Phần I: Hạc kêu hoa đình. - Chương 1.






Mưỡu:
"Đoạn trường trong mộng căn duyên hết
Bạc mệnh đàn xong oán hận còn."

Nói:

Hồi thứ nhất này là hồi mở đầu của toàn bộ câu chuyện. Chuyện sắp nói sau đây không phải thứ văn chương như ngọc chuốt, gấm thêu mà chỉ là một câu chuyện đầu đường xó chợ tạm bợ thơ ngây, kể ra để mua vui lúc rỗi nhàn. Trong chuyện không có anh hùng cái thế, không có giai nhân tài tử, chỉ có đôi ba chuyện vặt, nói về việc kẻ dở người hay, chút việc đời đúng sai tốt xấu. Việc trong chuyện là có thật, cũng có thể chưa có bao giờ, đừng nên xem trọng, chớ có buồn rầu, bởi dẫu sao cũng chỉ là chuyện kể mà thôi.

Xưa nay, tôi vẫn biết phận mình như bồ liễu mong manh, như bóng trúc in mặt nướcnhư áng phù vân phiêu bạt lững lờ. Tôi chỉ mong giữ vẹn lấy mình, sống một đời yên ổn, chẳng màng công danh, chẳng vương phong tuyết. Nhưng đã trót sinh trong chốn giời tình mang mác, bể hận mênh mông thì nào dễ thoát được nghiệp chướng đa đoan mà tự mình đã gây tạo từ vô thỉ kiếp xa gần? Than ôi, biết là "Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa". Con người bị tội nghiệt che mắt mà sa mãi sa hoài vào những nẻo mịt mùng u minh miên viễn. Kẻ đời trách gió đông lạnh lùng, than trời cao bạc bẽo, hận con tạo vần xoay, buồn sòng đời đen đỏ. Nhưng tôi chỉ tự buồn nỗi mình hãy còn mê dại, chỉ mải tham lục tích hồng, thương xuân bi thu, chìm trong cõi miền đắm đuối si cuồng của tình điên mà chẳng hay chuyện tu tâm dưỡng tính cho thành tựu cái tâm tưởng huyền xa mới là việc để đức thiên thu, thế rồi để nên nông nỗi hỏng cả gia phong lễ tiết. Mối hận dằng dặc từ thuở ấy đã sơ khai muôn đời ngàn thuở chẳng bao giờ nguôi ngoai chẳng đoái hoài luân thường chẳng tương nhường luân lý. Nhưng tôi ngẫm trong chốn Ta Bà tàn ngược này đâu phải chỉ mình tôi mang nặng nợ tình. Nếu chỉ riêng phận mình tôi thì sông Tiền Đường đã chẳng vùi bao xác ma oan. Thân trúc Tương phi cổ kim đã chẳng lằn tím màu nước mắt. Tôi kể chuyện này trước là để cười cái lẽ người khôn thì hay gặp truân chuyên, chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn, sau là để trình diện cái xứ hư vô làm gương ở đó cho hậu thế nhìn mà chớ nên bắt chước, mà sớm sớm tỉnh đi để trở về cõi ban sơ tịch mịch về chốn hoằng viễn thái hư. Tôi vốn không phải người đọc rộng hiểu nhiều, tinh thông thi thư kim cổ. Lời văn tôi viết ra không tránh khỏi thô mộc tục tằn, đôi khi vì gượng bắt chước cổ nhân và mắc phải cái lỗi gò câu đẽo chữ, hoa mỹ sáo rỗng. Nếu độc giả vì đó mà không vui thì tôi đành xin nhận tội về mình. Bởi đây là thứ chuyện mua cười cho thiên hạ nên chẳng có gì là đáng ngẫm, vậy tôi xin đặt nhân vật của mình trong một giấc mộng để rõ hơn cái mông lung, mơ hồ, không bền, không thực ấy, lại gọi nhân vật mang câu chuyện đến là Vi Hi Nhâm. Nói là chuyện thì đó cũng chỉ là một câu chuyện điên ngốc đáng cười, nhưng chắc là cũng đủ để lấy ít nước mắt thương vay của những kẻ cùng mang một kiếp hoa nghiêm nặng nợ, những kẻ cùng một nòi tình, cùng có một tính ngốc ấy. Câu chuyện ấy kể ra cũng đủ mọi nỗi buồn vui thương đắng. Nếu có độc giả hữu duyên nào cảm thấy những việc ấy có đôi phần thú vị thì có thể xem câu chuyện ấy là thứ để giải buồn những khi nhàn rỗi. Nếu các bạn cảm thấy mọi thứ quá đỗi lạ lùng, không thể hiểu được thì cũng không hề gì. Bởi tất cả chỉ là chuyện hoang đường của một con ma mang tình chấp nặng sâu. Mà suy cho cùng, những điều ấy vốn là thứ chẳng đáng tin, đáng nhớ.

Vi Nhi Nhâm tự là Duyệt Minh, nguyên là người ở đất Manh, gần thành Cổ Hoặc, trước học giỏi đỗ đạt, được bổ làm quan huyện lệnh vùng ấy. Sau này, vì không chịu nổi vòng kiềm toả mà treo ấn từ quan về chốn hương thôn, hành lý không có một cắc bạc nào, chỉ vẻn vẹn một cây đàn cầm, một mái đầu bạc. Ông cứ vậy sống cảnh mai thê hạc tử, lấy nghề chèo thuyền đưa khách đi qua sông Thương làm thú vui. Một ngày, có người khách lạ lên thuyền. Người này đưa cho Vi Hi Nhâm mười hai đồng hào, bảo ông chèo thuyền theo lối mình chỉ dẫn, đến nơi rồi sẽ trả công sau. Vi Hi Nhâm hơi nghi song vẫn gật đầu. Khi chống thuyền ra khỏi bóng cây, ông mới trông rõ vị khách này là một cô gái độ mười lăm, mười bảy tuổi. Mặt mũi cô ta trắng nhợt như sứ, mái tóc buông xõa như mực. Cô ta ăn vận trang điểm theo lối con nhà quyền quý, trên mình mặc áo dài đen huyền thêu hoa văn chim hạc vờn mây, trên tay cầm một cây đàn tỳ bà chạm những hoa văn sơn mài óng ánh. Cả đường đi cô gái ấy chỉ lên tiếng khi bảo ông lái đò rẽ hướng, ngoài ra tuyệt nhiên không nói một câu nào. Vi Hi Nhâm đi theo lời dặn của cô. Chiếc thuyền nhỏ rẽ nước băng qua muôn dặm sông biếc, ngàn trùng núi xanh. Trên núi hạc đậu đỉnh tùng, đỉnh đồi mây sương bảng lảng. Vi Hi Nhâm chèo đò đã lâu trên sông Thương mà không hề biết rằng quanh dòng sông này có thắng cảnh đẹp đẽ như vậy. Đến một ngọn núi, cô gái bảo Vi Hi Nhâm rẽ vào một hang đá nhỏ dưới chân núi, trong hang rất tối, càng vào sâu càng lạnh, nhũ đá nhỏ nước xuống ướt đẫm áo, song cô gái vẫn điềm nhiên như không.

Đi mãi, đi mãi, cuối cùng Vi Hi Nhâm cũng nhìn thấy ánh sáng le lói đằng xa. Khi ra khỏi hang sâu, ông thấy một vùng núi xanh nước biếc đẹp đẽ vô ngần. Sát hai bên bờ mọc một rừng hoè trải dài đến mấy trăm thước, hoa nở trắng ngà, phảng phất như không bao giờ tàn úa. Trên bờ có hàng dãy nhà nối tiếp nhau, nhà nào cũng tường quét vôi trắng, mái lợp ngói đen, bốn góc cong vút, bên trong vang vang tiếng đàn ca sáo nhị, tiếng nói cười thanh thanh. Vi Hi Nhâm đưa cô gái đến bên bờ rồi định quay thuyền về nhưng thấy khát, ông toan múc nước dưới sông lên uống một ngụm nhưng cô gái đã ngăn lại và nói.

"Ông có chuyện không biết, đây là nước sông Tham, tuy sạch nhưng chẳng phải thứ để uống đâu. Ông đã đưa tôi về được đến đây cũng là có duyên đó. Đã vậy xin mời đi theo tôi vào trong kia để tôi trả tiền đò."

Vi Hi Nhâm theo bước cô gái đi vào trong. Chợt, ông trông thấy một cung điện tường bằng đá xanh, cửa bằng phiến bạc, bên trên có bức hoành phi đề mấy chữ "Thiên địa thứ tử chi cung". Vi Hi Nhâm tò mò, liền đi đến gần xem thử. Chẳng ngờ, ông vừa đẩy nhẹ một cái, cánh cửa đã mở ra. Bên trong nào là lầu vàng điện ngọc, màn ngọc rèm châu, cỏ lạ hoa thơm ngào ngạt, cảnh tượng thực không vướng chút bụi trần nào.

"Xin hỏi cung này rộng lớn mà sao trống vắng thế?"

Tiên cô nói.

"Ông không được hay đầu đuôi chuyện này. Nguyên chủ cung này là Thanh Long tiên đồng, hiện người đương xuống trả một món nợ còn vướng víu ở trần gian, chưa thể về ngay được. Mẫu Hoàng giao cung này cho chị em chúng tôi coi sóc, thường ngày ngoài việc quét tước dọn dẹp, chăm hoa tưới cỏ thì luôn luôn đóng cửa, không ai được vào. Vì vậy mới có vẻ tịch mịch như vậy."

Vi Hi Nhâm nghe nói, thắc mắc hỏi.

"Tôi những tưởng các vị phải trả hết nợ trần rồi mới có thể đến cõi này, chẳng ngờ người cõi này cũng có những mối duyên nợ chưa dứt sạch ư?"

Tiên cô cười bảo.

"Chuyện này nói ra thì rất dài. Từ ngày ấy đến nay cũng đã mấy trăm năm rồi mà mối duyên nợ ấy vẫn còn dây dưa chưa dứt. Chỉ vì năm xưa, thần nữ Linh Doanh bị chiến thần Phi Khanh bắt về làm vợ. Một dịp gặp tiệc Quần Tiên, Tiêu Minh tiên quân gặp Linh Doanh, biết được chuyện này, trong lòng thấy bất bình thay cho cảnh ngộ đồng sàng dị mộng ấy, liền tâu với Mẫu Hoàng cảnh ngộ của Linh Doanh, xin người gỡ mối khổ sầu ấy. Mẫu Hoàng không thuận ý. Việc tưởng đến ấy là xong, nhưng chẳng ngờ Phi Khanh nghe được chuyện ấy, nổi cơn thịnh nộ, tìm giết Tiêu Minh. Sau khi hạ được Tiêu Minh, Phi Khanh chặt xác tiên quân này ra làm nhiều đoạn, trấn yểm ở bốn phương thiên hạ. Phi Khanh sau ấy bị phạt rất nặng. Thần nữ Linh Doanh đau lòng khôn xiết, khóc mù hai mắt, từ ấy lòng lạnh như tro, luôn luôn ở trong cung Lãnh Hương. Hai mắt của thần nữ trôi theo dòng lệ, được một con trai nước bao bọc, ngàn năm sau kết thành hòn ngọc, lại được loài Xích Cầm ngậm trong miệng, trăm năm sau sinh thành người con gái. Xích Cầm hoá thân làm một tiên quân, đặt tên cho nó là Đan Thanh, cắt phù dung may thành xiêm áo, lấy lan huệ kết thành hài phượng, dùng sen súng tô điểm dung nhan, đưa đến núi Vọng Hương học nghề ca múa trên Thiên thượng. Dịp Mẫu Hoàng mở yến hội, có triệu đội nhã nhạc ấy đến góp vui. Mẫu Hoàng nghe Đan Thanh hát múa rất khéo, hơn hẳn mọi người liền giữ lại làm cung nga. Oan nghiệt từ đây mới bắt đầu nảy sinh."

"Một dịp Thanh Long tiên đồng vào cung Ngọc Phòng thăm hỏi Mẫu Hoàng. Bấy giờ, Đan Thanh đương ở sau rèm sa gảy đàn tranh. Thuở còn ở Vọng Hương, nàng ta đã nghe tiếng Thanh Long tiên đồng văn võ toàn tài, rất tinh thông âm nhạc, lòng chợt tò mò không biết dung mạo người thế nào liền cố ý gảy nhầm một dây để tiên đồng ngoảnh lại. Khi tiên đồng quay lại, nàng ta chợt thấy đau lòng, chảy nước mắt. Đôi bên nhìn nhau lâu hơn nửa khắc, Mẫu Hoàng đã có ý không vui. Nhân thấy giọt nước mắt của Đan Thanh rơi xuống làm đứt dây đàn Diệu Ngọc, liền đày nàng xuống hạ giới ba kiếp để tu tỉnh. Thanh Long thấy vậy, lấy làm lạ kỳ, liền đến gặp Thanh Nữ, Hồng Ty cai quản điện Tích Cơ hỏi rõ việc này. Hai nàng Thanh Nữ, Hồng Ty liền mở sổ ghi, xem xét thật kỹ rồi hỏi Thái tử còn nhớ việc cho Xích Cầm vảy hộ tâm mấy trăm năm trước hay không? Hoá ra, năm ấy Xích Cầm xin vảy hộ tâm của Thanh Long để tạo thành lớp giáp, bảo vệ bên ngoài cho hòn ngọc nọ. Trên tấm vảy còn dính máu và thần lực của tiên đồng. Đan Thanh hấp thụ linh khí từ ấy và từ nội lực của Xích Cầm mà được sinh ra. Thành ra, đối với Đan Thanh, Thanh Long có ơn cắt thịt trích máu, dung dưỡng ngàn ngày, bởi vậy mới xảy ra sự tình như vậy. Thanh Long nghe vậy lấy làm thương cảm, ngẫm lại việc này cũng vì cơ duyên từ trước nên mới thành ra như vậy liền xin thần Đế Vĩ, Mẫu Hoàng cho phép xuống trần theo Đan Thanh để đôi bên trang trải sạch mối tơ duyên còn mắc míu, không còn vướng bận, hoá tình duyên thành pháp duyên, cùng lên thiên thượng, giúp đỡ chúng sinh. Thần Đế Vĩ cho rằng việc ấy hợp tình hợp lẽ, liền chuẩn y cho. Trước khi giáng xuống, Đan Thanh nói "dưới trần người đông như nước, làm sao mà nhận ra nhau". Thanh Long đáp "người có căn duyên, ắt sẽ gặp lại". Song Đan Thanh vẫn không yên lòng, nàng ta cắn ngón tay rớm máu rồi điểm một nốt chu sa vào giữa trán Thanh Long, lấy ấy làm dấu để nhận nhau. Không ngờ cũng lần ấy, có một việc phiền phức xảy đến làm không biết bao nhiêu kẻ mang cái án phong lưu, cái nợ tài tình thiên cổ dây vào chuyện đó. Thành ra một chuyện vốn đơn giản mà cứ dùng dằng mãi, chưa thể kết liễu được."

Vi Hi Nhâm nghe vậy thì lấy làm lạ lùng lắm, liền hỏi.

"Thưa, việc ấy là việc gì? Chẳng lẽ lại có việc có thể lay động được chánh niệm của bậc đạt đạo ư?"

Tiên cô cười bảo.

"Không phải tôi muốn giấu gì ông mà việc này nói ra lại là một câu chuyện dài không biết đến bao giờ mới hết. Vậy xin ông hãy đi theo tôi vào nhà trong trước đã, rồi chúng ta sẽ từ từ nói chuyện."

Vi Hi Nhâm xin theo lời. Cô gái liền dẫn ông đi qua cổng vòm, vòng qua một dãy xuyên đường rồi men theo hành lang có lan can sơn đỏ, đi sâu vào trong, đến một chốn đình viện nguy nga, giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "cung Hiệu Khiết", đôi bên có hai câu đối sơn son thếp vàng "Mây phủ đầu non, bước tới đầu non mây chẳng có/ Trăng chìm đáy nước, mò sâu đáy nước trăng là không". Nơi đây, xà chạm cột vẽ những hình long ly quy phượng, không thứ gì là không khảm châu báu ngọc ngà óng ánh. Đến một căn phòng, cô gái vén chiếc màn thêu bát tiên lên cho ông bước vào. Vừa vào, ông đã choáng mắt lên vì vẻ xa hoa diễm lệ. Chính giữa phòng đặt một bộ bàn ghế đính san hô, xích châu, màu sắc rực rỡ. Trên bàn bày các bình hoa lưu ly đựng hoa triêu khai dạ hợp lừng hương. Trên bức tường trong phòng sách treo mấy cây đàn quý khảm xà cừ, giữa phòng bày đỉnh báu nạm ngọc châu và các thứ đồ vàng bạc. Trong phòng hương thơm ngào ngạt, sạch sẽ vô cùng, nhìn thế nào cũng thấy đây là nơi ở của đàn bà con gái. Vi Hi Nhâm ngây ra một lúc rồi thấy thẹn, định lui ra. Đúng lúc ấy, có ba cô gái từ bên ngoài bước vào, phục sức của ba người này mỗi người một vẻ. Thấy ông đến, bọn họ không giận mà mừng, liền đưa ông ra nhà sau, bảo các cung nga dọn tiệc đãi khách. Trong bữa tiệc, các tiên cô cho ông uống thứ rượu Giác Thanh, ăn bánh Diệu Ngọc, ăn quả Trường Sinh. Vi Hi Nhâm ăn từng thức, thấy trong mình phiền não vơi hết, người nhẹ hẳn đi. Song lúc ấy, một ban hát gồm mười hai cung nga xinh đẹp bước lên đài, bắt đầu múa hát. Mấy câu đầu tiên "Cảnh xuân rực rỡ bốn bề, Lầu hồng bụi rắc, người về chốn nao, Dầu cho đất ngả trời chao, Hận này ngất ngưởng..." cất lên, Vi Hi Nhâm vẫn không thấy điều chi cả. Ông điềm nhiên ngồi uống rượu, nghe hát. Bốn vị tiên cô thấy vậy thì truyền lệnh xuống, nói.

"Hôm nay có khách quý đến đây, không nên múa hát qua loa, hãy diễn một vở thật hay để chúng ta cùng xem."

Các cung nga hỏi diễn vở gì. Bốn vị tiên cô truyền.

"Diễn vở "Đào viên ký mộng"."

Cung nga mỉm cười, bắt đầu múa hát. Tiếng hát trong trẻo du dương, tay áo hồng uốn lượn uyển chuyển. Vi Hi Nhâm nghe xong một lượt, tự nhiên trong dạ đâm bồi hồi mê mẩn, thốt lời thở than.

"Không biết những khúc này ở đâu mà nghe ra muôn oán nghìn sầu như vậy?"

Bốn vị tiên cô cười nói.

"Hay lắm, hay lắm. Ông đã hỏi câu ấy, chúng tôi xin được nói cho ông nghe."

Vi Hi Nhâm nghe nói, xin rửa tai lắng nghe. Các vị tiên cô nói.

"Ông có nghe chăng? Đức Phật nói: Hết thảy chúng sinh ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn lộn. Duy Nhiên Thế Tôn hỏi: Thế nào vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn lộn? Phật nói: Được lắm! Nhà ngươi để ý, ta giảng cho nghe:

"Lời giảng ấy như thế nào? Nay chúng tôi xin nói lại cho ông được biết ngọn ngành. Đức Thế Tôn giảng rằng:"Cõi đời vốn là một bể không lớn thường tự hoà hợp, không phép gặp mặt; thường tự vắng lặng, không phép ly biệt; không có ta, nó không phải không kể nhất thiết đều đủ, không thể kể được. Nhưng mà chúng sinh, vì cớ vô minh, chẳng giữ tính mình. Tự nhiên nghiệp chướng, như sức gió thổi, xui cho nghĩ càn, chăm chú tỷ mỷ. Bắt đầu từ chỗ không ta trong sạch, suy xằng tính bậy, bảo đây là ta. Đã có ta rồi, ngoài ra chúng nó không phải là ta, tự nhiên không thể không gọi là người. Vì thế lần lượt, bao nhiêu những kẻ không phải là ta, mà gọi là người, cũng đều suy tính, và đều tự bảo: Đây chính là ta. Đã đều tự bảo đây chính là ta, thì đối với ta, tự nhiên chúng nó đều cho là ta không phải với chúng nó. Không phải chúng nó, thì tất chúng nó không thể lại gọi ta là người. Bọn chúng sinh ấy cùng sinh một nước, hoặc một bộ lạc, có khi một nhà. Đối với lẫn nhau, sinh lòng mến yêu. Vì cớ mến yêu, sinh ra không biết. Khăng khít lâu ngày, gây nên ân nghĩa. Ân nghĩa sâu nặng, bầy ra lời nói. Hoặc khui tựa vai. Hoặc khi kề đùi. Hoặc khi giắt tay. Hoặc khi ôm ấp. Nhẹ lời khẽ tiếng, chỉ bể thề non, rằng "tôi ở đời, chỉ yêu một người. Mà một người ấy, tức là mình đó! Tôi thực không yêu một người nào khác". Và lại nói rằng:"Nay tôi với mình, tức là một người, không có phân biệt". Và lại nói rằng:"mình không phải mình! Tôi không phải tôi! Mình mới là tôi! Tôi mới là mình!". Khi đã nói ra những lời như thế, đôi tình yêu mến như đôi nai khát, chạy vào đống lửa! Không thích lời can của người ngoài cuộc. Cũng không để cho những người ngoài cuộc được biết chuyện mình. Ở ngay trong nhà, xây một lầu cao. Sửa sang, trang sức, cho rất xinh đẹp. Giữa đặt giường êm, hai đầu bầy gối. Ống tiêu, ống địch, đàn, sáo, tỳ bà, các thứ âm nhạc, bầy ra không thiếu. Rồi đó hai người, ngồi ở trong lầu, lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm, nhất thiết những việc người đời thường làm, thì hai người ấy cũng đều làm cả. Bốn mặt lầu ấy đều xây tường cao. Thang, bậc ở dưới lầu, cất bỏ không để. Không để cho ai có thể nom dòm. Cũng không để cho ai được lên tiếng gọi. Hạng chúng sinh ấy chìm ở trong bể, lăn lộn nghĩ càn. Vì nhân nghĩ càn, làm chuyện lăn lộn. Vì duyên lăn lộn, lại sinh nghĩ càn. Nghĩ càn! Nghĩ càn! Lăn lộn! Lăn lộn! Hạng chúng sinh ấy, sa vào trong đó, kể từ một kiếp, cho đến hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, rồi hàng nghìn kiếp. Như kẻ say rượu, mờ mịt mê man. Bệnh ấy ít thuốc có chữa sao nổi!"

"Thế Tôn đương ngồi, liền đứng ngay dậy, sụt sùi khóc mếu, lại thưa Phật rằng: Lạy đức Đại Từ! Hạng chúng sinh ấy, sao độ được họ? Phật dậy: Được lắm! Nhà ngươi để ý, ta nói cho nghe:

"Hạng chúng sinh ấy, không thể độ thoát! Dù đức Như Lai, đại từ, đại bi, nhiều cách thuyết pháp, rất là khôn khéo, cũng không làm sao độ thoát được chúng! Huống chi kém ngài: Bọn tu đà hằng, bọn ty đà xá, bọn tích chi phất, có làm thế nào mà độ chúng thoát?"

Thế Tôn khi ấy lại thưa Phật rằng: Lạy đức Đại Từ! Hạng chúng sinh ấy, như lời Phật dậy, thì chúng không bao giờ được độ thoát sao? Phật rằng: Được lắm! Nhà ngươi để ý, ta nói cho nghe:

"Hạng chúng sinh ấy, độ sao được thoát! Ví phỏng kiếp trước, có dầy phúc đức, thì hoạ may ra, có độ thoát chăng! Nhưng là chúng nó, lại tự độ lấy. Chứ không phải ai có thể độ được! Thế nào lại bảo: đáng không độ thoát, bỗng được độ thoát? Mà lại là chúng tự độ thoát; chứ người ngoài không thể độ được? Nhà ngươi để ý, ta nói cho nghe! Hạng chúng sinh ấy, đương lúc lăn lộn, phúc đức kiếp trước, bỗng dưng tới nơi thì chúng nó sẽ cùng nhau ly biệt. Hoặc vì việc quan, mà sinh ly biệt! Hoặc vì lệnh vua, mà sinh ly biệt! Hoặc vì giặc giã gay chuyện binh đao, mà sinh ly biệt! Hoặc vì kẻ thù tìm phương hãm hại, mà sinh ly biệt! Hoặc vì kẻ mạnh ra tay bắt hiếp, mà sinh ly biệt! Hoặc tự chán ghét, mà sinh ly biệt! Hoặc nghe dèm pha, mà sinh ly biệt! Có khi hoặc vì nghiệp báo đã hết, kẻ chết, người sống ly biệt mãi mãi! Nhà ngươi để ý: ly biệt là trí thức rất hay cho bọn chúng sinh nghĩ càn lăn lộn. Ấy là thuốc hay chữa bệnh mê đắm. Ấy là dao sắc cắt dây ái ân. Ấy là đường phẳng, dọn sạch chông gai. Ấy là lệnh xá tha tội trói buộc. Nhà ngươi để ý: Hết thảy chúng sinh, rất khổ ly biệt. Rất khó ly biệt. Rất trọng ly biệt. Rất giận ly biệt! Nhưng vì nhờ sức phúc đức kiếp trước, cho nên tất phải có lúc ly biệt. Một khi ly biệt, ly biệt hết thảy! Thẩn thơ ngồi rồi, như mơ chợt tỉnh. Trong lòng nhẹ nhõm, chẳng cũng sướng sao. Nhà ngươi để ý: Ví phỏng chúng nó từ ngay kiếp trước không có phúc đức thì đến kiếp này, không ly biệt nổi. Đã không ly biệt, tất lăn lộn mãi. Lăn lộn mãi sinh chán ghét nhau."

"Thế Tôn bao dung vô lượng, hết lời giảng dạy, những mong ra tay tế độ cứu người trầm luân. Nhưng kẻ nặng nghiệp lực như bị ma che mắt, bị quỷ dẫn đường, cố chấp không buông, không nghe không hiểu, nhắm mắt bịt tai, nhất mực đi vào cõi khổ. Những kẻ ấy chẳng phải nói đâu xa mà chính là vị Đan Thanh ban nãy tôi đã bảo ông đó. Chính vì cô ta nên mới gây ra cơ sự đoạn trường này. Những khúc ông vừa nghe đều là khúc do một vị Linh Quan trên Thiên giới viết để than thở câu chuyện ấy. Nếu nói rành rẽ ngọn ngành chuyện này, phải kể từ thuở xưa, xưa lắm, có một nước nọ gọi là nước Hoài. Thuở mới lập nước, Tiên vương chọn đất Triều Dương làm đế đô. Khi ấy, có một ông thầy địa lý mù loà, chân thọt thất thểu đi ngang qua vùng ấy. Chợt nghe thấy tiếng đập đá xây thành, ông ta giật mình nói.

"Mạch hoàng long thì đáng ra phải có nhiều chướng kết mới quý, chứ không có chướng kết như ở đất này thì hiếm lạ nỗi gì. Nghiệp đế mà phát ở đây thì cũng ngắn đời thôi. Vả lại chỗ nước này là cái đại dịch thuỷ của một đại cán long, chỉ là một cái hộ tống thuỷ thôi. Ai lại đi xây nhà cao cửa rộng cỡ này ở đây. Đáng ra phải tìm đại địa nào thuỷ hợp tại Minh Đường của huyệt khi huyệt kết thì mới được lâu dài, chứ dựng như thế này thì sớm muộn gì cũng ra gò hoang bãi cỏ hết, chỉ tổ tốn công phí sức."

Quân lính nghe những lời điên rồ ấy, cho là nói gở, sợ để quan trên nghe được thì nguy liền bảo nhau cùng giở roi gậy ra đánh cho ông thầy một trận thừa sống thiếu chết rồi đuổi đi. Ông thầy địa lý biết không khuyên được, liền cắp khăn gói đi ngay, không bao giờ thấy quay lại nữa.

Năm 927, vua nhà Tùy là Hiệt Phương đế băng hà. Ngày vua mất, có một con rắn trắng hai đầu vô cùng to lớn từ trên xà cao rơi xuống, khiến những người hầu đang khóc than sợ hãi lùi lại. May thay, con rắn kỳ lạ đó không tấn công những người đang có mặt ở đó mà hai đầu của nó chỉ tự cắn xé chính mình. Mọi người thất kinh, chưa kịp hoàn hồn, sà ngang cung điện thốt nhiên bị gãy rơi xuống đánh rầm một cái ngay trước linh cữu của Tiên vương. Cũng trong dịp đó, chỉ qua một đêm mà rêu xanh đã phủ kín thềm điện Trường Xuân. Thái Tử lo buồn, sai người đến Ti thiên giám hỏi nguyên do vì đâu xuất hiện những chuyện lạ lùng như vậy. Ti thiên giám tâu lại với Thái Tử, đại ý rằng: rắn hai đầu tự cắn nhau, rêu xanh phủ kín thềm là điềm báo gia đạo đến hồi suy vi buồn thảm, nồi da nấu thịt; còn sà ngang cung điện gãy là điềm báo nước nhà sắp lâm nguy. Quả nhiên không lâu sau đó, khi linh cữu Hiệt Phương đế còn chưa được an táng ở lăng tẩm, các hoàng tử, vương tôn đã bắt đầu đấu đá lẫn nhau, chia bè kéo phái, tranh giành đế vị. Kết cục của cuộc tranh giành loạn lạc này là việc nước Hoài bị chia thành mười đạo. Cảnh cát cứ phân tranh ấy diễn ra dai dẳng trong hơn ba mươi năm. Trong khoảng thời gian đó, cứ dăm ba năm lại nổ tranh một cuộc giao tranh giữa các đạo. Dân chúng lầm than, khổ sở không biết bao nhiêu mà kể.

Năm 957, sử sách ghi lại rằng Ôn Như vương nắm giữ đạo Đằng Châu và con trai cả bị thích khách của Chương Dương vương ám hại. Viên hổ tướng dưới quyền Ôn Như vương là Lý Thiên Cơ lên nắm quyền, lấy cớ trả thù cho chủ mà dấy binh tấn công đạo Thanh Châu. Lý Thiên Cơ vốn là người kiêu dũng thiện chiến, hữu dũng hữu mưu. Chẳng bao lâu sau, ông đã bình định được đạo Thanh Châu, sáp nhập vào đạo Đằng Châu. Từ đó, ông ta lần lượt phát binh đánh chiếm những đạo còn lại, thế như chẻ tre, không gì cản nổi. Trong vòng hơn mười năm, Lý Thiên Cơ đã diệt gọn tám đạo còn lại, thống nhất giang sơn nước Hoài về một mối. Sau đó, ông ta thuận lý thành chương lên ngôi vua, lấy hiệu là Thái Thủy, lập ra nhà Thương.

Năm Thái Thủy thứ năm, khi bộ máy triều đình đã đi vào quy luật, Thái Thủy đế đã tập trung nguồn lực vào quân đội, hòng tiếp tục mở rộng bờ cõi nước Hoài. Sở dĩ Thái Thủy đế dừng chuyện đao binh một khoảng thời gian không phải vì dã tâm đã tắt, mà vì nước Hoài vừa bước qua một thời chiến loạn dai dẳng. Công, nông, thương nghiệp đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vậy nên, nước Hoài cần một khoảng thời gian để khôi phục lại những gì đã suy vi bởi chiến tranh. Thái Thủy đế hiểu rõ, nguồn lực càng dồi dào, khả năng chiến thắng càng cao. Sau bảy năm, khi nước Hoài đã ổn định trở lại, như một lẽ đương nhiên, Thái Thủy đế tiếp tục thực hiện mưu đồ của mình.

Năm Thái Thủy thứ sáu, chính sử ghi lại rằng, nước Tề đầu độc hại chết sứ giả của nước Hoài, khiến cho long nhan giận dữ nên Hoàng đế thân chinh dẫn đại quân đi chinh phạt nước Tề. Đội quân của Thái Thủy đế vừa mới bước ra khỏi cảnh chiến chinh không lâu, khả năng chiến đấu, sự thiện chiến được tôi luyện vẫn còn hằn in trong máu. Trái lại, quân đội nước Tề tuy quân trang đầy đủ, lương thảo dồi dào nhưng đã quá lâu không thực chiến, thêm việc Quân vương là người ít tuổi, có phần nhu nhược nên trong thời khắc quan trọng không đoàn kết được lòng dân. Năm đó, ý trời như cũng đứng về nước Hoài, muốn dùng hỏa công có gió đông, muốn đánh thủy chiến có sóng thuận, có những khi án binh bất động, chưa đưa ra quyết sách thì bên địch bỗng phát sinh dịch bệnh, làm cho tướng sỹ chết như ngả rạ. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa như vậy nên chẳng bao lâu sau, Thái Thủy đế đã hạ được những thành trì hiểm yếu, quan trọng nhất của nước Tề, đưa quân bao vây kinh đô Bắc Liêu, bức Quân vương nước Tề tự tay giết con và những người trong hoàng tộc rồi cắt cổ tự sát. Trước lúc mạng chung, Quân vương nước Tề chỉ tay lên trời, nhìn thẳng vào Thái Thủy đế mà nói rằng.

"Lửa của nhà ngươi có cháy mạnh đến đâu cũng không thể đốt sạch cỏ nước Tề, gươm của ngươi có bén đến đâu cũng không thể chém hết người nước Tề. Trên có trời cao, dưới có đất dày, xung quanh có quỷ thần làm chứng, chỉ cần nước Tề còn một người dân cũng quyết diệt nước Hoài."

Thái Thủy đế nghe vậy chỉ hơi nhíu mày rồi cười nhạt. Ngay khoảnh khắc Quân vương nước Tề ngã xuống, ông ta chỉ tay lên thương khung, tiếng hò reo của quân sỹ nổi cồn như sấm dậy, rền rĩ khắp đất trời, rung chuyển cả không gian. Bọn họ đều say sưa trong chiến thắng, mê mải trong hoan lạc, nghĩ tới ngày ca khúc khải hoàn về quê cũ, không một ai hay biết người đứng đầu Thái sử lệnh nước Tề là Cao Ngãi đã lặng lẽ chạy thoát khỏi vòng vây tự lúc nào. Ông ta mải miết thúc ngựa đi vào rừng sâu, đến động Lôi Âm thuộc núi Bàn Uất. Cao Ngãi đến nơi đây ngay khi nước nhà đang trong cơn nước lửa không phải vì ông ta lo sợ cho tính mệnh, muốn bảo toàn mạng sống của riêng mình mà vì trong một lần dịch sách cổ, ông ta đã biết được câu chuyện rằng vào hai ngàn năm trước đã có vị Thái Cực chân nhân dùng pháp lực trấn yểm một con yêu quái trong hang sâu vạn thước. Con yêu quái đó trong truyền thuyết nước Tề gọi là quái. Vào thời Thượng Cổ, nó có pháp lực vô biên, gây hại vô kể cho sinh linh. Để có thể khắc chế được nó, vị chân nhân kia đã phải tu luyện qua nhiều kiếp. Tới khi tu hành đắc đạo, có được thần lực, người đã chọn động Lôi Âm làm nơi đặt trận đồ trấn yểm Vi Khư quái. Nguyên do là vì trước kia, ở núi Bàn Uất đã diễn ra cuộc giao tranh giữa đại quân nước Tề và nước Yên. Trong trận đánh đó, số người chết lên đến hàng ngàn, thật là núi thây bể máu. Sau khi trận chiến kết thúc, hai bên đem xác tử sĩ ném cả vào động Lôi Âm rồi phủ cỏ lên trên châm lửa đốt sạch. Bởi chết tức tưởi nên những oan hồn đó mang sát khí rất nặng, làm cho năm mươi dặm xung quanh động Lôi Âm không có một mống cỏ nào sống nổi. Những xác cây khô theo thời gian cứ mục dần, sinh ra khí độc rất lớn. Bất kể người nào đến gần động Âm Lôi đều bị một làn sương mù dày đặc bao phủ rồi biến mất, vĩnh viễn không trở lại. Nhiều người cho rằng họ đã bị những oan hồn ở động Lôi Âm bắt chết thay để chúng được siêu thoát.

Một nơi có phong thủy "cùng hung cực ác" như vậy rất phù hợp để lập trận đồ trấn yểm. Sách cổ ghi lại, Thái Cực chân nhân đã dùng trận Bát quái thiên tiên đồ để trấn yểm giống loài si chủng này. Người dùng đủ Tứ yểm chấn bao gồm nhân chấn, kim chấn, mộc chấn và thạch chấn. Để tạo nhân chấn, Thái Cực chân nhân đã lập đàn lễ, thu phục oan hồn trong động Lôi Âm vào một cái "Tỉnh" rồi mang về đạo quán, đặt cái "Tỉnh" đó lên bệ tế. Sau một trăm ngày, người mang theo thứ ấy đến động Lôi Âm. Trước tiên, người dùng đất đỏ ở phía Tây Nam đắp một cái đàn cao chín thước, chia làm ba tầng, cho bốn mươi bốn người trai giới sạch sẽ cầm hương đứng xung quanh. Rồi người trích ba giọt máu ở đầu ngón tay nhỏ vào ba chén rượu rồi thắp một nén hương, làm đi làm lại việc ấy trong một trăm ngày. Sau một trăm ngày, âm binh đã tề tựu đủ xung quanh động Lôi Âm, nhân chấn đã hoàn tất. Những âm binh chết trận càng thảm khốc, oán khí càng mạnh thì công lực của Thái Cực chân nhân càng cao. Để tạo kim chấn, người dùng nhiều đồ kim loại quý bằng vàng, bạc, sắt, đồng, chế thành kim đồng thiết phù. Để tạo mộc chấn, Thái Cực chân nhân dùng nhiều loại gỗ quý như gỗ Trầm Hương, gỗ Ngọc Am, gỗ Vàng Tâm. Để tạo thạch chấn, người đã đắp bảy bảy bốn mươi chín ngàn tháp đất nung, trên thân tháp có vô số các loại đá quý nhiều màu ở các điểm trọng yếu. Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng, Thái Cực chân nhân đã dụ Vi Khư quái vào trận đồ. Năm ấy, Thái Cực chân nhân còn cẩn thận dùng một tấm da lớn căng trên miệng hố, vẽ bùa phong ấn trên mặt da để chắc chắn Vi Khư quái không thể thoát ra. Tấm da đó cùng với Tứ yểm chấn đã phong chặt mọi đường thoát của Vi Khư quái, khiến nó phải nuốt hận nằm trong hố trời nơi động Lôi Âm hơn hai ngàn năm.

Trong sách cổ còn ghi lại rằng, loài si chủng ấy bị giam hãm ngàn năm, oán hận sâu dày, đã dùng thần hồn phát lời nguyện sẽ quy thuận người giải thoát cho nó khỏi hố trời nơi động Lôi Âm. Nhưng trận đồ trấn yểm ấy chứa nhiều huyền cơ. Hơn nữa, để ngăn việc hậu thế có kẻ vì mê luyến phép thần thông của yêu ma mà làm càn làm bậy, khi trấn yểm, Thái Cực chân nhân không ghi lại cách hoá giải, lại cố ý huỷ hoại mọi ghi chép về trận đồ ấy. Sau này, tuy có nhiều bậc cao nhân đạo sỹ đã cố công tìm tòi song ai nấy đều chỉ tốn công vô ích, nhiều kẻ còn theo đường tà thuật, chuốc vạ vào thân.

Cao Ngãi cố công tìm tòi, cuối cùng cũng tìm ra một cách phá giải trận đồ. Cao Ngãi đã đem chuyện này viết vào tấu biểu, trình lên Quân vương. Sau khi Quân vương xem sớ đã truyền lệnh cho Cao Ngãi sau buổi chầu đến thư phòng phía Bắc hầu chỉ. Khi chỉ còn hai người, Quân vương đã lệnh cho ông ta giữ kín chuyện này, tránh để sự tích về yêu quái ở động Lôi Âm làm kinh động lòng dân, cũng tránh cho đạo phái các nơi tìm đến động Lôi Âm, mở trấn yểm cho yêu quái, lợi dụng thần thông của Vi Khư quái để làm chuyện bất chính. Cao Ngãi y lời.

Nửa tháng trước, khi quân đội nước Hoài phá được ải Bột Hải, tiến như vũ bão về kinh thành Bắc Liêu, Cao Ngãi đã đến trình diện Quân vương, gợi lại câu chuyện cũ, muốn đến động Lôi Âm mượn thần thông của yêu quái để tạm đẩy lùi địch, giữ lấy giang sơn ngàn năm của nước Tề. Trong bước đường cùng, trước tình thế vạn phần nguy ngập, Quân vương đã y chuẩn. Ông ta lập tức một mình một ngựa đi thẳng tới núi Tương Gia, ngày đi đêm không dám nghỉ, trong lòng chỉ mong cầu có thể đến động Lôi Âm trước khi quân nước Hoài tiến vào kinh đô. Nước Tề muốn mượn sức quỷ thần để cứu vãn quốc gia, đáng tiếc thế địch như trúc chẻ ngói tan, Cao Ngãi dẫu nhanh mấy cũng không nhanh bằng bước tiến của tướng sỹ nước Hoài. Khi ông ta đến núi Tương Gia, Quân vương đã tự tận, Hoàng thất đã tuyệt diệt, đất nước đã tiêu vong. Quân địch đóng chặt thành Bắc Liêu, trên thành cao đã treo cờ nước Hoài phần phật. Nhưng Cao Ngãi không hề hay biết. Ông ta chật vật leo lên miệng hang, run rẩy đổ máu của Quân vương xuống hang động, lầm rầm cầu trời khấn đất, khẩn xin quỷ thần cứu giúp.

Dòng máu đỏ tươi rơi xuống ngàn trượng, rơi vào mặt trống, thấm sâu vào từng nét hoa văn loang lổ trên mặt trống da. Gió rừng bỗng chốc cuồn cuộn nổi lên, bụi hồng mờ mịt dâng khắp đất trời. Trong không gian thoang thoảng mùi ngai ngái như nước mưa rơi xuống đất hạn, càng về sau mùi hương ấy càng đặc quánh giống như mùi máu đang dần đông lại. Cao Ngãi thấy sống lưng lạnh toát, bên tai ông ta văng vẳng âm thanh tiếng gươm giáo chạm nhau, tiếng hô hào giết địch, tiếng vó ngựa đạp đất, tiếng máu chảy đầu rơi. Đứng trước cảnh tượng như vậy, có người nào không hoảng hồn sợ hãi. Cao Ngãi cũng chỉ là người bình thường. Nhưng nghĩ tới hưng vong của quốc gia, tới vạn dân thiên hạ, ông ta thu hết can đảm, hét lớn.

"Xin thần linh hiển sức thần thông diệt địch, cứu lấy con dân nước Tề."

Ông ta nói không biết bao nhiêu lần, cho tới khi cổ họng khản đặc, không thể kêu thành tiếng mới dừng lại. Bấy giờ, trong cát bụi mịt mùng bốn phía, Cao Ngãi mơ hồ nhìn thấy một làn khói đen rất lớn từ trong miệng hố thoát ra vút thẳng lên chín tầng trời. Cùng lúc ấy, ở kinh thành Bắc Liêu, ngay khi quân nước Hoài đang say sưa trong chiến thắng, giữa trời đất khôn cùng bỗng vang lên bảy hồi trống liên tiếp. Tiếng trống rền vang làm động khắp muôn trùng sông núi, khiến cho tướng sỹ nước Hoài chao đảo từng cơn, vẻ hung bạo rút đi nhường chỗ cho nỗi hoang mang, nghi hoặc. Ngay khi đó, viên quan giám sử Chu Thiên Tường đang bị trói gô trước thềm điện bỗng dưng cười lớn, nhìn lên trời cao thăm thẳm nghìn trùng mà nói.

"Trời có mắt, Trời có mắt. Khi sao kia sa xuống cõi này, ta và các người cùng chết."

Nói rồi, người đó dùng hết sức bình sinh lao thẳng vào ngọn giáo, để mũi giáo nhọn đâm xuyên lồng ngực. Máu đào rỏ giọt xuống đan trì, khiến ba quân nước Hoài im phăng phắc, tưởng chừng chỉ còn tiếng thở từng hơi cùng tiếng tim đập trong lồng ngực mỗi kẻ từng hồi. Thái Thủy đế hơi cau mày, tuy trong lòng ông ta có chút dao động nhưng ông ta hiểu rõ điều cần làm bây giờ là trấn định lòng quân, không được để sỹ khí vì đôi ba điềm triệu mà suy giảm. Vậy nên, ông ta bình thản bước qua xác của Quân vương nước Tề, đi xuống đan trì, cầm lấy ngọn giáo mà Chu Thiên Tường vừa lao ngực vào thay cho người lính, đẩy mạnh một cái. Thi thể của viên giám sử liền ngã ra phía sau. Thái Thủy đế nhìn khuôn mặt người chết một thoáng rồi cười nhạt.

"Đồng tử mở to, rõ ràng là kinh hoảng, sợ hãi. Khi còn sống ngươi còn chẳng làm gì được ta nữa là khi chết. Ngươi há không biết, nếu ý Trời không phù hộ, ngay từ đầu ta đã không thể diệt được nước ngươi? Nay ta đứng ở Bắc Liêu này, tức là mệnh Trời đã định, nước Tề tất mất vào tay ta."

Những lời của Chu Thiên Tường có phải là lời nói điên, nói nhảm vì quá đỗi thương tâm, sợ hãi hay không thì phải rất lâu sau này mới có thể biết được. Còn trong hiện tại, chỉ có thể biết rằng ba quân nước Hoài sau khi nghe những lời ấy của Thái Thủy đế thì nỗi lo lắng trong lòng họ đã vợi bớt phần nào. Ai cũng cảm thấy lời nói của ông ta là có lý, nếu Trời thực sự không phù hộ thì chuyến chinh phạt này của bọn họ đã không liên tiếp gặp những điều thuận lợi như vậy. Sau khi trấn định lòng quân, Thái Thủy đế lệnh cho các tướng đặt trại cho binh lính nghỉ ngơi và cắt đặt từng nhóm thay phiên tuần tra cẩn thận, tránh để tàn dư quân đội nước Tề họp nhau nổi dậy. Ông ta lại sai người chọn ngày đẹp để khải hoàn trở về đế đô, sáp nhập nước Tề thành một châu của nước Hoài để dễ bề cai trị.

Nói về Cao Ngãi thì sau khi giải trấn yểm cho Vi Khư quái, không một ai nhìn thấy ông ta nữa. Điều này kể cũng dễ hiểu bởi dù Vi Khư quái có thoát ra thì âm binh oan hồn vẫn còn ở đó. Bọn họ ngày đêm chờ đợi chỉ mong có một người nào đó đến nộp mạng, thế vào chỗ mình để bản thân được siêu thoát, luân hồi. Nay Cao Ngãi tự mình dẫn thân đến, dù là vì đất nước hay vì điều gì cao cả khác bọn họ cũng không màng. Có người cảm thấy kết cục như vậy quá đỗi thê thảm cho một trung thần tận trung vì nước như Cao Ngãi mà không hiểu rằng sở dĩ ông ta phải chết trong đau đớn như vậy là vì việc ông ta giải trấn yểm cho loài si chủng nọ, mượn tay quỷ thần để chống lại kẻ thù vốn là việc trái trời nghịch đạo. Một khi Vi Khư quái thoát ra, nó sẽ đẩy vô số sinh linh vào biển khổ. Bao nhiêu người vì yêu quái ấy mà chịu khổ thì tội nghiệt của ông ta cũng nhiều bấy nhiêu. Nhân quả đã cân đo đong đếm rất công bằng. Vậy nên kết cục của Cao Ngãi là điều không cần nói nhiều lời thừa thãi cũng có thể hiểu được.

Lại nói về loài si chủng ấy thì sau khi được giải trừ khỏi trận đồ trấn yểm, nó đã đại náo Thiên cung, khiến thần Đế Vĩ phải triệu thiên binh thiên tướng giao chiến với nó bốn mươi chín ngày đêm không nghỉ. Cuối cùng, Vi Khư quái không địch nổi thiên binh vạn mã, bị thiên binh thiên tướng hợp sức đánh bại. Nó bị họa kích của thần tướng đánh bay ra xa, thân hình đồ sộ của nó va trúng cung Thông Thiên của thần Hình Liêm. Cung này vốn được làm bằng đá Anh Thạch, thứ đá ấy rắn chắc lạ thường, dù là sét của Du thần đánh vào, lửa của Diêm thần thiêu đốt cũng không tài nào hư hại được. Tòa cung điện đó sau khi bị Vi Khư quái đập trúng thì hóa thành một ngôi sao trắng khổng lồ rơi xuống trần gian.

Dưới trần gian, kể từ khi nước Hoài diệt nước Tề, Cao Ngãi giải trừ trấn yểm cho Vi Khư quái đã qua hơn bốn trăm năm. Nhà Thương đã trải sáu đời. Sau khi trải qua ba đời thịnh trị phồn vinh thì vật cực tất phản, khí số dần suy. Năm Thái Hòa thứ mười ba, tình hình đất nước đã có những chuyện rối ren khó lòng gỡ được. Vua Thái Hoà đã phải thân chinh đi vi hành trong dân gian để tra xét chuyện tham nhũng của quan lại một châu. Khi trời tối, vua định về hành cung nghỉ ngơi, không ngờ thình lình gặp phải mưa lớn, vua đành nghỉ lại tại một ngôi miếu nhỏ gần đó một đêm. Khi ánh nến rạng soi, chiếu sáng tượng thần, vua nhận ra vị thần được thờ trong miếu là thần nữ Đông Ca. Nguyên thần nữ Đông Ca là cung nga hầu Ly Châu phu nhân của vua nước La Tư. Nàng là người cao khiết, am hiểu thi thư, lễ nghĩa. Khi nước nhà bị địch xâm lăng, ba quân thất trận, giặc tràn vào cấm cung. Ly Châu phu nhân cùng người hầu kẻ hạ cũng bỏ trốn, chỉ còn nàng ở lại. Quân giặc đến Ly cung, thấy nàng nhan sắc rất đẹp, tưởng nàng là thiếp của nhà vua, định cưỡng bức làm của riêng. Biết quân giặc có ý đồ lang sói, nàng liền quyên sinh để giữ trọn danh tiết. Sau khi mất, nàng trở thành thần nữ cai quản vùng đất này. Nhà vua vốn kính mến tài đức của thần nữ, vậy nên đã tự tay thắp hương, châm đèn, quét dọn bệ thờ, thềm miếu để tỏ lòng thành kính. Tuy nhiên, vì thần nữ Đông Ca uống rượu độc quyên sinh nên đồ tế thần nữ cùng những người tế lễ tuyệt đối không được đụng một giọt rượu. Nhà vua biết lệ ấy nên đêm đó chỉ ăn chay rồi đi nghỉ. Nhưng đêm ấy có người lính gác không hay việc đó nên nhân lúc nhà vua nghỉ ngơi đã trốn xuống núi uống rượu say, lảo đảo đi vào miếu thờ, ngủ một mạch đến sáng, không hề biết mình đã phạm phải tội lớn tày trời. Hai tiên đồng Bạch Hạc, Kim Tước giữ việc canh miếu đem chuyện ấy nói lại với thần nữ. Người nghe xong liền nổi giận lôi đình, trách mắng Thái Hòa đế là phường hôn quân nhu nhược, không biết trị dân để rồi đến nỗi kẻ dưới khinh nhờn thần nữ, làm bại hoại phong hóa. Thế rồi, thần nữ nhẩm tính nhà Thương đã trải bốn trăm năm, hết vận cũng nên đến kiếp hạn. Vì vậy đã hiển linh dùng phép thần thông, khiến cho cung Thông Thiên chuyển hướng rơi trúng một ngọn núi của nước Hoài. Nhưng thần nữ cũng nghĩ đến việc Thái Hòa đế tự tay dâng hương, tu dọn miếu thờ mà dùng phép để ngôi sao trắng ấy rơi xuống chậm hơn một chút. Như vậy thì Thái Hòa đế sẽ không can tội bất tài, làm mất nước. Dưới đời Thái Hòa, chúng dân vẫn được yên ổn. Tới khi Thái Hòa đế băng hà, Thái Trinh đế lên thay, cung Thông Thiên mới thực sự rơi xuống trần thế.

Nếu như cung Thông Thiên rơi xuống một ngọn núi thường thì có lẽ nhiều chuyện rắc rối sau này đã không xảy ra. Nhưng, mệnh trời đã định, ngôi sao trắng ấy sẽ đem tới kiếp hạn cho nước Hoài. Bởi vậy, trong muôn ngàn ngọn núi, thần nữ đã làm cho nó rơi trúng núi Quần Phương. Ngọn núi này vốn là một trong năm ngọn núi linh, kết tụ những linh khí tốt đẹp từ muôn phương trời đất. Phải biết rằng linh khí của trời đất được hội tụ ở năm ngọn núi linh, bốn hồ nước thiêng trải khắp chín châu. Năm ngọn núi ấy lần lượt là, Triêu Dương, Chung Nam, Nhạc Trạc, Quần Phương, Điệp Thúy. Còn bốn hồ nước kia lần lượt là Nhất Bích, Lang Châu, Giang Tiên, Tả Ngọc. Linh khí kết ở núi thì theo gió tản đi muôn phương, kết ở hồ thì theo mưa rải ra vạn cõi. Còn những lệ khí xấu xa thì thường quanh quẩn ở những nơi hang sâu nước độc, sơn cùng thủy tận, kể như những nơi như núi xương Vô Định hay hố trời Vạn Thạch thì lệ khí còn hoành hành khủng khiếp hơn nhiều. Chúng cũng theo đưa đẩy của trời đất mà tản mác khắp nơi. Cứ như vậy hai loại khí số cùng ở cõi trần cũng đã mấy ngàn năm, chúng tương khắc như nước với lửa nhưng cũng không thể thiếu một trong hai được. Những năm trước khi cung Thông Thiên rơi xuống núi Quần Phương, khí số âm dương hòa hợp, không đại phát cũng không đại suy, vậy nên con người hết thảy đều bình bình, chung sống với nhau rất là yên ấm, không có đại họa gì xảy đến.

Sau khi cung Thông Thiên rơi xuống núi Quần Phương, chỉ trong một ngày, ở nơi đó cây cối cháy rụi, nguồn nước cạn khô, muôn loài tuyệt diệt. Những cội linh khí tụ hội ở nơi ấy cũng tẩu tán đi khắp chốn, trong số đó có cả những cội khí đáng ra ngàn năm sau mới cảm phát nay cũng tản mác khắp nơi. Chúng nhập hóa, bám trụ vào thân người để rồi sinh ra những người tài kiệt xuất nhưng đáng lẽ sẽ xuất hiện vào trăm năm sau đó. Nếu không có chuyện núi Quần Phương gặp họa, bọn họ sẽ sinh vào những thời đại khác nhau, mỗi người một phận, không tranh không oán, giúp cho thiên hạ thái bình thịnh trị. Nhưng nay vì núi Quần Phương hư hại mà bọn họ phải sinh cùng một cõi, sống cùng một thời. Mà ở một nước đương cơn loạn lạc, suy vi lại có lắm người tài như thế thì sao tránh được chuyện nhân tài tranh bá, chư tướng tranh hùng. Những người ấy sinh ra đã định buộc phải tranh đấu với nhau. Đã là tranh thì ắt có bên thắng bên thua, bên sinh bên diệt. Những người bị diệt không phải vì không đủ tài mà vì sinh không đúng vận, vậy nên đa phần kết cục của những người này được định trong sổ trời cũng thảm thiết vô cùng.

*

4

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout