Chương 18: Văn Như Ngọc!




Từ sau hôm bàn thảo ở điện Cần Chính thì bất ngờ triều đình ban một đạo chiếu chỉ chiêu cáo dân chúng, trong đó bao gồm các điều lệ quy định về tô thuế mới. Chiếu chỉ vừa ban bố, khắp hang cùng ngõ hẻm chợ Đông Kinh ngày nào cũng huyên náo. Từng lớp người cứ đứng vây quanh các bảng dán chiếu chỉ vừa đọc vừa xúyt xoa phẩm bình. Có người không biết chữ lại níu người biết chữ mà hỏi "xem thử bên trong chiếu chỉ viết gì", có người cậy thế hay chữ liền buột miệng đọc to. Người đông, sự nhiều, lòng lại tràn đầy cảm xúc... mà một phiên chợ chẳng thể nào chứa hết. Vậy là cái trà lâu của lão Đào lại có dịp gia tăng thu nhập. "Khôi tinh trà lâu" của lão cũng tự nhiên trở thành trà lâu "đệ nhất Đông Kinh".


Lão Đào à, lão cũng may mắn quá rồi. Cái trà lâu bé tí tẹo của lão vốn chỉ là một quán trà bình thường, còn khá cũ kỹ. May nhờ khách thập phương chiếu cố nên cũng không đến nỗi chết đói. Nay lại được dịp "một bước thăng thiên", làm ăn ngày càng khấm khá. Lão tích góp mãi mới xây được thêm một tầng lầu cho khách "ẩm trà, bình thơ". Tình cờ, một vị quan gia tự xưng họ Lý là học trò Hành khiển đương triều có việc kinh lý ngang qua trà lâu dừng chân đã tiện tay đề cho lão bốn chữ "Khôi tinh trà lâu" vừa văn nhã vừa hợp cảnh thì quán trà của lão càng được thêm tiếng vang. Lão cũng chẳng ngại ngần đem bốn chữ đó điêu khắc thành một biển hiệu để thu hút tài tử văn nhân khắp kinh sư. Trà lâu rách nát đón khách hèn. Nhưng văn nhân tài tử thì cần phải thêm một chút phong tình, một chút mỹ lệ mới xứng. Lão Đào từ hôm hô biến thành “Khôi tinh trà lâu” thì cũng học hỏi lạc thú Đông Kinh, cho xây thêm một đài biểu diễn giữa quán mời ca cơ khắp nơi về đàn ca múa diễn. Nổi tiếng nhất trong dàn ca cơ này là nàng Văn Như Ngọc, giọng như chuông vàng khánh bạc, dáng dấp lả lướt, mỗi lần nàng chuyển mình nhảy múa, toàn thân đều nghiêng sang một bên nương theo tà áo lả lướt mềm dẻo tựa hồ bồ vi dai như tơ[i], phong tình trước gió mây. Khách thập phương đến “Khôi tinh trà lâu” vừa để nghe chuyện cũng vừa để ngắm nàng Văn Như Ngọc.


Mặt trời vừa rạng, thả xuống nhân gian mấy tia nắng màu tương diệp [ii]như hòa mình vào không khí nhộn nhịp của Khôi Tinh trà lâu. Lão Đào nhìn hai tầng lầu chật kín người mà không khỏi hồ hởi trong lòng. “Chà chà, lão Đào à, ông bây giờ cũng xem như là “xuân phong đắc ý[iii]” rồi chứ hả?” Một vị khách ngồi ở bàn trà đối diện quầy tính tiền của lão Đào, vừa thân thiết tỏ vẻ chúc mừng vừa ganh tị giễu cợt. Lão Đào vốn biết tánh khí khách nên cũng chỉ cười qua loa lấy lệ, tiếp tục cúi đầu vào quyển sổ thu chi tính toán.


Hai tầng lầu nghẹt kín người, đám hầu trà của lão Đào cứ tất bật chạy lên chạy xuống, bận rộn đến nỗi tên nào tên nấy mồ hôi ướt đẫm, chạy bổ vào nhau đến u đầu mẻ trán. Tiếng cười nói ồn ào, tiếng rót trà tí tách, hương khói mang theo mùi vị của trà tỏa ngào ngạt khắp trà lâu. Mấy gã thư sinh tay phe phẩy quạt, miệng không ngừng thi nhau đối thơ bình văn vui như trẩy hội.


Từ trên đài biểu diễn vang lên khúc nhạc “Hán cung thu nguyệt”, đánh động vào trái tim các vị quan khách. Ai nấy đều im bặt, dồn hết ánh mắt vào một bóng dáng mảnh mai, vận y phục lụa màu trắng, tóc vấn chuy kế[iv], thướt tha yểu điệu ngồi khảy đàn. Nàng chính là Văn Như Ngọc nổi danh khắp Đông Kinh với tài chơi đàn ngọc xuất chúng. Tiếng đàn của nàng thánh thót tựa chim ca, khi tươi tắn hồ hởi tựa đóa hoa đầu xuân đương nở rộ, có lúc lại sầu não ủ rũ tựa hoa kia phai tàn héo úa. Nàng đàn, đôi mắt sâu hun hút nhìn vào khoảng xa xăm dịu vợi, có buồn, có thổn thức. Đôi mày lá liễu rũ xuống, đôi mắt đen thăm thẳm lúc như chau mày lúc như không gợi cảm giác tịch liêu, quạnh quẽ. Nàng đẹp tựa ngàn hoa, thơm ngạt ngào làm say biết bao ong bướm nơi Đông Kinh đô hội.


- Tiếng đàn làm người ta say mê đến nẫu ruột. Chỉ riêng nàng lúc nào cũng tiêu nhiên như thế. - một chàng thư sinh mặc áo gấm màu lam, ngồi đối diện khán đài, nhìn nàng xa xót.

- Lý Đàn, anh quen nàng ấy à? - một chàng thư sinh ngồi cùng bàn, hỏi vặn lại.


Lý Đàn nghe hỏi, thoáng trầm tư giây lát rồi lại thất thần nhìn lên khán đài, vừa lắc đầu vừa đáp “bất như bất tương kiến...”.


- "Tương kiến tình dĩ thâm[v]" à? Hôm nay, tôi với anh mới lần đầu đến nghe đàn hát nhưng sao anh cũng mang tâm tình của Lý Bạch? Cớ sự tại ai đây? - Chàng thư sinh phe phẩy quạt, liếc mắt lên khán đài ám thị. - Ái chà chà! Nàng con gái trước mắt tựa tiên nga... Chậc! Xem ra thơ Lý Bạch có mỗi Lý Đàn hiểu rõ. Chỉ tội thân tôi học mãi chẳng thông. Haha!


Lý Đàn không đáp, liếc nhìn người bạn của mình một cái rồi nhấp một ngụm trà, nhỏ lệ.


- Kìa, Lý Đàn! Tôi chỉ đùa anh thế thôi mà. Anh không muốn trả lời thì thôi, cớ chi xúc động đến vậy?!


Người bạn bên cạnh vừa nói vừa lay vai Lý Đàn. Nhưng y như tượng đá, không đáp cũng không chuyển mình. Tâm trí Lý Đàn lúc này có lẽ đã trôi về Khải Lư năm nào chiến tranh, lúc Tiên đế vây đánh quân Minh.


***

Năm đó, Tiên đế thực hiện kế hoạch giải cứu Nghệ An[vi], đánh liên hồi với quân Minh, ép chúng phải chạy vào núi Khải Lư. Lý Đàn khi đó chỉ là một đứa nhóc năm tuổi theo gia đình bỏ quê nhà ở huyện Đỗ Gia [vii]trốn vào núi rừng Khải Lư tránh chiến tranh, ăn quả rừng uống nước suối sống qua ngày. Trong ký ức của Lý Đàn, khoảng thời gian trốn ở Khải Lư tuy vất vả nhưng lại là khoảng thời gian đẹp nhất của y. Bởi vì nơi đó y được gặp nàng…


Đó là vào một buổi trưa nắng rọi, Lý Đàn đang lặn ngụp dưới suối thì nghe từ trong rừng cây có tiếng bước chân đạp lên lá. Dồn dập. Vội vã. Bản năng nhận thức nguy hiểm gần kề, Lý Đàn vội vã bơi lên bờ, núp sau một rặng cây to, dõi mắt theo nơi phát ra tiếng động. “Mẹ ơi! Con mệt quá”. “Cố thêm chút nữa đi con, vào sâu trong rừng mới an toàn”. “Mẹ con nói đúng đó. Vào sâu một chút mới không gặp phải bọn giặc Minh”. “Giặc Minh là ai sao chúng ta phải trốn vậy cha?”. “Chúng là bọn ác. Đừng nói nữa, đi mau đi!”.


Tiếng bước chân càng dồn dập, Lý Đàn càng nghe rõ hơn cuộc trò chuyện của gia đình đó. “Hóa ra là cùng cảnh ngộ như nhà mình”. Lý Đàn thở dài rồi khẽ lách mình nương theo bụi cây, lặng lẽ rời đi.


Chuyện vô tình chứng kiến trưa hôm đó, Lý Đàn chỉ giữ cho riêng mình tuyệt không nói lại với cha mẹ. Một đứa trẻ lớn lên trong chiến tranh tự khắc cũng học được cách im lặng để bảo vệ mạng sống. Dẫu sao họ cũng đâu có duyên gặp nhau, cứ xem như dưới vòm trời này còn bao nhiêu người có thể giữ mạng thì vui thay cho họ thôi. Ấy vậy mà dường như mọi lo lắng tính toán trên đời này đều không qua được ông Trời…


Tối hôm đó lúc gia đình Lý Đàn đang ngồi ăn bên đóm lửa đỏ thì bỗng nghe từ phía xa có tiếng bước chân. Nhanh như cắt, cha Lý Đàn cầm theo một con dao nhỏ, ra hiệu mẹ con Lý Đàn nấp vào một góc, còn mình thì đứng chắn chờ nghênh chiến. Bước chân tới gần, cha Lý Đàn siết mạnh tay cầm dao thủ thế. “Xin đừng ra tay. Chúng tôi là dân Thanh Giang[viii], vào Khải Lư tránh chiến tranh”. Người đàn ông từ trong bóng tối đi ra, nhác thấy ánh sáng từ cây dao nhỏ của cha Lý Đàn thì vội xua tay lên tiếng. Vừa nói vừa hãm lại bước chân, chờ phản ứng đối phương.


Cha Lý Đàn nheo mắt nhìn theo hướng người đàn ông dò xét, tay vẫn siết chặt dao, hỏi vọng: “Chúng tôi người huyện Đỗ Gia, cũng vào Khải Lư trốn chiến tranh. Chúng ta sát cạnh nhau[ix] cũng xem như quen biết. Nếu anh thật dạ, tuy chúng ta bèo nước gặp nhau nhưng chung cảnh loạn ly, Lý Hổ tôi đây cũng xin phép làm bạn, xem nhau như người thân. Còn nếu như… anh giả dối, bụng có ý xấu, Lý Hổ cũng không ngại ra tay bảo vệ mình và gia quyến”.


Người đàn ông trong bóng tối dường như nghe rõ sự chân tình trong câu nói của Lý Hổ cũng thở phào, trút cạn tâm tư “Không phải giả ý. Chẳng giấu gì người anh em, chúng tôi cũng là kẻ cùng đường chiến tranh. Tôi tên Văn Cao, dẫn vợ và con gái trốn vào đây. Nhưng ngặt nỗi trời tối mịt, lại không rõ phương hướng nên mới lạc đến tận đây phiền đến anh và gia quyến. Nếu nay đã rõ lòng nhau, xin phép anh cho tôi kết bạn để tiện bề giúp đỡ nhau khi hoạn nạn”. Người đàn ông dứt lời, liền quay lưng ra sau nói to “rồi, rồi. Hai mẹ con ra đây! Ra chào gia đình Hổ huynh!”


Tiếng lá đưa bước chân người “xào xạc”, gia đình Văn Cao từ từ bước ra. Cô con gái nhỏ nấp sau lưng mẹ, chỉ thò đầu qua nách áo, run rẩy nhìn chằm chằm con dao trên tay Lý Hổ. Vợ Văn Cao là một người phụ nữ truyền thống, tóc búi cao, vẻ mặt đoan chính, đặc biệt là đôi mắt to tròn rất đẹp. Bà một tay giữ con sau lưng, một tay lúi húi vén lại lọn tóc mai bị sương gió thổi xộc xệch; lễ độ nghiêng đầu chào Lý Hổ nhưng ánh mắt vẫn dán chặt lên con dao sắc lẹm trên tay y. Văn Cao dáng người cao, gầy, đôi mắt hơi nhỏ. Thoạt nhìn không giống người phương Nam. Nhưng nét mặt lại vô cùng ung dung, chẳng rõ y có sợ con dao của Lý Hổ không nhưng khi nhìn thấy Hổ, y vẫn giữ nguyên nụ cười, hai tay vái về trước lễ Lý Hổ. Lý Hổ lúc này đã nhìn thấy rõ gia đình Văn Cao, lòng cũng nhẹ nhõm, vội bỏ con dao xuống đất, gọi vợ con ra chào. “À! Thì ra cô bé có giọng nói như oanh như yến lúc sáng lại nhỏ người như vậy”. Lý Đàn vừa nhìn Văn Sương đang nấp sau lưng mẹ vừa nhủ thầm trong lòng. Văn Sương có đôi mắt đen, to, nhìn như có nước trong mắt. Cô bé giống mẹ. Cô nấp sau lưng mẹ, biết Lý Đàn đang dò xét mình, cô cũng không ngần ngại “ướm” thẳng đôi mắt lên đôi con ngươi Lý Đàn. Lý Đàn nhìn cô, đột nhiên bật cười. Văn Sương bị giọng cười đó làm ngơ ngác, cô ngây người một chốc rồi cũng nhìn Lý Đàn, chun mũi lên, cười giòn. 


Từ sau cuộc chạm trán không mong đợi đó thì hai gia đình Văn – Lý cũng buông bỏ phòng bị, xem nhau như người thân. Thời loạn ly, người người nhà nhà đều cùng chung cảnh ngộ. Ly tán quá thê lương nên nếu có cơ may hạnh ngộ cũng do cao xanh chiếu cố. Vậy thì sao không cưu mang nhau cho đặng. Nhà họ Văn tổ tông vốn người phương Bắc nhưng theo nghiệp buôn bán vải vóc đi khắp nơi. Một lần đắm thuyền, trôi dạt vào vùng Thanh Giang rồi cơ duyên run rủi nên cả gia đình ở lại Thanh Giang dựng nhà, sinh sống. Kể ra thì họ Văn cũng ở Thanh Giang bốn năm đời rồi. Văn Cao thở hơi dài, nhìn lên bầu trời tịch mịch, lòng trĩu nặng. Có lẽ y đang nhớ nhà. Lý Hổ cũng nương theo ánh mắt Văn Cao, cũng nhìn lên trời đêm tịch mịch. Và… lòng cũng “đầy như dòng sông xuân chảy mãi về hướng Đông”[x]. Hai kẻ xa nhà hàn huyên trong đêm thanh vắng, chỉ còn mỗi tiếng thở dài. Thê nhi bên cạnh thân thể cũng mòn, thiếp dần… thiếp dần…


Văn Cao chỉ có một cô con gái duy nhất là Văn Sương, tuổi lên mười. Còn Lý Hổ cũng chỉ độc đinh người con trai là Lý Đàn, tuổi lên năm. Vì Lý Đàn tuổi nhỏ lại tinh nghịch nên mẹ Lý Đàn thường cậy nhờ Văn Sương theo cùng để trông nom nhau. Lý Đàn và Văn Sương cũng hạp tính hạp nết nên thường rủ nhau ra suối chơi trò búng nước hay cùng nhau bắt cá, nô đùa. Cũng xem như tìm chút tiếng cười trong buổi loạn ly nhiều nước mắt.


***


Lý Đàn vừa nhớ lại chuyện cũ vừa mỉm cười. Đúng là thời loạn ly. Cái gì cũng bị chiến tranh vùi chôn, chỉ mỗi hoài niệm là còn sống mãi. “Lý Đàn! Lý Đàn! Hồn vía đi đâu thế? Đến đoạn hay rồi kìa!”. Người bạn đồng môn của Lý Đàn vừa gọi vừa chỉ tay lên khán đài. Nàng ca cơ xiêm y tha thướt, đôi tay trắng ngần nhẹ nhàng vén một góc tay áo lên cao... Ồ. Một tiếng ồ lớn vang dội cả hai tầng “Khôi tinh trà lâu”. Đám đàn ông “thực sắc tính dã" như đám hổ đói rình mồi, chăm chăm đôi mắt đỏ quạch đầy thèm thuồng dò xét từ trên xuống dưới, như dã thú đang chiêm ngưỡng miếng mồi ngon. Đám thư sinh nho nhã lại ra chiều đạo mạo, vờ như “quân tử hảo cầu” vừa phe phẩy quạt trong tay vừa lim dim mắt nhìn nàng, miệng không ngừng “văn chương tuôn trào”. "Uyên ương một giấc mộng hồn, nhác trông vô số cánh hồng nở hoa[xi]". Một tên thư sinh bắt nhịp ngẫu hứng. Tên đồng môn ngồi cạnh hắn càng thêm hứng thú hơn, ứng đối "Cánh hồng ấy mộng yêu đương, say sưa nghĩ lại gió sương thẹn thùng[xii]". "Ha ha, thơ hay!” Bầu không khí trong quán trà như được đốt thêm lửa nóng, mấy tên thư sinh không còn giữ kẽ nữa, nuốt nước dãi ừng ực, miệng vẫn không ngừng "đạo mạo". "Nhắn ai đêm lạnh thẫn thờ, chớ nên tựa gối sững sờ Ngưu Lang[xiii]". Giọng ngâm vừa dứt, đám thư sinh nửa văn nửa chợ trong quán chẳng cần biết là tên hèn hạ nào với tên hèn hạ nào, cứ xúyt xoa vỗ đùi khen hay, miệng không ngừng chòng ghẹo "ái chà chà ca cơ của đệ nhất trà lâu đúng là có khác. Ca hay, múa giỏi đã đành mà nhan sắc còn mặn mà đến độ làm cho mấy vị huynh đài ở đây ai cũng muốn làm Ngưu Lang hết rồi. Ơ này ả kia ơi, nàng tuyệt trần như thế có muốn làm Chức Nữ của mấy tên thư sinh này không? Haha". "Vô sĩ". Phụt. Lý Đàn tức đến mặt đỏ tía tai, đôi mắt ngầu quạch nổi lên mấy lằn chỉ máu nhìn xoáy vào đám thư sinh cợt nhả kia, phun một ngụm nước miếng. Gã đồng môn thư sinh bên cạnh lần đầu thấy người bạn nho nhã của mình hành động vô chừng như vậy cũng giật thót, "Lý..." Y vốn định mở miệng khuyên lơn bạn mình nhưng chữ Đàn chưa qua khỏi cửa miệng đã bị gương mặt đỏ như gấc, đôi tay siết đến nổi từng mảng gân xanh của Lý Đàn ghì chặt lại, không sao thốt nên lời. Hỡi trời! Nàng ca cơ trên đài kia có ma lực gì có thể khiến cho đứa học trò ưu tú nhất của Hành khiển đương triều cũng có lúc kháy tính thế này. Gã đồng môn chậc lưỡi, ngao ngán lắc đầu.

Thế nhưng, người ngoài chột dạ, người trong dửng dưng. Nàng Văn Như Ngọc dường như quá quen với những ánh mắt khao khát này, nên cũng chẳng may may để ý, chỉ liếc nhìn một cái rồi lại thong thả ngồi đàn tiếp. Cái hay của “Hán cung thu nguyệt” là ở những đoạn cao trào, mỗi nốt nhạc đánh lên đều biến hóa theo nhịp tay người khảy đàn. Mà những nốt cao như suối chảy này lại vô cùng khó nắm bắt. Nếu tài nghệ không đủ tinh thông thì khó mà đàn ra một khúc nhạc cao hơn suối ngàn, vang hơn núi xa này được. Chính vì vậy, mỗi khi đàn đến đoạn cao trào, nàng thường có thói quen xắn tay áo qua khỏi cổ tay để thuận tiện hơn. “Nhìn kìa! Hoa điền Sơ Ảnh[xiv] trên tay nàng ấy đúng là độc nhất vô nhị!”.


“Phải, đúng là độc nhất vô nhị”. Lý Đàn nghe những lời trầm trồ về dấu hoa điền trên tay nàng cũng bất giác bật thốt. Tâm tư Lý Đàn vốn đã nặng trĩu, nay thấy thêm dấu hoa điền trên tay nàng càng thêm vạn sầu. Ở khắp Đông Kinh này ai cũng biết, trên tay Văn Như Ngọc có một dấu hoa điền Sơ Ảnh. Mỗi khi nàng đàn, đến đoạn hay nhất phải vén tay áo để lộ dấu vết Sơ Ảnh khiến ai cũng phải trầm trồ. Nhưng ít tai biết rằng đằng sau nó là cả một câu chuyện dài…


- Chị Sương ơi! Xem em nè! Em bắt được cá rồi nè!

- Ờ. Bé Đàn giỏi quá! Đem vào đây đi, chị nướng cho ăn!

- Dạ. A! Chị Sương… chân em… buốt hết rồi, không lên được. Chị… giúp em với!

- Được. Được. Đừng sợ. Chị kéo em lên!


Văn Sương dứt lời, cầm ngay một khúc cây dài chìa xuống phía Lý Đàn. Đàn nhanh trí túm lấy khúc cây, Sương ra sức kéo. Chân Lý Đàn lạnh buốt và tê cứng vì ngâm mình quá lâu trong nước lạnh nên cứ gồng sức ghì cặt cây. Sương tuy lớn tuổi hơn Đàn nhưng sức con gái lại có phần mảnh mai nên chỉ có thể cắn răng kéo. Lý Đàn vừa được kéo lên bờ thì… Ùm. Văn Sương kiệt sức, rơi tòm xuống suối. “Cứu! Cứu chị!” Lý Đàn hốt hoảng, chìa tay ra cứu người nhưng luống cuống thế nào lại cào trầy mu bàn tay Sương đến tứa máu. “Á! Chị ơi! Em… em… không cố ý. Chị chảy máu rồi”. Lý Đàn lần đầu làm người ta chảy máu, mà đối phương còn là phái yếu thì đầu óc bấn loạn, gào thét như thể chính mình bị thương. “Không sao. Chỉ bị trầy sơ thôi. Chốc tìm lá rừng đắp lên sẽ không sao”. Sương vừa xé nốt góc vải thắt lưng quấn chặt vết thương vừa an ủi Lý Đàn đang mặt xanh như tàu lá. Lý Đàn lúc này mới trấn tĩnh nhìn kỹ vết thương trên tay Sương. Vết cào nhỏ nhưng dài, rạch giữa mu bàn tay như một cái rãnh nhỏ chia đôi vết sẹo hoa mai trên tay Sương.


- Dấu ấn hoa mai trên tay chị là vết sẹo à?

- Ừ.

- Vết sẹo này rất đặc biệt… Hình như là… do cố ý dể lại phải không chị?


Sương nhìn Đàn, tay bất giác ôm chặt mu bàn tay như tránh né. Nàng rũ đôi mắt buồn, chậm rãi:


- Ừ. Là mẹ chị thích[xv] lên tay chị.

- Sao mẹ chị làm vậy?

- Vì mẹ muốn bảo vệ chị. Mẹ nói thời loạn ly dễ đánh rơi nhau nên làm dấu để sau này dễ tìm.


"Thời loạn ly dễ đánh rơi nhau nên làm dấu để sau này dễ tìm". Từng câu từng chữ mà Văn Sương nói năm đó vẫn in hằn trong tâm trí Lý Đàn. "Chị Văn Sương! Mẹ chị nói đúng rồi". Lý Đàn lẩm nhẩm trong thất thần. Phải đó. Nhờ dấu hoa mai năm nào mà Lý Đàn mới gặp lại chị. Nhưng gặp rồi thì đã sao? Văn Sương năm nào sao còn nhớ Lý Đàn?!


* * *    


“Á. Xoảng!”


- Bộ mi đui hay sao mà không thấy ông, hả?

- Dạ, dạ xin quan khách tha lỗi!

- Tha lỗi. Mi đụng vào ông, đổ trà lên người ông rồi còn muốn ông tha cho. Để ông đấm vỡ đầu mi rồi tha, nhé!


Tiếng rơi vỡ kèm theo tiếng ồn ào từ dưới lầu truyền lên chấn nát không gian. Màn biểu diễn lạc hồn của nàng Văn Như Ngọc cũng bị tiếng quát tháo, tiếng van xin hỗn độn đè bẹp. Đám quan khách trong trà lâu bị cụt hứng cũng vừa thở dài vừa tò mò đổ dồn mọi ánh mắt xuống phía dưới sảnh. Đập vào mắt họ là cảnh tượng một đám người đoán chừng là thương buôn từ nơi khác đến, y phục gấm vóc, giày hoa ra vẻ phú quý nhưng tên nào tên nấy cũng to con, nét mặt hùng hổ. Thoạt nhìn, có vẻ không phải người phương Nam. Nhưng cũng không chắc là phường buôn phương Bắc. Đi đầu là bốn gã đàn ông: một gã râu quai nón, vẻ mặt có phần hung tợn; một gã cao đen, đầu cạo trọc; một gã thấp bé hơn, mái tóc đen dài được tết gọn, lưng khom, đôi mắt láo liên. Sau cùng là một gã có nước da khá trắng, mặc bộ y phục gấm trắng, có chòm râu khá dài, đều, nét mặt trông nho nhã, ước chừng là người có ăn học. Theo sau họ là bốn tên to con, vẻ mặt bặm trợn. Bốn tên này mỗi người đều vác trên vai một cái gương được đúc bằng sắt, trông khá nặng. Vừa rồi chúng vừa vào quán, một tên hầu trà vô ý đụng nhầm tên râu hùm nên mới xảy ra cuộc cãi vã. Đám người này chẳng biết từ đâu đến cũng chẳng rõ đi đâu về đâu nhưng cái tính khí coi trời bằng vung thì đúng là làm người ta đau đầu.

Bị cả quán trà nhìn chăm chăm như thế tên râu hùm vẫn ra vẻ không nhượng bộ, một tay xách gọn cổ áo tên hầu trà, một tay giơ nắm đấm về phía y, hét to “Để ông đấm một cái xem mi còn sống không rồi ông tha”. Hầu trà nằm gọn lỏn trong tay râu hùm, kinh sợ đến mức sắp vãi cả ra quần, miệng lí nhí “ông ơi, lạy ông! Con biết con sai rồi! Ông… ông tha cho con. Con cắn rơm cắn cỏ lạy ông”. “Tha? Sao lúc mi đổ trà lên người ông, mi không nghĩ đến hậu quả, hử”. Râu hùm gằn giọng. Cả trà lâu ai cũng nín thở xem kịch chứ nào dám can ngăn. Lão Đào thấy cảnh trước mắt, dù trong bụng đã sợ đến tay chân tê dại nhưng cũng ráng cúi thấp đầu, vái lấy vái để râu hùm “Dạ, dạ thưa! Quan khách thương tình lão Đào làm ăn nhỏ cơm cháo qua ngày mà đừng gây khó cho hầu trà. Lỗi của nó xin để lão Đào về bảo ban lại. Về phần các vị quan khách, xin cho lão Đào bồi thường một bữa thịt cá cơm canh đủ đầy tỏ thành ý. Xin bỏ lỗi cho!”


“Đúng rồi. Tha cho người ta đi!”. “Đổ có một ấm trà thôi mà, cần gì phải giận dữ như muốn giết người ta”. “Đúng đó! Chẳng biết từ đâu đến mà hung tợn quá”. Đám quan khách cứ mi một câu ta một câu bình phẩm loạn hết cả lên. Tên râu hùm quắc mắt nhìn một lượt trà lâu thì tay cũng dần mềm lại, cổ áo tên hầu trà trong tay hắn cũng được nới lỏng. Tên hầu trà “khục khặc” ho lên mấy tiếng rồi lại thở lấy thở để bù hơi. Gã đàn ông mặt trắng nho nhã đứng cạnh râu hùm lúc này cũng húng hắng ho vài tiếng. Tên đầu trọc đứng sau gã mặt trắng nghe tiếng ho ra hiệu đó cũng nhanh chân bước quàng lên trước, túm lấy nắm đấm đang hờ hững trên không chưa nỡ buông xuống của râu hùm, đanh nét mặt "đủ rồi đó. Buông ra đi" rồi liếc sang nhìn gã mặt trắng, gật đầu ám thị. Râu hùm bị túm nắm đấm, cau có lắm nhưng thấy nét mặt gã mặt trắng bắt đầu biến sắc cũng đành bấm bụng buông tay, thả tên hầu trà. Lão Đào lúc này còn cung tay khúm núm đứng đối diện mấy tên hung tợn, người vã mồ hôi chực chờ. Gã đàn ông thấp bé nhất quan sát một lượt sự việc xảy ra, đoán chừng câu chuyện đã nóng đến đỉnh điểm rồi mới thở mạnh một hơi, sấn lên trước, chấp tay ra chiều khách khí vái lão Đào "Dạ dạ! Bọn tôi từ phương xa đến Đông Kinh làm ăn buôn bán, cốt kiếm thêm tí hoạnh tài. Dân buôn bán như nhau đâu lý nào “người mình giết người mình”. Ngặt nỗi đường xa vất vả, tiết trời biến đổi lại thêm phần vừa đói vừa mệt nên anh bạn của tôi có chút nóng tánh, không giữ kẽ. Ông chủ bỏ qua cho". Gã thấp bé như cơn mưa rào đúng lúc, chỉ nói vài câu đã làm dịu bầu không khí. Ai nấy cũng đều giãn nét mặt, riêng lão Đào sau khi nghe xong thì thở một hơi dài nhẹ nhõm, dạ lấy dạ để không dám nói gì thêm. Thấy tình thế đã hạ nhiệt, gã thấp bé lùi thêm một bước, vỗ vỗ vai lão Đào, tiếp lời: "Nhân tiện, ông cho dọn giúp hai bàn tiệc để bọn tôi lót dạ. Sẵn dọn cho chúng tôi vài căn phòng tươm tất để tá túc qua đêm. Chúng tôi cần phòng sạch sẽ, gọn gàng là được. Chuyện tiền nong ông chớ lo”. Lão Đào nghe xong, cung kính vâng dạ, không ngại đế thêm “Dạ, dạ! Chuyện phòng ốc các vị quan khách yên tâm. Lão sẽ cho người dọn dẹp sạch sẽ. Còn việc bàn tiệc thì… cho phép lão mời khách phương xa ạ!”. Lão Đào đúng cốt cách phường buôn. Nhanh nhạy, biết chớp thời cơ. Vừa dứt tiếng với đám khách lạ kia xong đã quay sang anh chàng hầu trà đang mặt xanh môi tái đứng tựa cạnh bàn thở hổn hển, gắt “Này! Mi còn đứng như phỗng ở đó làm gì, mau theo ta vào trong làm việc”. Lão Đào đi rồi, một màn inh ỏi cũng xem như kết thúc. Đám khách phương xa thấy lão Đào vào trong lo trà nước thì cũng không nói gì, lục tục ngồi xuống, vừa uống trà vừa trò chuyện như chưa từng có chuyện gì.


* * *    


- Lý Đàn, anh thấy gì không?

- Thấy.

- Đám người này là… ai?

- Đàn tôi không rõ. Nhưng nhìn không giống người phương Nam.

- Là người phương Bắc sao?

- Không hẳn.

- Hay là…

- Là cái gì?

- Là… người Chiêm Thành?

- Chiêm Thành? Chúng vào Đông Kinh làm gì?


Bàn trà của Lý Đàn và người bạn đồng môn nằm trên lầu nhưng ở vị trí khá sáng. Từ trên nhìn thẳng xuống sảnh là ngay vị trí bàn trà của đám thương nhân ngoại lai đó. Đám người này hung tợn, hành vi có chút khác thường, chẳng rõ có ý xấu gì không. Dẫu sao Đại Việt vừa mới trải qua tang tóc, vua tuổi còn non dại, là lúc nguy hiểm nhất vì lũ giặc cỏ bên ngoài sẵn sàng lăm le dò thám. Chỉ cần có chút sai sót gì là biên cương có thể dậy sóng. Phàm là thân nam nhi, vai đã nặng trung hiếu thì làm gì cũng phải nghĩ đến dân nước. Lý Đàn luôn tạc dạ những lời dạy này của các bậc Thánh hiền nên đối với những kẻ lạ mặt, y cũng thận trọng dò xét hơn.


“Tránh ra! Tránh ra! Đoàn vận chuyển muối của Long hổ Thượng tướng quân vận chuyển muối vào kinh sư! Tránh ra! Tránh ra!”

“Tiếng gì vậy?”. “Không rõ nữa. Hình như là xe vận chuyển muối”. “Vận chuyển muối sao?”. “Không rõ”. “Ra xem đi!”.


Tiếng rao từ bên ngoài phố chợ vang vọng khắp nơi. Đám khách trong trà lâu cũng bị tiếng rao đánh động, cứ thế kéo hết nhau ra đường như sợ lỡ dịp nghe ngóng. Người bạn hữu của Lý Đàn cũng bị đám khách làm loạn tâm trí, y siết mạnh cây quạt trên tay, ngó mắt sang Lý Đàn, hỏi gấp “ra xem! Có chuyện gì rồi”. Đàn gật đầu. Hai chàng thư sinh nối gót nhau chậm rãi bước xuống lầu…


"Ra kia xem chuyện gì". Gã mặt trắng ra lệnh cho bốn tên to con. Ngay lập tức, bốn gã to con cũng đứng bật dậy, hòa vào đám quan khách. Keng. Chẳng biết vội vã thế nào một trong bốn gã to con đụng mạnh vào một cái gương, phát ra âm thanh rất lớn. Âm thanh này lại trùng hợp lọt vào tai Lý Đàn khi y đi ngang bàn trà của họ. “Tiếng vũ khí”. Lý Đàn nhăn vầng trán, đứng lặng một hồi mới thoát suy nghĩ, theo đám quan khách ra ngoài.



[i] Bồ và vi là hai loại cỏ lau và sậy ở dưới nước, thân mềm, rễ chắc bám sâu vào nước rất khó chặt đứt. Câu “bồ vi dai như tơ” là mượn ý từ câu “bồ vi nhận như ty, bàn thạch vô chuyển di” trong bài thơ “Tiêu Trọng Khanh thê”. Tác giả mượn hình ảnh cỏ lau sậy mềm mại như tơ, nghiêng mình dưới nước để chỉ vẻ đẹp thiếu nữ của Văn Như Ngọc khi múa hát: mềm mại nhưng vững chãi. Vừa không mất cái yểu điệu của thục nữ vừa giữ được cái khí chất vững chãi, kiên cường.

[ii] tức màu vàng non. Tương diệp là cách gọi trang nhã của người xưa, các bậc Nho học.

[iii] Thành ngữ. Nguồn gốc của nó xuất phát từ bài thơ “Đăng khoa hậu” của thi sĩ Mạnh Giao thời Trung Đường. Đây là hai câu thơ cuối bài thơ. Nguyên văn của nó là: “Xuân phong đắc ý mã đề tật, nhất nhật khan tận Trường An hoa”. Mạnh Giao thi rớt hai lần, đến lần thứ ba mới đỗ tiến sĩ. Vì quá vui mừng nên sau khi thi đỗ ông đã ngồi trên ngựa dạo khắp một vòng Trường An xem hoa vào ngày xuân mà trong lòng vô cùng vui sướng. Về sau, câu “xuân phong đắc ý” được dùng với nghĩa ám chỉ con đường thăng quan tiến chức thuận lợi, ai ai cũng phải ngưỡng mộ. Cũng dùng để tả cho việc một ai đó bỏ công sức vất vả làm điều gì đó, sau được thuận lợi gặp hái thành công thỏa ước nguyện thì người ta gọi người đó là “xuân phong đắc ý”.

[iv] Tóc búi chuy kế là kiểu tóc búi to trên đỉnh đầu (giống với kiểu tóc búi củ hành ngày nay). Kiểu tóc này khá phổ biến vào các triều Lý, Trần, Lê (theo ghi chép của Ngàn năm áo mũ).

[v] Hai câu thơ trong bài thơ “Tương phùng hành” của Lý Bạch. Dịch nghĩa: “Chẳng thà đừng gặp mặt. Gặp rồi tình đậm sâu”.

[vi] Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1424, Lê Lợi thực hiện kế hoạch tấn công vào Nghệ An, quân Minh bị đánh đến dồn vào núi Khải Lư trốn.

[vii] Nay là huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.

[viii] Nay là huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An.

[ix] Huyện Thanh Chương phía nam giáp huyện Đỗ Gia nên Lý Hổ mới nói với Văn Cao rằng họ ở sát cạnh nhau.

[x] Câu này được tác giả lấy từ hai câu thơ trong bài thơ Ngu mỹ nhân kỳ 1 của Lý Dục - vị vua nước Nam Đường thời Ngũ đại thập quốc phân tranh. Hai câu gốc là “Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu, cáp tự nhất giang xuân thủy hướng đông lưu”. Dịch nghĩa: “Hỏi lòng chàng chứa được bao nhiều sầu, đáp rằng đầy như một dòng sông xuân chảy mãi về hướng Đông”.

[xi] Trích Kim Cổ kỳ quan. Mấy câu thơ này ngụ ý tả cảnh nàng Kiều Loan trao thân cho người yêu.

[xii] Trích Kim Cổ kỳ quan. Mấy câu thơ này ngụ ý tả cảnh nàng Kiều Loan trao thân cho người yêu.

[xiii] Trích Kim Cổ kỳ quan. Mấy câu thơ này ngụ ý tả cảnh nàng Kiều Loan trao thân cho người yêu.

[xiv] Hoa điền là một kiểu trang điểm thời xưa. Dùng chu sa đỏ vẽ lên mu bàn tay, trán để làm điểm nhấn. Sơ Ảnh là “hoa mai”.

[xv] Hơ nóng một vật dụng làm bằng sắt hoặc thép đến khi vật đó nóng đến đỏ lên thì dí vào da thịt tạo thành vết sẹo.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

  • avatar
    Tử Đằng

    24 phút đọc ko lãng phí. Truyện hay quá. Càng ngày càng nhiều nhân vật xuấ hiện. Lúc đầu mình tưởng truyện này ko có tuyến tình cảm tại thấy viết về Nguyễn Trãi, mà còn là lúc già nữa. Ai ngờ tác giả ko tập trung tình cảm cho Nguyễn Trãi mà cho nhân vật phụ. Thấy anh chàng học trò Nguyễn Trãi chắc yêu nàng ca cơ Văn Như Ngọc rồi. Họ là một cặp đúng ko nè. Hí hí tôi khoái 

Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout