Khi nét bút cuối cùng của Nguyễn Trãi dừng trên giấy cũng là lúc trăng khuya thu lại ánh sáng, lui mình vào đêm đen thăm thẳm. Trãi mắt nhìn bài thơ vừa được đề trên giấy, tay cầm bút đặt ngay ngắn vào nghiên mực, lòng cũng dợn lên mấy nỗi ưu tư. Một bài thơ cũ vốn đã ngủ yên từ lâu nhưng không hiểu sao có đôi khi lại làm tâm tình nhà nho hoài niệm.
Từ bên ngoài cửa truyền đến tiếng bước chân thật mỏng. Trời càng khuya dần, vạn vật càng thêm tĩnh lặng, một chút âm thanh bé tí cũng đủ dấy lên ồn ào. Tiếng bước chân khoan thai, nhịp chân nhẹ nhàng từ tốn như thể người đang bước đi cố kìm bước chân tránh làm bọn côn trùng tỉnh giấc đêm lành vậy. Trãi lắng tai nghe tiếng bước chân thanh động ngoài cửa một lúc rồi cũng bình thản nét mặt, chờ bóng người lướt đến bậu cửa rồi mới vuốt chòm râu lão, nhẹ nhàng cất tiếng “với” theo nhịp chân hỏi khẽ:
- Phòng tôi khêu đèn chắc làm phiền phu nhân?
Lộ chậm rãi bước vào, dáng dấp khoan thai. Không vội đáp lời Trãi, nàng từ tốn đặt cái khay gỗ trên tay lên bàn, đôi mắt tinh ý liếc thấy bài thơ còn chưa khô mực, môi điểm nụ cười:
- Nhà tranh mấy gian phòng nơi nào cũng chôn ánh đèn. Đêm đen mờ tối, thiếp chỉ muốn tìm nơi có ngọn đèn sống soi tỏ chút tâm tình. Có mỗi phòng sách còn vương bóng tỏ nên tiện bước ghé qua chớ nào phải chuyện phiền hà.
Lộ dứt lời, nâng tay rót một tách trà đưa cho Trãi. Trãi đón tách trà, nhấp một ngụm, khoan thai ngồi xuống cũng đưa tay ra hiệu Lộ ngồi đối diện, bắt đầu trò chuyện:
- Côn Sơn trước giờ yên bình, thanh vắng. Lòng ẩn dật cũng theo đó mà trở nên thanh nhàn. Tiếc là hôm nay Côn Sơn đón khách quý, bụi trần Đông Kinh theo chân khách ghé qua chắc cũng làm nàng nghĩ ngợi?!
- Sao… phu quân biết?
- Đêm khuya sương dày, phòng sách khêu đèn… Nàng nếu lo cho tôi tuổi lão thì chỉ đến với một tách trà. Đàng này… nàng còn mang theo một bức họa – Trãi vừa nói vừa chỉ tay vào bức họa còn nằm trên khay gỗ, tiếp lời - bình sinh dũng tướng thương đao kiếm, văn nhân yêu thư họa. Nàng mang họa đến tìm tôi ắt có việc muốn mượn họa tỏ ý. Đây cũng là cách làm của bậc văn nhã. Nhưng Lộ à, tôi với nàng là vợ chồng, nàng cần gì phải ý gần ý xa giữ kẽ như thế phỏng làm tình vợ chồng thêm xa vời hở nàng?
Lộ nghe Trãi nói, không vội vã phân trần cũng chẳng mảy may ngó đến bức họa của mình, chỉ giữ ánh mắt để lên bài thơ trên bàn. Trãi cũng thuận thế nhìn theo mắt nàng, đợi nàng cầm bài thơ lên xem thì thong thả đọc lại:
Năm chục năm chìm nổi với đời
Non quê khe suối phụ duyên rồi
Danh hư họa thực nên cười quá
Ghét lũ trung côi dáng xót thôi
Khó tránh số mình là bởi mệnh
Chưa tiêu đạo thánh ấy do trời
Trong lao lưng giấy cam mang nhục
Cửa khuyết nhờ đâu đạt một lời?[i]
- … bài thơ cũ nhưng hôm nay đọc lại trong lòng cũng khó tránh bi xót, ấy là do đâu nàng biết không? - Lộ đặt lại mảnh giấy lên bàn, lắc đầu. Trãi thở dài buông lời giải thích – Nho sĩ học bao nhiêu sách thánh hiền cũng chỉ để nghe lời thánh nhân, thấm nhuần cái đạo nhơn nghĩa mà trui rèn chính mình, lấy đó làm gương sống ngay thẳng như tùng trúc. Tôi cũng tự nhận mình là thân Nho sĩ cũng học đạo thánh hiền cả một đời người vậy mà có lúc cũng không tiêu được hết cái lý của bậc thánh nhân, cũng vì chút danh hư mà mang họa thực vào mình, mấy bận cam mang nhục với danh Nho gia… đi một vòng lớn như thế mà hôm nay lại sắp chực chờ vận thân mình vào nghiệp công danh. Lời thánh nhân tôi không thấu tỏ tự thấy thật hổ thẹn, vận của mình do số trời định sẵn tôi cũng nào dám oán than. Chỉ hiềm một nỗi một chút lòng trung lại không qua miệng lưỡi chốn quan trường.
- Phu quân nói vậy là… đã có quyết định rồi chăng?
Trãi nghe Lộ hỏi, không trả lời ngay vào câu hỏi mà chỉ phớt lờ chỉ lên nghiên mực, giọng đanh thép:
- Ngô Từ nói với tôi bản thân là kẻ nông gia không uống được bao nhiêu thùng mực như tôi nhưng lão cũng có lòng trung của thần tử, nàng nghĩ xem tôi cả đời nhà tranh hàn vi, thứ có nhiều nhất trong nhà chỉ có sách và nghiên mực đầy thì phải chăng cái mệnh đã định sẵn phải hiến thân cho gấm vóc giang sơn hay ngồi nhàn nơi đây mài mực vẽ tranh, viết chữ trải lòng?
- Phu quân! Lòng của kẻ sĩ chỉ dám vì giang sơn nằm xuống. Nhưng mà… - Lộ nói đến đây, giọng càng thêm nặng nề dường như trong đôi mắt nàng còn ẩn chứa nhiều nỗi lo kỳ lạ - chốn quan trường mưu sâu khó đoán, lòng vua lại có lúc bó hẹp nơi chân tường, phu quân muốn làm trung thần lời ngay trước điện đình chỉ sợ là khó càng thêm khó. Phu quân thăng trầm chốn quan trường nhiều năm, có lúc cũng phải bỏ nợ công danh về vui thú Côn Sơn nhưng nếu bụi trần Đông Kinh còn đeo mang bám chân người thì âu cũng là số trời. Thiếp chỉ xin… tháp tùng đến ngày trả xong nợ với non sông.
- Cám ơn tấm lòng của nàng. Có nàng đồng hành, Trãi tôi cũng không uổng phí một đời người.
- “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu” lời dạy của bậc thánh nhân, thiếp là phận gái thiếp thời phải theo. Huống hồ chi thiếp theo đây là theo người trí, theo vua phụng sự thì càng phải trọn trung quân ái quốc. Có điều, chuyến này về Đông Kinh sợ rằng… phải đối diện với nguy khốn…
Lộ vừa nói vừa nhấc bức tranh trên khay gỗ ra để lộ bên dưới một mẩu giấy nhỏ, nàng nhặt lấy đưa cho Trãi. Bấy giờ Trãi mới chú ý thì ra dưới bức họa trên khay gỗ còn có một mẩu giấy. Đón lấy mảnh giấy trên tay Lộ, Trãi thong thả nghiền ngẫm từng dòng chữ. Mẩu giấy nhỏ mang theo tin tức của Đông Kinh gởi đến cho vợ chồng Trãi. Sự đến không bất ngờ nhưng nếu không có hung hiểm thì Ngô Từ cũng không phải bôn ba tuổi lão đến tìm Trãi làm chi. Sự ở Đông Kinh cấp thiết mà Từ gặp Trãi cũng không đề cập nửa lời. Tuần trà vãn, rượu cũng cạn nhưng bạn cũ vẫn ngại nhau chuyện gánh vác non sông? Từ vì gánh vác non sông mà bôn ba tuổi lão nhưng lòng trọng bạn cũ lại không mang chuyện hung hiểm ra gọi bạn về, chỉ mang lòng thành để trưng cầu lòng bạn. Ngô Từ ơi Ngô Từ, hóa ra lòng một lão nông gia cũng có lúc ôm thiên hạ vào lòng.
- Sứ thần phương Bắc vâng mệnh Minh triều đến Đại Việt âu cũng là vì chuyện lượng vàng tiến cống. Bề mặt chỉ là việc bang giao hai nước nhưng xưa nay sứ thần viếng thăm cũng luôn mang theo nhiều sự phiền hà cốt gây khó dễ cho triều ta. Phen này tôi về ắt cũng không tránh khỏi dây dưa với đám sứ thần phương Bắc rồi.
- Chính vì vậy nên thiếp mới… lòng dạ chẳng yên!
- Tôi thì chẳng quá lo như nàng. “Kí lai chi tắc an chi[ii]”, sự đến cứ thản nhiên đón lấy, dẫu gì đây cũng không phải lần đầu Đại Việt đón sứ thần. Có điều... Chuyện phúc họa xưa nay luôn khôn lường, trời nếu thương con dân Đại Việt thì vẫn mong độ hành cho tôi đủ trí đủ tài hoàn thành sứ mệnh tiếp rước cũng giữ được chút thể diện của nước nhà cốt sao vì Đại Việt giành về chút lợi cho dân mình đỡ khổ.
- Đám người phương Bắc xưa nay nổi tiếng gian tham, vơ vét đến không còn ngọn cỏ chỉ e việc số vàng tiến cống lần này bọn nó không nhân nhượng cho ta. Vốn tính bọn ăn người không nhả xương thì sao dễ dàng cho chúng ta có lợi được. Vậy mới thấy chuyến này… họa căn hung hiểm không dễ bề thu xếp.
- Đánh giặc bao năm tay không tấc sắt, bó lưng buộc bụng cố gom lương thảo mà đánh chúng ta còn đánh được thì đâu lý nào lại không lo được chuyện ngoại giao địch quốc.
- Thiếp vốn biết phu quân chuyến này về ắt có chuẩn bị sẵn. Có điều… lần này trở lại Đông Kinh dầu gì chân cũng vướng bụi trần nên thiếp có chút luyến tiếc cái sự thanh nhàn của Côn Sơn. Cho nên… cho nên…
- Cho nên nàng mới mang sự nuối tiếc đó đến đây cho tôi giúp nàng ve vuốt tâm tư?
Trãi dứt câu hỏi, xếp tay áo lên một góc rồi với lấy bức họa đang yên vị trên bàn, ngắm nghía. Đôi mắt già cũng ngưng lại trên núi non hùng vĩ, tùng trúc mướt xanh. Tranh Côn Sơn đã vẽ từ rất lâu, chỉ tiếc rằng lòng Nho sĩ bao năm khắc cùng vận mệnh sông núi lại chẳng thể vẽ ra. Nay lại phải khăn gối về lại chốn bôn ba, bỏ lại bức tranh chưa vẽ xong thế này âu cũng có chút nuối tiếc. Vợ chồng bao năm, lòng Trãi cũng chỉ có Lộ là tỏ tường. Dưới ngọn đèn hiu hắt của đêm Côn Sơn, Lộ thong thả mài mực không nói một lời, Trãi cũng tĩnh lặng cầm bút đề thơ. Mực đen in trên giấy trắng càng làm bức tranh vẽ Côn Sơn thêm hữu tình mà cũng không kém phần nuối tiếc, bi xót:
Rừng suối nửa đời phải lãng xao
Gia hương sau loạn phí chiêm bao
Tùng reo bậc đá ai nghe thấy?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?
Vắng vẻ yên hà gan ruột nẫu
Não nùng vượn hạc ý tình đau
Toan nhờ thiên hạ cao tay vẽ
Nhờ vẽ lòng ra cả thế nào.[iii]
[i] Bài thơ “Than oan” của Nguyễn Trãi (nằm trong tập thơ Ức Trai thi tập) được làm khoảng năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) lúc Lê Thái tổ nghi ngờ Trần Nguyên Hãn làm phản nên bỏ ngục Trãi vì có họ hàng với Hãn. (ghi chép của Nguyễn Trãi toàn tập).
[ii] Thành ngữ (từ gốc: 既来之,则安之) là một câu thành ngữ cổ được trích từ Luận ngữ của Khổng Tử, nguyên văn câu viết đó là “phu như thị, cố viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Kí lai chi, tắc an chi”, nghĩa là Khổng Tử muốn nói “làm như thế, người (dân) ở xa không phục, hãy tu sửa văn đức, khiến người ta tìm đến. Đã đến rồi thì làm cho họ được sống yên ổn”. Câu “kí lai chi tắc an chi” cũng từ đây mà ra, hàm ý của nó là mình đã đến một nơi nào đó rồi thì phải thấy thoải mái, bình tâm lại mà yên ổn sinh sống. Hay còn có thể hiểu theo một nghĩa khác nữa đó là chuyện gì đến cũng đã đến, phải bình tĩnh đối mặt với nó. Ở đây, câu Nguyễn Trãi nói được hiểu theo nghĩa thứ hai, tức là chuyện gì đến cũng đã đến, phải bình tĩnh đối mặt.
[iii] Bài thơ “Nhờ người vẽ tranh Côn Sơn” của Nguyễn Trãi (nằm trong tập thơ Ức Trai thi tập).
Bình luận
Chưa có bình luận