Chương 10: Trẻ con bách tính


Tẩm điện Lam Sơn, canh năm[i]

 

Nguyễn Cung dẫn theo vài thị nữ đi đến trước cửa tẩm điện thì dừng lại. Hai tên nội thị giám canh cửa vừa thấy Nguyễn Cung dường như cũng hiểu ý, khom người cúi chào rồi nép sang một bên. Nguyễn Cung đứng trước cửa tẩm điện, hạ thấp người, kề môi sát vào cửa lí nhí giọng gọi khẽ:

 

 

- Bệ hạ! Đến giờ rồi!

 

Trong ngoài tẩm điện đều im bặt. Sáng hừng đông, sắc đen chưa tan thì mặt trời đã ló chút tia sáng đầu tiên đỏ hỏn lẫn vào không khí đen kịt. Trời se sắc lạnh. Sương đêm chưa tản, còn vương vấn trên mấy đầu ngọn trúc; hòa theo hơi thở của gió dậy lên mùi trúc lịch [ii]dìu dịu, thống khoái. Gọi thêm vài tiếng vẫn không nghe thấy gì, Nguyễn Cung xoay người nhìn lên bầu trời. Màu đen của đêm chưa tàn, màu đỏ của tia mặt trời hòa quyện tạo thành sắc màu huyền thiên [iii]trầm lặng, mờ tối. Biết sắp đến giờ, Cung sốt ruột đẩy cửa vào trong.

 

Tẩm điện được chia thành hai gian. Gian ngoài đặt một bộ trường kỷ bằng gỗ lim chạm khắc tinh vân. Bên cạnh trường kỷ đặt một cái bàn gỗ, bên trên đặt một chân hương bằng đồng, tỏa ra mùi hương sen thơm mát. Gian trong đặt một cái sập gụ cẩn xà cừ, khảm trai “trúc hóa long” vô cùng tinh tế. Phía trên sập phủ một mảnh chiếc rèm lụa màu vàng nhẹ quét thẳng xuống đất. Sập gụ được đặt ngay trung tâm tẩm điện nên dễ bị ánh sáng lọt vào. Rèm lụa mảnh nhưng chất liệu đặc biệt nên mỗi khi ánh sáng chíu vào lại dịu mát như ánh trăng, người nằm ngủ trong đó không bị ánh nắng làm khó chịu. Bên cạnh sập đặt một cái bàn bằng gỗ lim với một bức phù điêu gỗ chạm khắc tinh xảo bên trên.

 

Nguyễn Cung nhẹ nhàng bước đến, nhìn thoáng qua rèm thấy hoàng đế Nguyên Long còn đang say ngủ cũng không dám đánh động; lùi về sau mấy bước, đứng ngay vị trị giữa sập vái vào trong:

 

- Muôn tâu Bệ hạ! Sắp qua giờ Dần rồi! - Vẫn im bặt không đáp. Nguyễn Cung sốt ruột hơn, nâng cao âm giọng - Bệ hạ, sắp trễ giờ rồi. Bệ hạ!

 

Người bên trong rèm khẽ động đậy nhưng vẫn chưa thấy choàng tỉnh. Nguyễn Cung lúc này càng cuống cuồng hơn, tay chân bắt đầu lóng ngóng… Y tiến thêm vài bước, đứng dưới đầu sập, vén rèm định gọi thì từ bên ngoài truyền vào một đợt âm thanh huyên náo; Nguyễn Cung thả tay khỏi bức rèm vừa vén được một góc, hộc tốc chạy ra ngoài.

 

- Dạ, dạ bẩm Đại Tư đồ… - Hai tên nội thị canh cửa run lẩy bẩy lễ Lê Sát.

 

Sát mặt đằng đằng sát khí, đứng dạng chân nhìn chằm chằm vào bên trong tẩm điện, tay chỉ thẳng mặt hai tên nội thị giám đang cúi đầu chịu tội, miệng thét ra lửa:

 

- Đám nội thị giám bọn mi là lũ vô dụng. Biết rõ sắp đến giờ Tế Thiên lại chậm trễ việc đánh thức Bệ hạ. Tế Thiên qua giờ lành, có điều chi phật ý Thiên công giáng tội xuống con dân Đại Việt… đầu của đám nội thị giám bọn mi có gánh nổi không hả?

- Dạ… dạ… - hai tên nội thị giám mặt xanh môi tái, lắp bắp không thành lời, cứ vậy mà cúi gằm mặt nghe Sát trách tội.

- Dạ, bẩm Đại Tư đồ! Bệ hạ sức khỏe ngàn vàng nên chúng tôi tuyệt không dám khinh suất. Ngặt nỗi trời hừng đông còn sương, tháng giêng trời đương vào xuân nên đôi khi có mê ngủ một chút âu cũng lẽ thường. Bệ hạ cũng sắp thức rồi, sẽ nhanh chóng đến lễ Tế Thiên, Đại Tư đồ chớ lo. – Cung từ tẩm điện chạy ra, vừa vái chào vừa cười nói, cố ý cắt lời Sát.

- À à… quan nội thị đó à?

- Dạ, bẩm Đại Tư đồ, là Nguyễn Cung ạ!

 

Sát nghe Nguyễn Cung hành lễ, liếc nhìn một cái rồi hắng giọng “hứ” một tiếng, giũ mạnh hai ống tay áo, hất hàm:

 

- Làm ta tưởng là tên nội thị nào được sủng tín rồi bao che cho đám nô bộc không biết tôn ti này… hóa ra là quan nội thị. Mi được dạy dỗ phép tắc thế nào mà một chút lễ nghĩa cũng không biết vậy, ngang nhiên nói chen vào chuyện quốc gia đại sự, hửm?

- Dạ bẩm…

- Quan nội thị nào dám. Xin Đại Tư đồ chớ có quá lời – Từ đàng xa, một giọng nói nhẹ mỏng như nước vang lên cắt ngang cơn thịnh nộ của Sát. Nguyễn Cung còn đang khúm núm chưa định hình được gì đã thấy Đại Tư đồ nhăn cặp chân mày, xoáy ánh mắt hằn học lửa vào một bóng dáng thướt tha, bước đi uyển chuyển như tơ liễu buông mành từng bước tiến lại.

 

Người đến là một thiếu phụ với đôi lông mày mảnh như khói chiều, mắt ướt như chứa lệ; nhìn vào có lúc như chứa chan tình tứ có lúc lại hững hờ như không. Môi đỏ màu son. Đôi gò má ửng hồng như hoa đào đương xuân lại điểm xuyến hai lúm đồng tiền vô cùng duyên dáng. Nàng thiếu phụ vừa mỉm cười vừa cúi đầu bái lễ. Nghi thái nho nhã, thêm gương mặt khi cười bừng sáng như mặt trời càng thấy nàng thêm mấy phần diễm lệ, đoan trang.

 

Lê Sát nhìn nàng, chẳng nói chẳng rằng chỉ về phía Nguyễn Cung, hậm hực:

 

- Chẳng hay từ lúc nào mà ngay cả việc trách mắng một tên nội thị giám của Sát cũng phải phiền hà đến người khác can gián vậy?

 

Nguyễn Cung nghe qua liền hiểu ý, biết Sát đang muốn hỏi đến người thiếu phụ vừa đến liền nhanh miệng tranh phần:

 

- Dạ bẩm Đại tư đồ! Người này là Lễ nghi Học sĩ được Bệ hạ cho vào cung lo việc dạy dỗ lễ nghi cho thị tì. Bà là phu nhân của Nhập nội Hành khiển… - Nguyễn Cung nói đến câu “phu nhân của Nhập nội Hành khiển” thì giọng cũng đưa xuống thấp hơn nửa như muốn nói cho Sát rõ nửa như không dám nói lớn sợ Sát nghe.

- Ồ. Hóa ra là thế. Sát ở tiền triều không rõ chuyện nội đình nhưng cũng từng nghe qua, triều ta có tôi trung lương đống. Chồng phụng sự tiền triều, dốc lòng làm “thần”, vợ hầu nội đình cũng cố quán xuyến cho tròn lễ đạo. Vợ chồng nhà bà Học sĩ cũng đồng lòng quá thể, rất biết cách “chiều lòng người”, hầu hạ hoàng ân.

 

Lời Sát câu nào cũng chứa ý châm chọc. Lộ nghe, chỉ nhíu nhẹ hàng chân mày rồi lại ôn tồn nhả từng chữ, âm giọng đều đều như suối chảy:

 

- Đại Tư đồ quá lời. Há chẳng lẽ thân làm bề tôi thì không thể dốc hết lòng phụng sự hay sao? Từ xưa đã có biết bao nữ anh hùng vì lòng trung sẵn sàng bỏ mạng. Lộ noi gương tiền nhân dốc chút lòng hầu hạ nội đình thì có chi mà to tát.

- Đàn bà như Học sĩ cũng hiếm có thật. Miệng lưỡi đúng ghê gớm! Bà muốn dốc lòng trung thì lo cho tròn việc đốc thúc đám nô bộc này để chúng còn biết nặng nhẹ mà gọi Bệ hạ dậy, tránh lỡ việc Tế Thiên đi!

 

Sát dứt lời, giũ mạnh ống tay áo, xoay lưng bỏ đi. Cung biết Lộ vừa giúp mình giải vây biết ơn vô cùng, dập đầu bái tạ.

 

- Bẩm bà Học sĩ, Nguyễn Cung chẳng qua chỉ là phận thấp hèn, hôm nay bà ra mặt vì Cung nên phải nghe mấy lời không hay của Đại Tư đồ…

- Chuyện Đại Tư đồ nói tôi chẳng qua vì chốn quan trường không thuận mắt với lão gia nhà tôi thôi. Tôi làm vợ, vì chồng nghe vài câu thì đáng gì. Chốn quan trường phức tạp, rối ren lắm, chớ nào liên quan chuyện hôm nay. Ông Cung tự trách làm gì.

 

 

Cung ôm tay lễ Lộ, vừa định nói thêm vài câu thì đã nghe bên trong tẩm điện phát ra tiếng gọi “Nguyễn Cung”. Không dám chần chừ, Cung cúi chào Lộ rồi nhanh chân xoay người chạy vào trong. Cung đi, Lộ cũng không ở lại. Nàng nhanh chóng gọi thêm vài tì nữ theo mình rồi cũng dời gót đi chuẩn bị vài thứ cần thiết cho đại giá lỗ bộ.[iv]

 

***** 

Bên trong tẩm điện lúc này chỉ còn hoàng đế và Nguyễn Cung cùng vài tì nữ đang chuẩn bị thay xiêm áo cho vua tế lễ. Lễ Tế Thiên là nghi thức bắt buộc được đặt định theo quy chế tổ tông. Phàm vị vua nào lên ngôi cũng phải chủ trì lễ Tết Thiên để tế cáo với Thiên Địa, xã tắc, tổ tông nhằm thể hiện lòng hiếu thảo với tông tổ. Lễ Tế Thiên thường được diễn ra vào sáng sớm, lúc tia sáng hừng đông xuất hiện là giờ đại cát. Tế Thiên đúng giờ lành quốc gia mới hưng thịnh, non sông mới vững bền. Những điều này, phàm là con cháu hoàng gia đều từng được dạy và phải ghi nhớ. Vua tuổi tuy nhỏ nhưng cũng hiểu rõ sự nặng nhẹ của việc Tế Thiên. Dù vậy, trẻ con mê ngủ vào những ngày xuân là lẽ thường tình. Ấu quân nhỏ dại, thi thoảng cũng cần người nhắc nhở. Chỉ có điều Đại tư đồ tánh cách kiên nghị, lắm lúc làm người ta phải thất kinh. Một phen náo loạn với sứ thần đã đủ khiếp sợ, hôm nay lại đến “thị uy” trước tẩm điện. Lời Đại tư đồ vang vang như sấm, lý nào vua không tỉnh chứ. Chẳng qua Đại tư đồ là “người lớn”, trách mắng “kẻ dưới” vài câu, vua cần chi ra mặt. Chi bằng cứ mơ mơ màng màng, chờ qua cơn dông rồi hẵng tỉnh mộng có gì không tốt.

 

 

Vua thay xong xiêm áo, mũ miện chỉnh tề đứng ngắm mình trong chiếc gương đồng lớn. Bộ Cổn phục nặng nề, mũ miện cao nặng cứ như tảng đá đè hết lên mình vua. Vua không giữ nổi, cứ vậy mà thuận miệng “nặng quá”. Nguyễn Cung đứng sau hầu vua, nghe hai chữ “nặng quá” này cũng bất giác thở dài. Bộ Cổn phục quả thật rất nặng. Giang san, xã tắc… một đôi vai nhỏ gánh lên “nặng tựa Thái Sơn”.

 

Vua soi mình trong gương, vô ý nhìn thấy vẻ mặt đăm chiêu của Cung phản chiếu qua. Suy ngẫm một lúc, vua quay đầu nhìn Cung, buột miệng:

 

- Nguyễn Cung!

- Muôn tâu Bệ hạ, Nguyễn Cung xin nghe!

- Trong nhà mi nghiêm đường [v]còn không? Có anh chị em gì không?

- Muôn tâu Bệ hạ, song thân tôi[vi] mất sớm. Tôi là anh cả, bên dưới còn ba đứa em nhỏ.

- Có đứa nào… có đứa nào trạc tuổi trẫm không?

- Muôn tâu Bệ hạ, em nhỏ đã trưởng thành rồi. Đứa bé nhất cũng đã mười lăm.

- Vậy à? Khanh… kể trẫm nghe chuyện lúc nhỏ của anh em khanh đi!

- Muôn tâu Bệ hạ! Lúc nhỏ nhà tôi có bốn anh em. Tôi là con cả, phải chăm nom các em. Ngày đi làm nông, các em ở nhà tự chăm sóc nhau. Có gì ăn nấy. Có hôm không có gì ăn thì cố nhịn, uống nước cho qua cơn đói. Nhà nghèo không sợ, đói không sợ. Chỉ sợ “nhà dột cột xiêu”, mưa xuyên vách lá… đâu đâu cũng là nước. Bốn anh em trải rơm mà ngủ, ôm nhau vừa kể chuyện cho nhau nghe vừa dỗ nhau ngủ đến tận trời sáng…

- Những điều đó là cuộc sống thường ngày của bọn mi à?

- Dạ, phải.

- Có anh em chơi cùng đúng là thích thật. Vậy giờ Dần bọn mi làm việc gì?

- Muôn tâu Bệ hạ, giờ Dần… giờ Dần là giờ nghỉ ngơi nên chúng tôi chỉ ngủ. Làm việc thì chỉ làm ban ngày.

- Giờ Dần nghỉ ngơi, ban ngày làm việc là những gì mà bọn trẻ con bách tính đều làm à?

- Muôn tâu Bệ hạ, đúng vậy ạ!

 

Vua nghe xong, trầm lặng cúi đầu, hai hàng mi mắt theo đó rũ xuống. Mũ miện cao trên đầu cũng bị cái cúi mặt của vua kéo xuống nặng trĩu.

 

Vua thả hơi thở vào tầng không, chậm rãi bước ra ngoài. Một nhóm người đứng xếp hàng ngay ngắn hai bên đứng chờ sẵn. Nguyễn Cung đi trước, tiến đến chiếc kiệu sơn son thếp vàng trước cửa, quan sát tỉ mỉ từng chút một rồi mới đứng nép sang bên bái lễ. Hoàng đế bước đến kiệu, chân đạp nhẹ lên bậc gỗ màu son rực rỡ, hờ hững nhìn vào bên trong kiệu, nhắm hờ mi mắt như nghĩ ngợi rồi mới chậm rãi ngồi vào trong. Kiệu vua đi trước, đoàn đại giá lỗ bộ theo sau. Từng tốp, từng tốp ngưười cứ thế chậm rãi bước đều theo từng bước đi của kiệu phu. Vua ngồi trên kiệu, cứ mỗi nhịp kiệu lắc lư người cũng đổ theo. Vua mỏi mệt vỗ nhẹ vầng trán, thi thoảng tựa lưng vào kiệu, đầu óc trống rỗng, chẳng còn gì ngoài mấy câu trò chuyện khi nãy với Cung.

 

“Giờ Dần nghỉ ngơi, ban ngày làm việc là những gì bọn trẻ con bách tính đều làm”. “Có anh em chơi cùng đúng là thích thật”.

 

Gió đêm lạnh buốt, cứ xộc vào từng thớ da thịt làm mòn tâm trí. Hoàng đế ngồi trên kiệu, trầm tư nghe gió thốc. Gió ngưng thổi, vua lại ngước nhìn bầu trời còn sao chưa lặn rồi gọi Nguyễn Cung đang đi bên cạnh kiệu mà rằng:

 

- Từ ngày mai, ra lệnh chỉ huy cho các quan trong triều, cấm tuyệt đối không được thân cận với Quận vương Lê Tư Tề. Ai làm trái lệnh, theo phép xử tội.

- Muôn tâu Bệ hạ, cẩn tuân mệnh lệnh!



[i] từ 03h sáng đến 05h sáng (tức giờ Dần)

[ii] Tên một vị thuốc Đông y được dùng rộng rãi trong dân gian Việt Nam. Trúc lịch là nước dịch của tre. Cách làm là chặt tre tươi thành từng đốt, đặt nghiêng lên bếp, nướng phần ở giữa cho chảy dịch ra, lấy chén hứng phía dưới. Lấy được nước trúc lịch thì đem uống luôn hoặc làm dược dẫn uống cùng các vị thuốc khác.

[iii] Từ gốc: 玄天 là cách gọi văn nhã dùng để chỉ màu đen pha đỏ.

[iv] Là một tốp quân lính cùng những thị tì, quan nội thị đi theo sau kiệu vua để hộ tống khi vua xuất hành. Quân lính theo sau hộ tống, thị tì và quan nội thị phụ trách cầm, mang những vật cần thiết khi vua xuất hành hoặc làm “chân sai vặt”.

[v] Cách nói trang nhã để chỉ “cha mẹ”.

[vi] Tác giả từng đề cập ở mấy chương trước, từ “tôi” mà nhân vật dùng là “tôi tớ” chỉ kẻ nô bộc chứ không phải là đại từ nhân xưng số ít. Theo tìm hiểu của tác giả, vua chúa Việt Nam thời cổ đại không dùng các từ như “nô tì, nô tài” như Trung Quốc mà chỉ dùng “tôi” để xưng hô. Đây là kết quả tìm hiểu có tham khảo qua ý kiến của các soạn giả cải lương + có xem qua các phim cung đình Việt Nam xưa, các tuồng kịch nổi tiếng được các nhà nghiên cứu sử đánh giá cao. 



0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout