ ra phải treo ngoài cửa một chiếc áo lót hoặc một chiếc khăn để ngụ ý bổn phận của nữ nhi là chuyện may vá, thêu dệt. Vậy nhưng, khi Cung Hữu Quang định treo những vật ấy lên thì chiếc khăn cứ rơi mãi xuống, chỉ khi nhắc cung dâu hay gác kiếm lên thì mới không rơi. Người trong nhà đều xem là chuyện lạ. Lúc ấy, có người nhắc lại chuyện mấy năm trước một ông thầy địa lý đi ngang qua làng, xem xét thổ nhưỡng một lượt rồi nói rằng nơi này núi cao ngạo nghễ, có mạch sơn cước lắm hung nhiều sát, tất sau này sẽ phát võ người anh hùng cương liệt. Kẻ này phát vì võ cách nhiều, còn gây thảm sát cho thiên hạ nữa. Song đây là cách sát hay, như đấng Quang Trung thời xưa bên nước Đại Việt nên không sợ. Tuy ai cũng cho ấy là điềm lành nhưng Cung Hữu Quang vẫn phiền muộn không thôi. Sau lần sinh nở này, Lý Ban bị băng huyết nên yếu hẳn, có mang mấy lần đều sảy cả nên dẫu bà tính tình hiền hậu đảm đang, sắp xếp trông nom việc nhà vô cùng chu tất thì Cung Hữu Quang vẫn bỏ số tiền ngang với mấy toà thành, lấy thêm một người vợ lẽ nữa ở lầu Tuý Hoa về. Người này họ Từ, đẹp đẽ như người ở chốn thần tiên. Sau hơn một năm ăn ở với nhau, Từ Ngọc Đình có mang song cũng chỉ sinh được một người con gái đặt tên tục là Oánh. Người con gái này chính là Thanh Đường.
"Dì Đình có đi theo về đây không?" - Trần Huyên hỏi.
Lý Ban đỏ bừng mặt, nói.
"Kể ra thì thật xấu hổ, cũng may ở đây đều là người nhà nên không làm sao. Nguyên là ban đầu tôi không muốn để dì ấy theo, định bảo dì ấy ở lại trong kinh một thời gian rồi sẽ cho người đi đón dì ấy sau. Ai đời đi lánh nạn lại dắt dìu thiếp thất đi cùng bao giờ. Người ngoài mà trông thấy thì còn xem gia phong nhà ta ra làm sao nữa. Nhưng ông nhà tôi lại không rời được dì ấy nên không nghe. Con Thanh bênh mẹ đẻ nó, đứng trước mặt các cụ và cha nó nói rằng "nhà ta đời đời luôn có tiếng là có lượng dung người, chưa bao giờ có chuyện ruồng rẫy người ta, đến cả con hầu đứa ở phạm lỗi nặng cách mấy cũng không có việc ấy, nay lại chẳng vì một gì mà bỏ mẹ con ư? Thế chẳng khác nào trước nay mẹ con chẳng bằng một đứa ở, như thế thì sống làm gì nữa. Dân chúng thường nhìn vào những nhà lớn như nhà ta để noi gương, đáng lý lúc này phải gặp nguy không loạn, giữ vững nếp nhà, lòng dân mới vững. Thế mới gọi là hoạn nạn biết lòng người, dân sẽ càng tin phục. Bây giờ dân chưa loạn mà nếp nhà ta đã không giữ được, chỉ sợ rằng không phải việc hay. Mẹ con bị bỏ là việc nhỏ, nhưng quân tâm là việc lớn. Nếu người dân nghĩ ngay cả người đầu gối tay ấp cũng ruồng rẫy được thì người khác máu tanh lòng cũng bỏ đi được chẳng phải là sẽ nuôi mầm biến loạn ư?". Mấy lời ấy làm ai cũng đâm kinh sợ, đành phải để dì ấy đi theo. Dì ấy cũng khôn khéo, trước nay nếu có tiền bạc rất ít khi giữ bên mình đem tiêu mà đều đổi thành trâm vòng. Những thứ này đem đi vừa nhẹ hơn bạc mà cũng gọn gàng hơn. Chỉ mấy ngày, dì ấy đã dọn sạch trơn đồ đạc, chất gọn lên hai xe ngựa, tự bỏ tiền bạc ra thuê xe, không ai nói được gì cả, đành để mặc dì ấy đi theo. Cũng may trên đường đi không ai nhận ra dì ấy là thiếp của ông nhà, không thật chẳng biết giấu mặt đi đâu nữa."
Lý Ninh cau mày thở dài, nói.
"Tôi vẫn thường nghe câu tục ngữ "vợ cả chọn người hiền, vợ lẽ kén người đẹp", nhưng xem chừng như vậy cũng là nuôi cái hoạ bên mình."
Vũ Lý tuy còn ít tuổi nhưng đã hiểu ít nhiều việc đời, cậu ta hiểu ý trong câu chuyện các bác, các cô đang nói. Thoáng trông thấy sắc mặt Tử La có vẻ không vui, Vũ Lý liền lựa cách nói mấy câu chuyện khác khiến mọi người cười nghiêng ngửa, không để ý gì nữa cả. Một hồi, Lý Ninh hỏi đến việc ở những nơi phương xa, Vũ Lý lại kể những chuyện mình đã từng tai nghe mắt thấy khi đến phương Nam. Bà hỏi đến chuyện gì, Vũ Lý cũng ứng đối trôi chảy. Bọn chị em tuổi còn nhỏ, chưa được đi nhiều nơi, chuyện nào cũng thấy mới lạ, ai nấy đều nghe cậu kể đến say sưa. Vũ Lý thấy không khí đã ổn thoả hơn, bấy giờ mới yên lòng. Vừa lúc ấy, một a hoàn mặt đỏ như gấc, mồ hôi lấm tấm trên vầng trán mịn, chạy lên nói.
"Thưa bà, có cậu Thuỵ bên phủ Đông đến cho mấy thứ hương."
Lý Ninh gật đầu nói.
"Cô hãy ra tiếp cậu ấy, nói là ta cảm ơn, hôm khác ta có thời giờ sẽ mời cậu ấy đến để cô cháu nói chuyện." – Vân Tiêu buông rèm xuống, lui ra ngoài. Lý Ninh quay sang Vũ Lý, vui vẻ hỏi. – "Cháu ở phương Nam có nghe người ta nói gì về các thứ hương không? Trên phương Bắc này hương hiếm lắm. Vào các dịp lễ lạt thì càng không cần phải nói, có những lúc mang trăm cân bạc đi cũng chẳng mua nổi, chỉ cầm tiền đi cầm tiền về mất công thôi."
Vũ Lý đã đi nhiều, biết rộng. Những chuyện này cậu đều hiểu rõ như người trong nghề. Song, cậu hiểu lẽ lấy lùi làm tiến, tươi cười nói ngay.
"Cháu có biết chút ít, nhưng đời nào dám nói láo trước mặt bác. Cháu mới bao nhiêu tuổi, biết được bao nhiêu việc? Bác không hứa dạy cho cháu, cháu chẳng dám nói đâu."
Lý Ninh cười, nói với Cung Uyển.
"Cháu hãy xem đấy, tôi mới bảo nó nói một câu, nó đã nói những tràng giang đại hải, định ép tôi nói đủ điều để lận lưng làm vốn, sau này tích của riêng đi hỏi vợ đấy."
Lý Ban, Trần Huyên và Cung Ỷ nghe vậy cười rũ xuống. Bọn chị em cũng gục vào nhau, che miệng cười khúc khích. Vũ Lý nghe câu ấy, vành tai đỏ rần lên, gục vào lòng Cung Uyển làm nũng. Cung Uyển ôm lấy cậu, giục cậu kể chuyện tiếp cho vui. Bấy giờ, Vũ Lý mới bảo.
"Trên đường đi phương Nam, cháu có nghe cha nói chuyện với mấy người thương nhân bán buôn đủ thứ, họ có nhập cả các thứ hương về để bán. Cháu nhớ họ nói những thứ hương quý, khó mua, khó tìm được hàng thật, nguyên chi, nguyên chất bây giờ có mấy loại. Đó là trầm hương, tốc hương, bạch đàn, quế, long não, giáng chân, kỳ nam, uất kim, tường vi. Muốn tìm được những thứ này phải đi tuốt xuống phương Nam, vì phương Nam hoả thịnh, hơi lửa bốc lên, cho nên cây cỏ ở phương Nam được vượng khí của hoả bồi dưỡng cho, anh hoa phát tiết ra ngoài nên vật gì cũng có vị cay, mà hương thơm. Những dịp Tết, chắc cũng có người đem biếu nhà ta thứ Bài hương. Đó là thứ rễ hương bài được làm ra ở Nhật Nam đó. Hình dáng thứ này như cỏ bạch mao, hương thơm nức như xạ hương, dùng để làm thứ hợp hương, không có thứ nào thơm bằng. Thứ Hám lạm hương là hương nhựa cây trám, hình như sơn đen cũng không kém. Người Giang Đông lấy nhựa cây hoàng liên và nhựa cây phong làm hương trám vì cùng một loài. Nhưng nhựa trám có hương thơm nóng ngào ngạt, phẩm cách hơn hẳn hoàng liên và phong mộc, dùng để chế ra hắc tuyến hương. Lại có thứ Hương châu được chế ra bằng cách lấy hương nát, dẻo, viên bằng ba hạt đậu nhỏ, để xen kẽ với hạt lưu li và chỉ ngũ sắc, xâu lại thành một chuỗi như chuỗi hạt của đạo sỹ, dùng cũng tiện."
Lý Ninh cười nói.
"Những thứ Hám lạm hương, Hắc tuyến hương trước kia nhà ta cũng có đủ dùng đấy. Nhưng mấy năm nay giặc giã triền miên, loạn ly không dứt, nào có mấy người đi được đến phương Nam mà lấy đâu? Được có người bán thì cũng đều là giá trên trời. Ta sợ bọn thương nhân làm ăn gian dối, lấy một ít hương gốc trộn với những thứ khác rồi đem bán, đốt lên chẳng khác nào hương thường, chỉ dính một tý mùi của những thứ hương kia thôi. Nay cháu đã biết việc ấy, chốc nữa cháu hãy theo chị Ỷ đi xem giúp ta một chút, có được không?"
Vũ Lý cười nói.
"Nếu cháu có tài ấy thì cháu nào dám thoái thác. Nhưng bác đã lựa, có lẽ nào sai được? Bác thực là làm khó cháu, đẩy cháu vào thế phải vạch lá tìm sâu mà còn chẳng biết có tìm được không. Đừng thấy cháu trẻ tuổi ngâu thơ, cháu biết hết đấy."
Lý Ninh nghe vậy càng lấy làm vui. Lý Ban vuốt tóc Vũ Lý, cười bảo.
"Không biết mày giống ai trong nhà ta? Từ mẹ mày đến cha mày đều là cái bầu cưa miệng, thế mà lại sinh thế nào được đứa mồm mép bẻo lẻo, hỏi ai chẳng thương. Thôi, bác ấy đã nhờ, mày hãy bỏ ra chút sức, chớ có giở lối lười ra."
Vũ Lý cười nói.
"Trước mặt các bác, các cô, cháu nào dám nói đến tài với sức. Chẳng qua là mấy câu chuyện kể cho đỡ buồn mà thôi."
Mọi người đang cười nói, Trần Huyên chợt nhớ ra một chuyện, liền bảo.
"Cháu Thanh này, lọ dầu bôi đầu năm ngoái cháu gửi cho ta dùng tốt lắm, không giống như thứ ta thường dùng. Thứ ấy so với thứ dầu hoa quế mà các vị cung phi dùng ở trong cung thực là một chín một mười, nhưng ta lại càng thích thứ cháu làm hơn. Tuy từ nay cháu ở đây nhưng còn việc học hành, ta quấy quả cháu cũng không tiện. Chẳng bằng cháu bày cho ta cách làm thứ ấy để ta bảo người nhà làm, đỡ phiền tới cháu."
Vũ Lý cười nói.
"Cháu tưởng bác nhắc tới thứ gì chứ quý hoá gì cái ấy. Nếu như bác thích, cháu có thể làm cho bác một tủ, dùng từ giờ đến trọn đời cũng đủ. Lọ dầu bôi đầu đó cháu làm từ thứ hoa du, hoa ấy nở về cuối xuân, nhị tròn, trắng như hạt châu lớn, đã chiết thì giống hoa trà, hương thơm rất nhẹ. Hoa này có thể dùng để nấu nước thơm, phong vị cũng rất thú. Cháu hái hoa này, theo cách rất rượu mà cất lấy nước hoa làm dầu bôi đầu, lấy mấy giọt nước ấy bôi vào đầu thì thấy thơm mát như vậy. Ở phương Nam, nhưng nhà quý phái cũng thường dùng thứ này để tặng nhau."
Dao Chương nghe vậy thấy thú lắm, liền cười bảo.
"Thứ này hay quá, vậy mà từ trước tới giờ tôi chưa nghe đến bao giờ. Bây giờ anh đã nhắc đến, anh hãy làm cho chúng tôi mỗi người một lọ mới được."
Vũ Lý nói.
"Cô cứ kiếm đủ hoa ấy về đây thì muốn bao nhiêu tôi cũng làm đủ cho cô, chẳng khó khăn gì cả, chỉ mấy bữa là xong hết."
Tử La cũng cười bảo.
"Cậu Thanh mà gặp em Oánh nhà tôi thì hợp nhau phải biết. Hai người mà chung lưng mở hàng phấn son thì lời lãi không biết bao nhiêu mà kể."
Nói rồi, nàng ta kể với Vũ Lý chuyện của Thanh Đường. Vũ Lý nghe xong trong lòng cũng nôn nao, muốn gặp mặt một lần để thoả lòng mong mỏi. Tử La thấy Vũ Lý là người sảng khoái, trong lòng rất mến, hai người vừa gặp đã thân, ríu rít nói đủ thứ chuyện đông tây nam bắc.
Mọi người đang trò chuyện thì Thuý Liễu bảo mấy a hoàn nhỏ bưng mấy khay thuỷ tinh đựng các thứ hoa quả ướp lạnh lên cho mọi người dùng giải khát, đặt xen lẫn những khay hoa quả lại có những đĩa bánh mặn, bánh men và trà thơm. Lý Ninh hỏi.
"Cô đi đâu từ nãy đến giờ mới lên?"
Thuý Liễu thở dài, nói.
"Mụ Chúc bên chỗ cô Ly bảo con là tối qua có rắn bò vào nhà bếp, vậy nên con phải sang xem. Nhưng tìm một hồi mà vẫn không thấy ổ rắn đâu mà trời lại lạnh quá, đành cho mọi người về nghỉ, mai lại tìm tiếp. Con nghĩ cô Ly nhất thiết không nghỉ ở đó được nữa nên đương định trình bà xem đêm nay để cô đến đâu nghỉ tạm để con lo chuyện đệm màn."
Cung Ỷ nghe vậy vô cùng lo lắng, cau mày nói.
"Chuyện như vậy, sao chị không nói sớm?"
Thuý Liễu nói.
"Vừa nãy mụ Chúc mới nói với cháu việc ấy. Từ lúc biết chuyện tới giờ cháu vẫn quanh quẩn bên ấy tìm mãi, không được rảnh ra lúc nào, vậy nên bây giờ mới sang bên này được."
Cung Ỷ nhíu mày song cũng không nói thêm gì nữa. Vũ Lý thấy Thuý Liễu cúi đầu, vẻ mặt khó xử, liền bảo.
"Xin bác chớ vì việc ấy mà quá lo. Cháu từng nghe nói nếu nhà có rắn thì phải tìm cây quyết minh thảo trồng bốn phía vườn thì rắn sẽ không dám vào, như vậy là tốt nhất. Cây ấy mọc rất nhiều trong dân gian, chỉ cần bảo vài người trong phủ ta về nhà tìm xem thì thế nào cũng có."
Cung Ỷ nghe vậy thì mừng lắm, vội bảo Thuý Liễu đi sắp xếp. Tử La vừa nghe mọi người nói chuyện, vừa nhẩn nha ăn vải. Nàng vốn thích ăn thứ quả này, một lần có thể ăn đến sáu, bảy chục quả. Phi Ly thấy vậy lại lo nàng ăn nhiều bị tắc khí, sinh đờm nên khẽ đưa mắt nhắc. Tử La hiểu ý, bỏ cái dĩa bạc xuống, không ăn thêm nữa. Vũ Toả Trâm lấy đũa bạc đâm một quả vải, đưa cho Vũ Lý, nói.
"Cháu hãy nếm thử xem, đây là vải An nhân đấy. Thứ vải này vừa ngọt vừa thơm, mã ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải như thuỷ tinh, như giáng tuyết, thực không thể nói hết được. Các nơi khác cũng có vải ngọt nhưng hương thơm không thể bằng thứ vải này được đâu."
Vũ Lý vâng lời, nếm thử một quả. Trước đây, khi cậu đến phương Nam cùng cha và anh đã ăn chán thứ vải này rồi. Lần này, cậu nếm kỹ thấy không có gì mới lạ nhưng không nỡ làm Toả Trâm mất hứng nên vẫn khen ngon, nói.
"Cháu đọc các sách trong bộ Thuyết phu cứ khen vải ở đất Mân ngon nhất, nói rằng các thứ vải ngon có thể là nhất phẩm hồng, trạng nguyên hồng, còn bốn giống vải ngon khác chín muộn vào khoảng tháng bảy là Ma thắng, Bàn hoa, Kê dãn, Thước noãn có cùi dày, thịt lắm, hạt nhỏ như hạt đậu, ăn giòn và ngọt mát như đường phèn, có thứ quả dẹt không hạt ăn cũng ngon, giòn tan mà ngọt thanh. Nhưng xem chừng không thứ nào ngon bằng loại vải này cả."
Toả Trâm nghe vậy rất vui, cười nói.
"Nếu cháu thấy ngon thì chốc nữa ta sẽ bảo Ngân Thuý mang thêm sang cho. Nếu không cứ để ở chỗ ta thì hỏng mất, uổng cả công chú cháu cho người chạy ngựa mang từ Triều Dương về."
Nguyên là dạo trước, Trần Khắc Phi cùng các đại thần trong triều theo hầu Kim thượng và Vương mẫu dạo Ngự hoa viên. Kim thượng thấy cảnh ngói xanh lớp lớp, cỏ xuân ngút ngàn, oanh yến kêu ran, ngập tràn sinh khí. Bên mái đình, đôi cành hoè xưa đã trổ ra chồi mới. Quanh tường đỏ, mấy ngọn liễu đã lớt phớt điểm bông. Người liền lấy cảnh làm đề, bảo bá quan nối nhau làm một bài thơ. Trong cuộc vui ấy, hai câu "Quá chén ngủ tràn hương tuyết lạnh, Chẳng hay xuân ý cánh hoa che" của Trần Khắc Phi được Kim thượng ưng ý nhất. Khi ấy đúng vào dịp nước Nữ Man cống lên nhiều vải An nhân, Kim thượng liền lấy thức ấy thưởng cho chàng. Trần Khắc Phi biết ấy là thứ quý, không dám dùng một mình, liền cho vải vào ống tre để giữ tươi, niêm phong thật kín rồi thuê người chạy ngựa về Linh Nham dâng lên các cụ cùng cha mẹ. Sau khi dâng lên bề trên, Lý Ninh cho đem sang các nơi để mọi người cùng ăn. Song, Toả Trâm vốn có chứng rong huyết, không ăn được những đồ có tính nóng nên đành bỏ đó.
Cung Uyển nghe chuyện, gật đầu bảo.
"Ăn một quả vải cũng nhớ đến bề trên, ấy mới thực là hiếu nghĩa. Một chuyến đi về như vậy có phải tiêu ít bạc đâu."
Lý Ban cười nhạt, nói.
"Ấy là cô chưa thấy ông anh cô vung tiền thuê thuyền bè đưa mấy chục cây vải lớn từ phương Nam về Hải Âm rồi."
Thấy Lý Ban nhắc tới việc ấy, sắc mặt Tử La thoáng vẻ khó xử. Cung Uyển nghe vậy thì giật mình nói.
"Tôi thực không ngờ có việc ấy."
Phi Ly thấy trong khay toàn thức quả nóng nên không muốn ăn, chỉ uống trà thôi nhưng nhấp một ngụm lại thấy trà đặc quá, lại bỏ xuống rồi lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa, thấy bên ngoài màn the nhập nhoạng lá xanh. Chợt, nàng thấy sắc mặt Tử La không tốt. Nàng liền nhìn Dao Chương, Kim Khánh, trỏ tay ra cửa, thầm tỏ ý muốn ra ngoài. Kim Khánh và Dao Chương đã lớn, lờ mờ hiểu được ít nhiều. Thấy câu chuyện người lớn đương nói không phải việc mình nên biết, họ liền xin Lý Ninh cho đi thăm thú các nơi trong phủ. Lý Ninh dặn mấy a hoàn cẩn thận theo hầu rồi nhắc bọn họ giờ Dậu về dùng cơm chiều với bà. Bọn họ vâng lời, cùng nhau đi vòng qua phía sau bức bình phong vẽ cảnh "Hồng lô quan tuyết" rồi ra ngoài cả. Vũ Lý thấy họ đã đi rồi, theo ngay ra cũng không tiện, đành phải ngồi lại. Hắn không có việc gì làm, nhìn quanh quất cũng không thấy gì thú vị, đành ngồi lại đó lẩm nhẩm đọc mấy chữ trên đôi câu đối khắc chữ vàng treo trên cột chạm, thi thoảng lại hầu chuyện trưởng bối cho vui. Mọi người đương nói chuyện thì chợt có người hầu bên cụ là Thái Vân đi sang, nói rằng hôm nay con cháu đủ đầy, cụ rất cao hứng nên muốn sửa một bữa tiệc cho vui. Nhân bây giờ đương là ngày xuân, các cụ nói nên làm mấy chiếc đèn lồng đẹp, viết câu đố dán lên bên ngoài để mọi người cùng đoán. Ai đoán đúng, các cụ sẽ có thưởng. Như vậy, ngày vui này mới càng thêm nhộn nhịp. Lý Ninh, Lý Ban, Cung Ỷ đều khen trò chơi ấy rất hay, liền dặn dò các a hoàn đi nói việc này với con cháu trong họ, để họ cùng viết câu đố, dâng lên nhiều cho các cụ được vui.
Tử La biết việc ấy, lập tức nghĩ ra trò mới. Nàng ta dúi Phi Ly một cái, nói khẽ.
"Chơi bằng đèn lồng có sẵn không thú, chẳng bằng chúng ta khẽ sang bên vườn, xin mấy bà già coi việc đan lát ít nan tre về tự làm khung đèn rồi lồng giấy vào, viết câu đố lên trên, như vậy chẳng phải vui hơn ư?"
Phi Ly cười nói.
"Cái ấy hay thực, nhưng tôi làm không quen. Chỉ e đứt tay rồi làm gì cũng không tiện."
Tử La choàng tay qua vai nàng, cười bảo.
"Cô nhút nhát quá. Chốc nữa hãy xem tôi đây này."
Dao Chương cười cười, lắc đầu bảo.
"Mấy đứa này chỉ giỏi bày trò thôi, đứt tay thật rồi lại khóc nhé."
Bấy giờ, Yên Hoa cũng nhân lúc mọi người bàn việc soạn tiệc mà rời khỏi chỗ Lý Ninh, mang những đồ vật Lý Ninh cho Thanh Đường đến buồng cô ta nằm. Vừa mở cửa, chị ta thì đã thấy một a hoàn bận áo đoạn vóc hoa màu lục đương phủ trướng giao, còn Thanh Đường thì nằm trên gối ngọc, ngoảnh mặt vào tường, xem chừng khó chịu lắm. Yên Hoa khẽ gọi mấy tiếng, a hoàn đó đưa tay lên môi làm hiệu yên lặng rồi mở một hộp nhỏ, lấy một thanh hương trầm thuỷ đốt lên, bỏ vào lư phỉ thuý để mùi hương chầm chậm toả ra khắp phòng. Chị ta đốt hương rất khéo, đốt mà không trông thấy khói, giúp tinh chất của hương được thoát ra mà không bị lửa đốt cháy hết. Xong xuôi, chị ta sẽ dặn Yên Thuỷ ở lại trong buồng hầu hạ Thanh Đường rồi nhẹ bước lui ra. Thấy bên ngoài không có ai, chỉ có mỗi Yên Hoa đương tựa lan can, nương theo ánh đèn lồng cùng ráng trời chiều nhàn nhạt mà lấy kim châm hoa mạt lỵ. Chị ta liền đến gần, hỏi.
"Có việc gì mà gọi tôi thế?"
Yên Hoa ngẩng lên nói.
"Bà lớn cho cô Thanh mấy thứ này, tôi không dám đem vào nên định gọi chị ra hỏi xem thế nào." - Nói đoạn, cô ta chỉ hai chiếc hộp nhỏ, bảo. - "Cũng chẳng có gì đáng giá, cô ấy mà nhìn thấy thế nào cũng giận. Chị đem vào tính xem thế nào, tôi đang dở việc."
Thuý Hoàn bật cười, cầm hai chiếc hộp lên, kéo áo Yên Hoa một cái, nói.
"Việc gì? Thật là ngồi rỗi bày trò. Thôi, đi vào trong buồng rồi làm, ngồi ở đây để muỗi khiêng đi à?"
Yên Hoa thấy có lý, liền cùng Thuý Hoàn đi vào phòng bên buồng của Thanh Đường. Thuý Hoàn mở hộp ra, thấy bên trong đựng mấy thứ bánh. Một ngăn đựng món bánh táo đỏ nhân hoài sơn, một ngăn khác đựng món bánh bột ngó sen thoảng mùi hoa quế. Ngăn dưới cùng là mấy thang thuốc quý bí truyền như "khai khiếu thông thần tán". Yên Hoa ngừng tay, ngó đầu vào nhìn một cái rồi cười nhạt, cầm kim khêu tiếp nhị hoa. Thuý Hoàn xem xong, sắc mặt như thường, đóng nắp hộp lại, cười nói.
"Thuốc thì để lâu được, nhưng những thứ bánh này nếu ăn ngay được thì tốt, để lâu nguội mất sợ không ngon mà hấp lại thì bột nở ra rất nhão. Giận là lúc nãy tôi trót ăn mấy cái bánh sữa nên đang đầy hơi, không sao nếm thêm được."
Yên Hoa nghe vậy liền nói.
"Vậy thì chị cất đi, tôi chẳng buồn ăn thứ này."
Bấy giờ, Lãm Thuý đương ngồi đó xem bức thêu. Thuý Hoàn thấy Yên Hoa nói lỡ lời, liền đưa mắt ra hiệu cho cô ta. Yên Hoa cũng biết mình buột miệng, liền nói sang chuyện khác để xí xoá câu chuyện.
"Chốc nữa nếu đói, chị bảo người xếp cả vào một cái bát sứ rồi bỏ vào chậu nước nóng. Như vậy chẳng phải ấm vừa đủ mà cũng không lo bột nhão ư?"
Thuý Hoàn cho là phải, liền cầm hộp bánh ra ngoài, định xuống dặn dò nhà bếp. Lãm Thuý thấy không tiện ngồi lại với Yên Hoa, cũng đi theo. Đi được chừng nửa, chị ta chợt thấy một bóng người áo xanh thấp thoáng trong vườn hoa, tay cầm chiếc đèn lồng toả ánh sáng nhàn nhạt. Trông hình dung thế nào cũng không giống những bà già coi vườn hay a hoàn nào đó ra hái hoa về phòng hoa đưa đến các nơi. Thuý Hoàn hơi sợ, đánh bạo gọi một tiếng.
"Ai đấy?"
Người kia nghe tiếng gọi liền quay lại. Lãm Thuý trông thấy rõ ấy là một người con trai thì sợ tái mặt, không cần biết thế nào, kêu lên một tiếng rồi kéo tay Thuý Hoàn chạy một mạch xuống nhà bếp. Vừa xuống tới nơi, cô đã gọi bà Lưu ra trách mắng.
"Các bà trông coi thế nào mà lại để đàn ông con trai vào chỗ này? May hôm nay là tôi, nếu là cô nhìn thấy, chẳng biết sẽ còn những chuyện lôi thôi gì nữa. Ai cho cậu ta vào thì đuổi ngay cậu ta ra đi."
Bà Lưu chạy ra, cười nói.
"Cô thực là hồ đồ rồi. Cô ở nhà này đã mấy năm, vậy mà ngay cả cậu ấy cô cũng không nhận ra ư?"
Lãm Thuý cau mày, nói ngay một tràng.
"Từ ngày tôi về đây, tôi chỉ biết có việc hầu hạ những việc ăn ngủ của các cô, nào có biết đến những việc khác? Ấy là chuyện tôi có thể biết ư? Nếu hôm nay tôi nhận ra cậu ấy là ai thì tôi khác nào phường đĩ bợm, đứa con trai nào cũng quen mặt? Thế mà xứng làm giống người ở trong nhà này à?"
Bà Lưu thấy chị ta nóng lên, đành nín nhịn, thở dài nói.
"Cô không cần phải nóng giận mà nói những lời ấy với tôi với tôi. Nếu cậu ấy là người ngoài thì tôi đâu dám thế. Nhưng đằng này cậu ấy lại chẳng phải người dưng, mà là cậu hai bên nhà Võ hầu đấy. Cô tính xem, Võ hầu lấy cô em của thím Hai nhà ta làm vợ cả, tức là cô Uyển đó. Cậu ấy là con vợ lẽ, phải gọi cô Uyển là mẹ. Như vậy chẳng là có họ gần với nhà ta còn gì."
Lãm Thuý gắt.
"Người ngoài với người trong, có họ hay không có họ tôi cũng mặc. Bà đi mà nói chuyện này với các cô, kẻo họ lại hoảng sợ."
Thuý Hoàn thấy đôi bên lời qua tiếng lại, lo đến tai các bà thì không hay, liền chạy đến điều đình.
"Chị cứ khéo lo. Các cô nhà ta có phải như con gái nhà khác đâu. Còn cô Thanh thì càng chẳng cần. Trên đời chỉ có chuyện người ta sợ cô ấy chứ chẳng hạng nào mà cô ấy sợ."
Lãm Thuý đương định đáp lời thì chợt thấy trong vườn có tiếng xôn xao. Họ cùng nhìn ra thì thấy một bà già chạy xộc vào, không biết định làm gì.
*
Bình luận
Chưa có bình luận