Nguyễn Trãi vừa dứt câu nói, kỳ lão Đái Lương Bật cũng từ hàng ngũ vội vã bước ra, đế thêm vài câu:
- Trước giờ thi nhân của các vị luôn thích phong hoa tuyết nguyệt, trăng đêm sao thưa. Hành khiển của chúng tôi lại yêu thú u nhã, đêm ngắm trăng soi ngoài song cửa, phiếm chuyện nhân sinh. Ý tình ý cảnh đều có đủ. Đây há chẳng phải là một bức tranh đẹp sao? Huống hồ chi “dạ thâm tri tuyết trọng. Thì văn chiết trúc thanh”, tuyết trắng phủ che vạn vật, đêm đen dưới trăng càng như “tuyết trung nguyệt bạch”. Vậy đã thấy rõ Hành khiển của chúng tôi tâm tư tinh tế, còn có thể ngắm trăng qua song cửa chớ không phải chỉ nghe tiếng trúc đêm. Há chẳng phải “thi” này chứa đầy “họa” sao?
- Đúng vậy. Đúng vậy. “Thi” này có “họa”. Hành khiển của ta tài hoa bậc nhất, Bật kỳ lão cũng không hề kém cạnh. Đáng khen! Đáng khen!
Từ trên bệ rồng, hoàng đế Nguyên Long chân giậm xuống thềm vỗ tay đắc ý. Quần thần bên dưới nhất thời khó xử cũng chỉ dám cúi đầu, lén lút nhìn nhau. Sứ thần đang gây hấn đột nhiên bị hoàng đế nhỏ của Đại Việt làm mất mặt, nắn nhỏ luôn chút ngạo khí có sẵn trong người nên cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”, qua loa thừa nhận “thi” này có “họa”. Huống hồ chi hôm nay hắn thay vua bang giao là vì lượng vàng tiến cống chớ nào vì một bức họa vô tri.
- Bệ hạ! A Tề thần hôm nay sứ Đại Việt là vì lòng hữu hảo đến để chúc mừng Tân đế lên ngôi. Quà mừng đã gởi rồi xem như đã xong phần lễ. Có điều lễ thì đã xong nhưng có phải Đại Việt cũng nên biết lễ, biết phân tôn - ti, thượng - hạ hay không?
- A Tề, ông nói vậy là cớ làm sao? Cái gì là tôn – ti, đâu là thượng - hạ? – Lê Sát lại không dằn được lửa trong người, lớn tiếng hỏi lại.
- Minh triều là nước lớn. Trước giờ đối đãi với các chư hầu vô cùng “chiếu cố”. Đại Việt may mắn được Minh triều xem trọng, cho phép triều cống mỗi năm. Việc triều cống vốn là do Minh triều quy định theo quy chế, không biết tự lúc nào lại do Đại Việt các vị tùy thích vậy?
- Tùy thích là tùy thích thế nào?
- Đại tư đồ chớ vội. Chuyện lưỡng quốc bang giao, triều cống là một sự thể hiện lòng trung… điều này không đến lượt A Tề nói thì cả triều Đại Việt cũng đã minh bạch nhưng cớ sao quy chế triều cống Đại Minh đưa ra đến nơi Đại Việt thì “lòng trung” lại bị giảm xuống vậy?
Tên A Tề này lúc nói chuyện thái độ không quá khích, giọng cũng không quá nặng. Miệng cũng vừa nói vừa cười, nhưng thỉnh thoảng lại nghiến răng vài cái… nhìn xa như cười, nhìn gần như giận. Mỗi câu thốt ra lại như ngàn đao vạn kiếm khiến người nghe khó lòng đối trả. Con người này “tiếu lý tàng đao”, ắt có chỗ hữu dụng. Chính vì vậy mà hoàng thượng Đại Minh dù có nghi kỵ nhưng vẫn tin dùng. Chuyện triều cống Minh triều vốn là do bọn giặc phương Bắc này cố ý gây khó. Năm Tiên đế giành giang san đã có thỏa thuận lễ vật tuế cống sẽ theo lệ của năm Hồng Võ thứ ba. Nhưng càng về sau này, bọn chúng càng ngông cuồng hơn, lòng tham không đáy luôn đưa ra nhiều yêu sách tuế cống. Năm nay Tiên đế vừa băng, Tân đế kế vị, địch quốc càng thâm như hổ đói, quyết ăn sạch từng thớ xương thịt của Đại Việt. Bây giờ còn sai sứ sang đây hỏi chuyện, chuyến này nếu Đại Việt còn nhượng bộ chỉ sợ non sông lại thêm một lần loạn ly. Dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm thì nước sao có thể vững bền?
Nguyễn Trãi đứng bên cạnh vua, tay vuốt chòm râu lão, vừa nhìn A Tề vừa đăm chiêu. Hoàng đế Nguyên Long ngồi trên bệ rồng, đôi mắt nhỏ linh hoạt hết đảo qua Lê Sát lại đảo sang A Tề; rồi nhìn xuống quần thần, nét mặt vẫn không đổi. Chỉ có nắm tay từ lâu đã giấu vào trong ống tay áo – chẳng tỏ lòng riêng nghĩ thế nào.
Nguyễn Trãi bước xuống sảnh điện, quay người vái lên phía bệ rồng rồi lại quay sang lễ A Tề - động tác chậm rãi, mực thước. Lễ đã trọn, Trãi thong thả đứng đối diện A Tề mà rằng:
- “Lòng trung” mà A Tề đại nhân nói… Trãi tôi chỉ có thể hiểu trên “chữ” chớ không rõ trong “tâm” lẫn “sự”. Rất mong đại nhân cho Trãi tôi tỏ tường cớ sự như hà?
A Tề nghe Trãi hỏi, ngạo mạn rút trên người ra một mảnh giấy, đưa về phía bệ rồng, không chút kiêng dè:
- Đại Việt mở miệng cũng trung hiếu, khép miệng cũng lễ kính Minh triều nhưng ngay cả việc triều cống cũng nhiều lần sai sót. Số lượng triều cống của Đại Việt với quy định của triều tôi lại không khớp là thế nào?
A Tề dứt câu nói, quắc mắt đảo khắp một lượt triều thần. Mắt hắn nhỏ, trắng dã, đuôi mắt lại xếch lên vừa hung ác vừa đáng sợ cứ thế xỉa thẳng lên bệ rồng như thể lấy uy với vua tôi Đại Việt. Hoàng đế Nguyên Long ngồi trên bệ rồng tĩnh lặng hứng trọn thái độ xấc xược đó của sứ Bắc. Lê Sát đứng bên cạnh cũng không dằn nổi lửa, hùng hổ bước ra, sấn tới A Tề như muốn giết người. Bật kỳ lão vừa nhác thấy khí thế của Lê Sát đã vội bước ngang chắn trước mặt sứ thần, cản bước tiến như lũ quét đó, kính cẩn lễ đại Tư đồ:
- Bật tôi xin cảm tấm lòng chia gánh nỗi lo của Tư đồ. Nhưng dẫu sao việc tiếp rước sứ thần cũng do tôi phụ trách, thiết nghĩ Đại Tư đồ cũng thương, giữ chút sĩ diện cho Bật để Bật tiện bề ăn nói với sự ủy thác của bệ hạ.
Bật dứt câu lễ, Trãi cũng tranh lời:
- Phải, phải. Việc tiếp rước sứ thần vốn do Bật phụ trách. Đại Tư đồ để Bật làm tròn phận mình đi đã. Huống hồ chi, vua ta còn đó, trung thần, công thần không chỉ riêng Ngài… tuyệt nhiên sẽ không để con dân Đại Việt phải chịu thêm một lần loạn ly đâu!
Lê Sát nghe xong mấy lời này, cơn giận dù chưa được hạ xuống nhưng biết rõ Trãi và Bật là đại thần trước có uy với quan văn, sau có danh với vua nên cũng không tiện làm bẽ mặt nhau. Huống hồ tên sứ thần còn ở đây, đôi co nhau chỉ tổ cho kẻ thù có cớ gây sự. Chi bằng "lùi một bước biển rộng trời cao" vậy.
Sát tính khí nóng nảy lại ngạo mạn. Phàm vật cùng một loài luôn thích va nhau đến bẻ đầu mẻ trán; Sát và Tề đều ngạo mạn như nhau nên chẳng ưa nhau là phải. Việc nước trước mắt, Sát tuy giận nhưng cũng đành ép bụng nhỏ lại cho núi lửa trôi xuống. Bật nhìn vẻ mặt Sát, biết rõ đã dập được lửa nên cũng điềm nhiên như không tiến đến chỗ sứ thần, cầm vội mẩu giấy còn đang chễm chệ trên tay gã.
Đập vào đôi mắt kỳ lão là một danh sách dài vật phẩm được quy định theo lệ cống: 2700 thớt lụa, 20.000 quạt giấy, 15 vạn lạng vàng, đồ vàng bạc, tịch hàn tê, ngà voi, hương xông, giáng chân hương, trầm hương, tốc hương, mộc hương, hương nén đen… Bật đọc xong mẩu giấy, đưa qua cho Trãi quá mục. Trãi lướt mắt qua rồi cũng nhăn vầng trán. Hoàng đế trên cao cơ hồ nhìn ra mấy điều phiền muộn trong đôi mắt lão nên cũng một thoáng chau mày. Nắm tay kín kẽ giấu trong ống tay áo cũng khẽ động, cọ vào hoàng bào tạo ra luồng âm thanh thật mỏng. Không khí trong điện càng tĩnh lặng càng ngột ngạt. Triều thần nhất tề cúi đầu càng khiến sảnh điện phủ thêm màu u tịch. Khốn thay! Đau xót thay! Hỗi ôi con dân Đại Việt, bao đời ngã xuống chỉ vì chén cơm manh áo đã đành nhưng bấy nhiêu hy sinh cũng không thỏa được lòng tham của giặc. Chúng như sài lang mãnh thú, gặm tróc lần mòn từng thớ da thịt Đại Việt. Thậm chí khi con dân Đại Việt ngã xuống rồi, chúng lại như kền kền ăn xác thối quyết rút đến không còn xương thịt mới thỏa lòng. Cừu hận này hỏi sao nuốt xuống?
- A Tề đại nhân! - Bật gói nhỏ mẩu giấy trong lòng bàn tay, hai tay ôm lại, vái chào - Đại nhân thay vua bang giao thì cớ chi nói năng khinh suất, xem nhẹ lân bang, làm trái ý “Thiên tử” của mình?
- Ông có ý gì? Tôi đến đây hỏi về lượng vật phẩm các ông tiến cống không đủ… Bây giờ các ông một lời giải thích cũng chẳng đặng lại hồ ngôn loạn ngữ nói thành tôi khinh suất?
Bật nghe A Tề chất vấn, nét mặt vẫn giữ nguyên hòa nhã, trước sau lễ bái đầy đủ rồi mới ôn tồn đáp:
- Việc vật phẩm tuế cống ông đến hỏi chúng tôi đương nhiên sẽ trả lời. Nhưng đến khi tôi hỏi, chẳng hay ông dám trả lời?
A Tề vốn bản tánh gian xảo, nghe mấy câu này kèm theo thái độ dửng dưng như nắm chắc phần thắng của Bật nên cũng có chút trầm tư. Tề nhíu mày, hai tay chắp ra sau lưng - siết chặt. Đoạn, đảo đôi mắt nhỏ, quắc như mắt cáo của mình nhìn từ vua đến tôi Đại Việt, thái độ nửa ngờ vực nửa xấc xược:
- Đại Minh rộng lớn oai hùng, so với Đại Việt nhỏ bé thì có gì phải sợ mà không dám trả lời. Kỳ lão, ông đang xem thường ai vậy?
- Nào dám, sứ Bắc đậm lời. Chỉ có điều lúc A Tề đại nhân vào đây câu trước trách Đại Việt tôi miệng thì trọng lễ lại không hiểu tôn ti, hạch tội chúng tôi làm sai lệ cống. Câu sau lại tự khen nước mình rộng lớn, xem trọng Đại Việt; nhưng những gì đại nhân biểu hiện phải chăng đi trái với lễ giáo Minh triều các ông?
- Trái là trái thế nào, ông nói rõ! – A Tề càng nghe càng giận, phất ống tay áo ra sau, hậm hực hạch lại Bật.
- Hứ, nói mình là nước lớn mà một chút chữ tín cũng chẳng có. Ông Bật à, nói gì thì nói nhanh đi. Nói cho rõ ràng. Nói cho thấu suốt. Cớ chi mà ông cứ chần chờ - Lê Sát nóng vội.
Bật nhìn qua Sát, biết ý nên cũng không do dự; hai tay lễ về phía A Tề - trịnh trọng:
- Sứ thần đến bang giao thì ắt cũng hiểu rõ: triều tôi tiễn minh quân về trời, chúng tôi nhận cố mệnh Tiên đế đưa Thái tử đăng đế kế tục nghiệp nhà Lê. Hôm nay sứ thần vâng mệnh đến bang giao thì chắc có chuẩn bị. Nếu đã là vậy, Bật tôi chỉ xin nhắc sứ thần nhớ giùm cho: năm Tiên đế tạo ra triều Lê đã đồng thuận với Minh triều các ông lệ cống hằng năm sẽ tính theo năm Hồng Võ thứ ba. Đại Việt tài nguyên hạn hẹp, con dân Đại Việt cũng trăm bề vất vả mà vẫn chẳng đủ no… chuyện tuế cống hằng năm cũng trở thành gánh nặng. Nhưng vì lòng hữu hảo bang giao nên cũng cố mãi mới được đủ số lượng vật phẩm tuế cống theo lệ. Mỗi vật phẩm tuế cống đều do chúng tôi lên rừng xuống biển mà có. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy người Đại Việt coi trọng việc tuế công Minh triều thế nào rồi, ông hà cớ khó dễ.
- Việc lệ cống theo năm Hồng Võ thứ ba là chuyện của vua tôi với Tiên đế các ông, bây giờ Tân đế lên ngôi, nước ông thái bình thịnh trị thì lệ cống phải khác.
- A Tề! Mi ăn nói xấc xược, bất tín bất nghĩa… há còn là bậc trượng phu? A à… ta thấy rồi. Ta thấy rồi – Lê Sát vừa nói vừa chỉ tay về phía A Tề, không chút nhượng bộ - Mi mắt xếch như lươn, ấn đường nhỏ hẹp, tướng đi như sói nói như hổ… nhìn qua đã biết phường xảo trá bất lương. Đại Việt ta chung linh dục tú há chứa nổi phường bất lương? Mắt của Sát cũng không ưng bọn tiểu nhân dối trá, chi bằng để ta trừ bớt kẻ ác cho dân ta đỡ khổ.
Nói nhiều hóa dại, làm nhiều hóa thừa. Lê Sát “không dại, chẳng thừa”, tiếng vừa đoạn thì người đã chắn trước mắt Tề, chẳng cần khách khí cứ cầm kiếm toan rút khỏi vỏ. Quần thần bên dưới sợ mất mật. Hoàng đế trên bệ rồng cũng mất hết uy thế chòm dáng người thấp bé về phía sảnh điện. Trãi đứng bên vua mắt không đổi hướng cứ giữ nguyên ở nơi đang náo loạn. A Tề lúc này mặt cắt không còn hột máu, nhác thấy kiếm của Sát đã tuốt quá nửa thì chân tay bủn rủn, sụp xuống đất tự lúc nào, miệng gầm rú:
- Đại Tư đồ! Ông… ông coi thường vua mình, dám ngang nhiên hành sự lỗ mãng, toan giết sứ.
- Hứ, kiếm ta trước chém giặc, sau chém phường dối trá bất lương… có gì mà không dám – Sát ngưng tay tuốt kiếm, miệng gằn từng tiếng.
- Dối trá gì? Bất lương gì?
- Bọn sứ thần các ngươi là lũ giặc man rợ, ngang nhiên nhồi da xáo thịt con dân ta, nướng con dân ta trên ngọn lửa đỏ. Đại Việt ta nhân từ, không tính toán. Mỗi năm tuế cống theo ước định bang giao. Bọn bây lại coi lòng nhân từ thành chốn vơ vét, ba lần bảy lượt ức hiếp dân ta. Minh quân về trời, tân đế kế vị, căn cơ chưa vững, cơ đồ chưa dựng thì bọn mi đã giở quẻ nói càn hòng chiếm lợi… Không gian trá là gì? Không bất lương là gì?
Sát vừa nói vừa tuốt gươm khỏi vỏ, kề ngang cổ A Tề. Đoàn sứ thần kinh hãi, quần thần một phen náo loạn. Hoàng đế cũng dần mất bình tĩnh, bật dậy toan thốt đôi lời đã bị Trãi ngăn lại. Kỳ lão Đái Lương Bật lúc này vẫn đang quan sát tình cảnh trước mắt, thấy Trãi vẫn “bình chân như vại” thì cũng không làm gì, chỉ lặng lẽ chờ xem diễn biến.
Sứ thần phần bị dọa phần hiểu mình cô thế nên đã sợ càng sợ hơn, tay rủn rẩy bấu chặt vạt áo, hét to:
- Đại tư đồ, ông điên rồi sao? Bệ hạ, Ngài làm gì đi chứ! Sao để Đại tư đồ ngang nhiên đòi giết sứ. Bệ hạ!
Hoàng đế trên cao nghe sứ Bắc gọi cũng giật thót mình, đảo mắt nhìn Hành khiển bên cạnh. Trãi đón ánh mắt vua, gật đầu. Vua tuổi tuy nhỏ nhưng trí cũng không hề kém cạnh, lưng thẳng mắt thẳng nhìn xuống sảnh điện, dõng dạc:
- Đại Tư đồ, dừng tay! Sứ Bắc thay Minh đế đến triều ta bang giao, khanh chớ làm mất thể diện.
Vua dứt câu, nháy mắt ra hiệu cho Bật. Chỉ chờ có thể, Bật vội vã bước đến đỡ Tề vốn đang run rẩy, bước chân loạng choạng đứng lên. Phải cố lắm, Tề mới có thể hoàn hồn đứng vững. Lúc này, Sát thấy Bật đã đỡ Tề dậy lại thêm có câu nói của vua nên cũng thu kiếm vô trong, hất mặt nép sang một bên cánh hữu. Chờ Tề lấy lại bình tĩnh, Sát yên vị trí rồi hoàng đế mới tiếp lời:
- Đại tư đồ vốn theo phụng sự Tiên đế, công lao chấn Trời; phần lại nhận cố mệnh Tiên đế tiếp nối phụng sự nên hành xử có chút nóng vội, âu cũng là điều dễ hiểu. Sứ Bắc tấm lòng rộng lượng, bầu trời triều Minh rộng lớn hùng vĩ nên cũng sẽ không chấp vặt vài chuyện cỏn con để tránh tổn hao tình bang giao chứ?
Từ dưới sảnh điện, A Tề vừa lấy ống tay áo lau mồ hôi trán vừa giấu đôi mắt sắc lẹm vào mép tay áo, vờ nửa nghe nửa không lời “người trên ngôi cao”. Lau xong mồ hôi, thần hồn đã tỉnh; Tề giũ sạch hai ống tay áo, tay chắp sau lưng, chân mở rộng bằng vai, ngạo nghễ:
- A Tề nào dám. Đại tư đồ của Đại Việt anh dũng kiêu hùng, danh xứng với thực. A Tề có dịp “lãnh giáo” tài cán đã là phúc lớn rồi thì làm sao có chuyện chấp vặt. Có điều, tôi đi đường xa cũng mệt nên việc hỏi thăm hôm nay cũng xin gác lại, trở về nghỉ ngơi. Ngày khác lại đến…
- Cũng phải. Cũng phải. Sứ thần đăng trình Đại Việt, đường xa vất vả nên cứ về nghỉ ngơi trước đã. Chuyện lượng vàng tuế cống cứ luận bàn sau vậy.
Hoàng đế Nguyên Long vừa dứt câu nói, A Tề cũng chẳng ngần ngại xoay người đi thẳng một mạch. Điện Phụng Thiên sau một phen náo loạn cũng được trả lại không khí nghiêm trang, tĩnh lặng.
Trời ngả về chiều, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mặt trời rọi chút vạt nắng vào điện Phụng Thiên. Màu áo hoàng bào rực rỡ bị ánh chiều tà ám vào một góc áo. Hoàng đế Nguyên Long một tay bấu chặt vạt áo bào, mắt nhắm chặt, vừa thở dốc vừa lí nhí hỏi:
- Hành khiển, như vầy đã đúng chưa?
- Muôn tâu Bệ hạ, đã đúng rồi!
[1] Hai câu được trích từ bài thơ “Dạ tuyết” (夜雪) của Bạch Cư Dị. Nguyên văn câu gốc chữ Hán là “夜深知雪重. 時聞折竹聲”. (Dịch nghĩa: Đêm khuya thấy tuyết rơi nặng, Có lúc nghe tiếng cành trúc gãy).
[1] Thành ngữ, được lấy từ điển cố: Tể tướng của Đường Huyền Tông là Lý Lâm Phủ có bề ngoài và xử sự hết sức hòa nhã, thân thiện nhưng thực chất lại là người cực kì nham hiểm, dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ các đối thủ chính trị khác. Câu thành ngữ tương tự “miệng Nam mô, bụng bồ dao găm”.
[1] Vật tuế cống theo lệ năm Hồng Võ thứ ba gồm có: đồ vàng bạc, sừng tê, ngà voi, lụa trắng, hương xông, giáng chân hương, trầm hương, tốc hương, mộc hương, hương nén đen, quạt giấy, 5 vạn lạng vàng… (theo ghi chép của Đại Việt Sử Ký)
Bình luận
Chưa có bình luận