Sứ thần phương Bắc chuyến này đi sứ Đại Việt là A Tề. Con người này nổi tiếng tham lam, giảo hoạt lại vô cùng hống hách. Nghe nói ở phương Bắc, vua Minh tuy dùng nhưng cũng có mấy phần kiêng kị. Gã A Tề này biết rõ lòng vua có điều hồ nghi nên ngoài mặt nhất nhất trung thành, ra sức làm việc, bên trong lại giở vài "tiểu xảo" nhỏ hòng chiếm lợi. Hoàng thượng Đại Minh dù có mấy phen sinh nghi nhưng vẫn không thể thẳng tay tra tội vì vẫn còn nhờ vào lòng trung và năng lực của y giúp vua trị nước. Đại Việt vừa tiễn "minh quân" về trời, ấu quân còn thơ đã ngồi lên bệ rồng; vua tôi nhà Minh nếu thật có lòng hữu hảo viếng thăm thì đã không cữ một tên bụng dạ chứa đao kiếm như A Tề đi sứ phương Nam rồi. Chuyến này sai sứ đi Đại Việt có lẽ bọn vua tôi nhà Minh đã tính toán rất kỹ mới giao trách nhiệm cho tên A Tề tiếng xấu đồn xa này, mục đích cũng chỉ có một: bức ép đến cùng vua tôi Đại Việt nhằm chiếm cái lợi cao nhất.
Tân đế vừa lên ngôi, mọi việc ổn định về mặt kinh tế - xã hội, ngoại giao với các nước lân bang còn rất nhiều điều dù cố làm nhưng cũng vẫn chưa ổn thỏa. Mà đất nước đang trong buổi đầu thiết lập lại bộ máy dưới trướng Tân đế nên càng có nhiều sự phiền hà. Chính vì vậy sẽ vô tình tạo cơ hội cho những kẻ âm mưu thôn tính dọ thám nội bộ. Huống hồ chi khi Tiên đế vừa về trời, Tân đế chưa kịp lên ngôi, bọn giặc phương Bắc này đã từng giả dạng người Chiêm Thành lẻn vào Đại Việt vô cớ bắt người nhằm dọ thám. Lần này chúng lại hiên ngang đến, chắc chắn chuẩn bị không hề ít.
Người ta nói thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Muốn biết thực lực của một đất nước không chỉ xét về thế mạnh quân sự mà còn phải xét về thế mạnh trí tuệ. Một đất nước có nhân tài, có sức mạnh mới là đất nước mạnh. A Tề là sứ thần phương Bắc thì đương nhiên càng hiểu rõ hơn ai hết.
Từ sáng sớm, điện Phụng Thiên đã rộng cửa đón tiếp. Bệ hạ ngồi trên ngai rồng, mình khoác hoàng bào, đầu đội xung thiên[i], dáng người thấp bé. Hai bên tả hữu quần thần nghiêm cẩn, quan phục, cao sơn[ii] chỉnh tề tiếp rước. Sứ thần phương Bắc ngạo nghễ tay chắp sau lưng, chân bước chữ bát khí thế đi vào. Theo sau tên sứ thần A Tề là một tên tùy tùng tay còn ôm hai bức tranh. A Tề vừa đi vừa dáo mắt nhìn hai bên tả hữu nhớ từng nét mặt quan thần. Quan thần Đại Việt không hổ là xuất thân danh gia, người nào người nấy khí thế áp đảo. Quan văn gương mặt nho nhã, nghiêm nghị, tuổi lão vẫn không mất khí độ. Quan võ nét ngài đĩnh đạc, hung tợn nhưng không mất đi bá khí. "Quả đúng là nghĩa quân Lam Sơn anh dũng thiện chiến. Tên nào tên nấy sát khí đằng đằng, hùng hổ dọa người. Hèn gì năm đó Vương Thông [iii]phải chịu hàng, thua đau đớn như vậy". A Tề lướt đôi mắt lên Nguyễn Trãi và Lê Sát đang đứng hai cánh tả hữu sát bên bệ rồng thì không khỏi cảm thán trong lòng. Tiến vào giữa sảnh điện đình, A Tề liền không chút khách sáo, hướng mắt lên bệ rồng, vừa vuốt chòm râu vừa dõng dạc lên tiếng:
- Kính chào bệ hạ! Thần là A Tề thay mặt hoàng đế Minh triều đến đây chúc mừng Tân đế kế vị!
A Tề nói dứt câu thì chắp hai tay ra sau lưng, đầu ngẩng cao nhìn lên bệ rồng, thấy Tân đế chỉ là đứa trẻ liền chẳng cần lễ nghĩa cứ vậy nhếch môi cười, xem triều Đại Việt như chốn không người. Nguyễn Trãi đứng bên cạnh vua, đôi mày cũng đã nhíu lạy. Còn Lê Sát vốn tính tình cương nghị, thẳng thắn nên cũng chẳng cần kiêng nể gì, bước ra đứng chắn trước mặt A Tề, đanh thép:
- Ta nghe nói triều Minh coi trọng lễ tiết, vậy mà sứ thần sang Đại Việt ngay cả bang giao cũng không trọn lễ thì là vì cớ gì?
- Ha, tiếng vang đồn người Giao Chỉ[iv] tính cách hào sảng, bộc trực... Hôm nay được gặp quả đúng "danh xứng với thực".
Tên A Tề này đúng thật kiêu ngạo còn không kém phần nham hiểm. Hai chữ "Giao Chỉ" từ miệng hắn buông ra cũng vô cùng hung hiểm: vừa đề cao nước hắn vừa hạ sĩ khí nước Đại Việt. Lê Sát là Đại tư đồ có cố mệnh của tiên đế giúp vua bện trị giang sơn đương nhiên khi nghe mấy lời xấc xược này của A Tề càng thêm lửa giận. Bản tính Lê Sát "nóng hơn Trương Phi" nên chẳng cần suy nghĩ, khí thế hừng hực chỉ thẳng mặt tên sứ thần, không chút khách sáo:
- A Tề, mi nghe cho rõ! Nơi mi đứng là đất Đại Việt. Người mi đang đối diện là con dân Đại Việt. Ăn có thể tùy ý nhưng nói phải "uốn lưỡi bảy lần". Nếu mi không thích dùng cái lưỡi của mình thì để Lê Sát giúp mi cắt xuống. - Lê Sát nói xong, chẳng khách khí gì sấn người tới vài bước dọa sợ tên sứ thần phải nhảy ra khỏi vị trí, né tránh.
- Đại... Đại tư đồ! Ông chớ làm càn. Nếu không... Nếu không... binh đao chiến loạn, chiến hỏa phân phi [v]đấy!
- Binh đao chiến loạn? Lê Sát này còn sợ chuyện khói lửa ngộp trời đó hả? Cùng lắm lấy thêm vài cái thủ cấp Liễu Thăng, Bảo Định Bá[vi]. - ngưng giây lát, Lê Sát đỏ ngầu đôi mắt, giọng vang như sấm rền, nhìn thẳng mặt A Tề mà rằng - A Tề, mi nghe cho rõ! Nhập gia thì phải tùy tục. Mi hôm nay đến Đại Việt bang giao thì phải theo lễ Đại Việt. Vua chúng tôi ngồi trên bệ rồng, là người được mệnh trời ủy thác trách nhiệm non sông Đại Việt, chí ít mi cũng nên vái chào mới là phải đạo.
Lê Sát vừa nói vừa ôm tay vái lên phía bệ rồng, thái độ kính cẩn làm gương. Đám quần thần phía dưới bắt đầu xào xáo, che miệng rỉ tai nhau phiếm luận thái độ của sứ thần. A Tề dáo mắt nhìn quanh, biết đang trong thế khó nên cũng không dám ngông cuồng, chỉ đành chắp tay vái lên phía bệ rồng, qua loa lấy lệ. Quan thần Đại Việt nhìn lên tuy bụng cũng không dễ chịu gì với thái độ trịch thượng đó của sứ thần nhưng nhìn qua thấy thái độ Đại tư đồ càng như muốn ăn thịt người thì cũng chỉ dám bấm bụng, rỉ tai nhau tìm cách xoa dịu Đại tư đồ chớ cũng nào dám nói thêm câu gì. Có câu “ăn cơm vua thì chia nỗi lo của vua” nhưng tiếng tăm Đại tư đồ trong triều hiển hách, tính cách lại vô cùng nóng nảy, xử sự theo cảm tính. Sứ thần phương Bắc đến bang giao mà vẫn chẳng chút kiêng dè chuyện bang giao, chẳng sợ lưỡng quốc giao tranh thì đủ biết lá gan Đại tư đồ lớn đến đâu. Hơn nữa, Tân đế lại còn quá nhỏ nên quan thần dù có muốn cùng vua chia nỗi lo cũng sợ rớt mất cái đầu nên chỉ biết nhìn nhau ra hiệu chớ nào dám bước lên can gián. Ngó lên cánh tả, chỉ thấy Hành khiển Nguyễn Trãi nét ngài ung dung, vẫn không lên tiếng càng khiến lá gan quần thần thu hẹp lại.
Trãi quan sát thái độ quần thần bên dưới biết lá gan triều thần đã bị khí thế Đại tư đồ nắn nhỏ lại rồi nên càng giữ im lặng. Thân là bề tôi, nếu chỉ có chút việc đã tự mình làm rối thì chỉ tổ khiến ngoại bang chê cười. Đại tư đồ nóng tính lại vô tình ép khó chính mình lẫn sứ thần bị treo ngược trên giáo. Giờ mà ai bước xuống trước cũng đều là tự mình làm mất mặt lại mất luôn quốc thể. Sĩ diện chính mình là chuyện nhỏ nhưng bộ mặt đất nước thì không thể mất. Nguyễn Trãi hiểu rõ điều này nhưng thân là Hành khiển - vị thế cao trong quan văn lại biết rõ sứ thần cố ý làm nhục quốc thể Đại Việt nên mới không ngần ngại buông ra hai từ “Giao Chỉ” đó. Đại tư đồ dù nóng nảy nhưng cũng là thay vua tôi Đại Việt giữ gìn quốc thể nên dù thế nào cũng không thể lên tiếng can ngăn để tránh quần thần cho rằng Hành khiển và Tư đồ không chung lòng phò vua mà sứ thần lại được thể đó “coi trời bằng vung”. Suy đi tính lại, chỉ còn kỳ lão Đái Lương Bật là có thể thay mặt đứng ra can ngăn, giàn hòa. Bởi vì kỳ lão cũng từng thay Đại Việt đi sứ phương Bắc, chuyến này sứ thần đến Đại Việt cũng do Đái Lương Bật lo việc tiếp rước. Lưỡng quốc giao tranh tuyệt không trảm sứ. Đái Lương Bật và A Tề đều là sứ thần đại diện đi sứ nên xét thân phận hoàn toàn phù hợp để lo việc bang giao lại không mất quốc thể. Nguyễn Trãi tâm tư khó lường, suy tính thiệt hơn rõ ràng liền phất tay ra hiệu Đái Lương Bật. Đái Lương Bật hiểu ý cũng vội đứng ra, ôm tay vái lên bệ rồng xong lại quay sang lễ sứ thần rồi lễ Lê Sát, từ từ khuyên giải. Đái Lương Bật lời lẽ cẩn trọng, thái độ mực thước, ngôn từ sắc sảo nhưng điềm đạm trước gởi lại hai từ “Giao Chỉ” cho A ề, tiếp nhắc lại một giai đoạn lịch sử Lam Sơn hào hùng, sau nhắc ơn Thái tổ anh minh, khen bề tôi trung trinh báo quốc mới tạo nên Đại Việt hôm nay. Cuối cùng dùng lễ bang giao, lòng hữu hảo của Đại Việt nhắc nhở sứ mệnh của sứ thần triều Minh khi đến Đại Việt để đừng làm mất quốc thể, đừng phụ sứ mệnh được giao. A Tề nghe xong, không thể đáp lại một lời. Lê Sát nghe mấy lời phân trần của Đái Lương Bật cũng nguội lửa giận, phần vì bản thân Lê Sát cũng là Đại tư đồ, không thể làm mất quốc thể. Chút hỏa khí cuối cùng của cũng nhanh chóng tản đi hết.
Sau màn “đại náo” của Lê Sát và A Tề, không khí trong điện Phụng Thiên cũng tĩnh lặng hơn hẳn. A Tề lại ra hiệu cho tên tùy tùng theo hầu dâng lên hai bức tranh vẽ. Một bức tranh vẽ một cành đào, trên cành đào có một con chim đang đứng. Bức tranh còn lại là một bức tranh trắng với một vết mực đen khá to ở giữa. Chưa vội để quần thần kinh ngạc, A Tề đã lớn tiếng:
- Thần nghe nói Đại Việt chung linh dục tú[vii]. Mấy ngày trước khi đến Đại Việt, Khâm Thiên giám của bổn triều có xem tinh tượng thấy văn khúc tinh[viii] chiếu sáng phương Nam nên đoán được phương Nam có hiền tài. Hôm nay nhân dịp sứ sang Đại Việt, thần xin dâng một bức vẽ. Trong tranh có huyền cơ, đây là tên hai nhân vật nổi tiếng thời Tam quốc trong sử sách bổn triều. Rất mong Đại Việt có hiền tài có thể giải đáp cho thần biết tên hai nhân vật này…
A Tề vừa đoạn câu nói, phía dưới quần thần đã bắt đầu bàn tán. Nhìn lên trên bệ rồng, hoàng đế Nguyên Long không một cái chớp mắt đã từ tốn chỉ tay về phía bức tranh, hỏi xuống quần thần:
- Các khanh nhìn rõ bức tranh của sứ thần rồi chứ? Có ai có thể trả lời câu hỏi của sứ thần không?
Đám quần thần bên dưới “ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi” ai ai cũng cúi đầu, không một tiếng đáp. Vua càng thêm sốt ruột, nét ngài đã chau lại mà vẫn chưa nghe được câu trả lời. Đưa ánh mắt dọ xét về phía Đại tư đồ vẫn không nhận được chút hồi đáp, nhìn qua bên cánh tả đã thấy Hành khiển Nguyễn Trãi tay vuốt râu, ánh mắt sáng rỡ nhìn vào bức tranh. Vua như mở cờ trong bụng, trực diện nhìn vào ánh mắt sứ thần bên dưới, ra lệnh:
- Đại Việt nhân tài không thiếu. Bức tranh của sứ thần rất đẹp. Nhưng hôm nay việc tiếp rước sứ thần đã được trẫm giao phó cho Hành khiển vậy thì để Hành khiển của trẫm trả lời thay cho trọn lễ vậy!
Nguyễn Trãi vừa nghe lệnh truyền, lập tức ôm tay thành búa vái về phía vua lễ rồi thong dong bước xuống, đứng trước bức tranh vẽ nhìn qua một lượt; tiếp đến đưa mắt nhìn sang sứ thần đang đợi câu trả lời rồi thư thái chắp một tay ra sau lưng, một tay vuốt chòm râu lão - gật gù. Sứ thần đứng bên cạnh có chút sốt ruột, Trãi biết nên cũng không vòng vo, đối mắt nhìn sứ thần, nhả từng câu chữ:
- Trãi tôi tài sơ học thiển nhưng may mắn được bệ hạ tin dùng, giao phó trọng trách tiếp rước sứ thần nên cũng chỉ có thể hết lòng, mang chút ít tài sơ ra mà đoán huyền cơ. Tranh của sứ thần vẽ một con chim đậu trên cành hoa đào. Con chim còn đang đóng lại bộ cánh. Chữ đóng là quan, cánh chim là vũ. Vậy tức là Quan Vũ. Cành đào bị chim đứng lên nên oằn xuống tức là đà. Cành đào đầy hoa thì tức là chữ hoa. Vậy người thứ hai được nhắc đến là Hoa Đà. Hoa Đà và Quan Vũ một là danh tướng một là thần y nổi tiếng trong sử sách của các vị. [ix]
Nguyễn Trãi vừa xong lời giải, bá quan bên dưới đều nhất tề gật gù, nét mặt hãnh diện nhìn về phía Trãi lẫn sắc mặt tối đen của A Tề. Có mấy vị ở hàng cuối, không nén được cảm xúc đã che tay lại cười. Phần sứ thần ngoài đen sắc mặt còn có chút tức tối. Không nói thêm nửa lời, liền lập tức đưa bức tranh trắng với vết mực tàu ra giọng kiêu ngạo thách thức:
- Hành khiển đại nhân quả đúng nhuệ trí. Nhưng hôm nay tôi phụng mệnh đến Đại Việt trước là để tặng quà sau là bang giao. Ở đây, tôi còn một bức tranh vẽ cũng là quà tôi thay mặt bổn triều gởi tặng. Ngặt nỗi Minh triều tôi vốn yêu thi hoạ. Hôm nay viếng thăm vội vã, tranh đã vẽ xong nhưmg thơ chưa đề. Có hoạ không có thi lại mất đi ý trang nhã, không biết Hành khiển đại nhân có thuận lòng đề giúp một bài thơ?
Cái gì? Đề thơ? Vậy khác nào cố ý gây khó? Tranh không ra tranh, đề bằng cách nào? Tiếng quần thần bên dưới lại bắt đầu xôn xao. Một bức tranh trắng chỉ có một vết mực tàu trên đó, vừa đen vừa trắng, ý cảnh không có lấy đâu ra ý thơ? Sứ thần lại không có thêm một gợi ý nào thì sao mà đề thơ?
Sứ thần lời nói như gươm đao, câu nào cũng sắc bén. Tặng tranh thể hiện bang giao hai nước, bây giờ tranh đã có chỉ thiếu thơ. Nếu Đại Việt không đề được một bài thơ chẳng khác nào xem thường nhã ý của nước bạn, bọn sứ thần sẽ có cớ ép khó, buộc Đại Việt triều cống nhiều hơn để "chuộc tội". Lại thêm phần, vua Đại Việt tuổi đời còn nhỏ, sứ thần phương Bắc vốn đã coi nhẹ Đại Việt ra mặt, bây giờ mà không đề được bài thơ thì càng bị xem nhẹ hơn. Quốc thể bị mất cũng đồng nghĩa Đại Việt phải cam chịu nhục. Nhưng nếu đề thơ mà không khéo, sẽ lại khiến sứ thần có thêm cớ cười chê Đại Việt không có nhân tài, Tân đế không biết cai trị. Cười chê là chuyện nhỏ nhưng nếu vì chuyện này làm cho Minh triều thừa cơ quốc gia còn đang buổi đầu kiến thiết, hao hụt nhân tài mà dấy động can qua thì càng thêm mấy phần có tội với trăm họ Đại Việt. Giữ cơm no áo ấm cho vạn nhà, giữ tiếng cười cho vạn đầu em nhỏ Đại Việt là tôn chỉ làm quan xưa nay của Nguyễn Trãi nên bức tranh này dù khó đề thì cũng vẫn phải đề.
Nguyễn Trãi trầm ngâm nhìn bức tranh không ra tranh trước mắt, đôi mày nhíu lại. Vốn dĩ trong tranh không có cảnh nên nếu Trãi tùy ý đề một bài thơ tả cảnh chỉ sợ sứ thần có cớ lật lọng. Nhưng nếu đã nói là tranh thì phải có thơ tả. Thơ không tả được tranh thì đó không phải bức tranh. Sứ thần càng có thêm cớ để nói. Đề thơ cũng không được, không đề thơ cũng không đặng. Quả đúng là tiến thoái lưỡng nan. Quần thần bên dưới hiểu rõ điều này nhưng cũng chính vì hiểu rõ mà không ai dám lên tiếng, chỉ đành nín thở chờ xem Nguyễn Trãi gỡ thế bí. Hoàng đế Nguyên Long tuy tuổi còn nhỏ nhưng không phải không hiểu rõ, cũng chỉ đành im lặng quan sát, phó thác trọng trách lên vai Nguyễn Trãi. A Tề nhìn dáng vẻ trầm tư, hai hàng chân mày chau lại, nét mặt tối đen của Nguyễn Trãi thì mừng thầm trong bụng, càng không kiêng dè nhếch môi cười vừa vui vừa đắc ý. Không khí điện Phụng Thiên mỗi lúc mỗi ngột ngạt, tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng thở của mỗi người.
U trí dĩ ưng trần ngoại tưởng
Thanh tiêu hoàn ái tuyết trung khan.
Song tiền nguyệt bạch cung giai thưởng;
Thoái thực liêu tương ngụ tạm hoan.[x]
Trong sự im lặng của điện Phụng Thiên, bài thơ
của Nguyễn Trãi vang lên như một nét chấm phá đặc biệt trong những bức tranh thủy
mặc. Từ trên bệ rồng, hoàng đế Nguyên Long cũng không kìm được cảm xúc, vừa cười
to vừa vỗ tay tấm tắc khen ngợi. Quần thần bên dưới cũng như cởi bỏ được gánh nặng
lại thêm phần thấy vua sắc mặt rạng rỡ càng muốn tỏ ý chung vui, ai nấy cũng đều
cười vang, lớn tiếng khen ngợi Hành khiển. Ngay cả Đại tư đồ Lê Sát cũng không
khỏi vỗ tay khen ngợi.
A Tề gương mặt tối sầm, giận quá hóa thẹn, mồm năm miệng mười gây hấn:
- Xưa nay trong thi phải luôn có họa. Hành khiển đại nhân đọc được thi nhưng chưa chắc “thi” này có “họa”.
Nguyễn Trãi nghe xong, lòng cũng không nao núng. Đôi mắt kỳ lão vẫn để nguyên trên bức tranh vẽ, thong dong vuốt chòm râu lão:
- Tranh của sứ thần một màu trắng xóa điểm mực đen. Thơ tôi có tuyết, có trăng tức là có màu trắng. Trăng soi song cửa tức là trăng đêm. Song cửa màu đen, đêm cũng màu đen. Vừa đen vừa trắng thì có chi mà “thi” không có “họa”?
[i] Xung thiên là một loại mũ đội đầu có hai tầng, tầng sau cao hơn tầng trước, là nơi chứa búi tóc, gáy mũ đính hai cánh chuồn hướng lên trời. Theo ghi chép của Ngàn năm áo mũ thì thời Lê sơ, giai đoạn đầu từ Lê Lợi đến Lê Thái Tông đều mặc hoàng bào, đội mũ xung thiên.
[ii] Theo ghi chép của Ngàn năm áo mũ thì Lê sơ thời kỳ đầu cho đến nửa đầu thời Lê Thái Tông (từ năm 1434 đến năm 1437 các quan trong triều đều đội mũ Cao Sơn, không phân biệt quan văn quan võ. Mãi đến sau này, Lê Thái Tông mới lệnh cho Nguyễn Trãi và Lương Đăng đặt lại quy chế triều phục và nón của các quan.
[iii] Vương Thông là một tướng chỉ huy của Minh mà ta đánh thắng trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi lúc đó là tham mưu, thay mặt vua nhiều lần viết thư chiêu dụ Vương Thông và đã thành công giảng hòa, còn khiến Vương Thông ra mặt khuyên triều Minh giảng hòa với quân Lam Sơn, giảm bớt thương vong chiến tranh.
[iv] Theo ghi chép từ các nguồn sử liệu thì nhà Minh vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Việt Nam lại khôi phục phủ Giao Châu. Phủ Giao Châu là một trong 15 phủ (sau tăng lên 17 phủ), cùng với 5 châu lớn khác nằm trong tỉnh Giao Chỉ, tức địa bàn Việt Nam thời bấy giờ. Sau khi Lê Lợi đánh đuổi quân Minh lên làm vua, ông đã bỏ các đơn vị hành chính cũ và chia cả nước thành 5 đạo. Các tên gọi Giao Châu và Giao Chỉ với tư cách là những đơn vị hành chính chính thức đã chấm dứt từ đó. Tuy vậy, nhà Minh vốn không thích Đại Việt và đã liệt triều Đại Việt vào danh sách một trong 15 nước “bất chinh chi quốc”, nhiều lần cố ý ghi nhận nước ta là “Giao Chỉ”, sát nhập vào bản đồ nhà Minh chứ không công nhận nước ta là “Đại Việt”. Đối với nước ta thì hành vi này là một sỉ nhục lớn. Chính vì vậy mà đoạn A Tề gọi “người Giao Chỉ” này chính là cố ý sỉ nhục khiến Lê Sát nổi giận.
[v] Từ gốc: (战火纷飞): nghĩa là khói lửa chiến tranh bay ngộp trời. Ở đây, A Tề là người triều Minh nên tác giả cố ý dùng câu gốc Hán để thể hiện nguồn gốc nhân vật.
[vi] Tên các tướng giặc triều Minh. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Sát nhiều lần đánh thắng quân Minh và chặt đầu tướng địch. Hai tên tướng địch được nhắc đến là hai chiến công lớn nhất của Lê Sát trong khởi nghĩa Lam Sơn.
[vii] Từ gốc: (钟灵毓秀): nghĩa của nó là “đất tốt sản sinh ra nhân tài”.
[viii] Sao Văn khúc. Theo quan niệm của người xưa, sao Văn khúc là một ngôi sao điềm lành, hưng vượng.
[ix] Chữ Hoa trong tên của Hoa Đà (华佗) đồng âm với chữ hoa (花) trong bông hoa. Ở đây, cách giải thích tên của Hoa Đà là dùng từ đồng âm khác nghĩa. Còn tên của Quan Vũ (关羽) là dùng từ đúng nghĩa. Kiến thức tác giả hạn hẹp nên chỉ có thể giải thích tình tiết theo những gì tác giả hiểu biết. Tình tiết trong truyện hoàn toàn là hư cấu nên có điều gì sai sót mong độc giả bỏ qua.
[x] Đây là bốn câu cuối của bài thơ “Đề thạch trúc oa” trong “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi. Dịch nghĩa ra bốn câu này có nghĩa là: “Bụi trần u nhã không hề vướng; Trời tuyết thanh tao lại thích coi. Trăng tỏ trước song bày cảnh đẹp; Lui chân chốn ấy tạm tìm vui”. Đây cũng là một tình tiết tác giả hư cấu nên có điều gì sai sót mong độc giả bỏ qua.
Bình luận
Tử Đằng
Tôi thich Nguyễn Trãi. Thấy ổng tài hoa quá nhưng ít thấy ai viết về ổng, có mỗi bạn tác giả viết thôi nên tôi hay hóng đọc lắm. Truyện hay lắm bạn!