...





Nếu cha tôi nhìn thấy cây chì bấm bị mất, chắc ông sẽ không hài lòng. Một lần, trong sự bất ngờ của tôi, cha bảo sao tôi lại dùng một cây bút như thế kia. Chuyện là hồi trước, tôi có một cây bút màu hồng, in hình bướm hoa chim cá gì tôi chẳng còn nhớ nữa. Nhưng trông món đồ rất “nữ tính”. Cha tôi từ trước đến nay vốn chưa từng thể hiện ý kiến của mình trước những thứ tủn mủn, vặt vãnh ấy, mà ông có thể nhận xét gì đây, điều đó không những không thay đổi được bản chất của vấn đề, mà còn biến ông thành một hình tượng mà vốn dĩ chẳng ai muốn trở thành: thiên kiến, gia trưởng, cổ hủ, bảo thủ. Nên vào cái lần ông nhắc nhở tôi về cây bút màu hồng, tôi đã rất bất ngờ, tôi không nghĩ ông sẽ nói vậy và có lẽ cha tôi cũng bất ngờ về chính câu nói của mình sau khi thốt lên. Khoảnh khắc khi ấy qua đi rất nhanh. Bây giờ tôi nghĩ, cây viết chì bấm này cũng sẽ thế thôi, cũng rất trẻ con, sặc sỡ, màu mè, hoa hoè hoa sói. Hẳn cha tôi cũng không thích nó. Nhưng cha sẽ không ý kiến như trước nữa, nếu muốn ý kiến thì chẳng phải cái mái tóc để dài của tôi mới là thứ đáng ý kiến nhất ở đây hay sao, tôi để tóc dài còn được thì sá gì một cây bút chì bấm sặc sỡ? Hay mọi chuyện không phải nằm ở cây bút chì màu gì, nữ tính hay nam tính, tóc dài hay tóc ngắn, vấn đề nằm ở một điều khác. Bởi vì tôi để tóc dài cũng xấu chứ đâu có đẹp đẽ, nếu tôi để tóc dài mà đẹp thì tôi cứ để và lựa chọn ấy dễ hiểu. Song, vấn đề là ngay từ hồi thử đội cái mái tóc giả của Thị Kính, tôi thừa biết rằng mình để tóc dài rất xấu, nhưng tôi vẫn chọn để. Đấy mới là vấn đề, nó không dễ hiểu, nó khó hiểu, nó sai trái về mặt mỹ học, nó điên khùng về mặt xã hội và nó ngu ngốc về mặt cá nhân. Dẫu sao thì một cây bút chì bấm có thể thay ngòi là lựa chọn đúng đắn, tôi đã dùng nó suốt từ cái ngày tôi cùng với Minh đặt chân lên thành phố này đến tận bây giờ. Chẳng hiểu sao, hồi ấy tôi đi thi mà chẳng nhớ đem theo bút chì để tô trắc nghiệm, hay tôi có đem nhỉ. Phải rồi, đúng là tôi có đem, tôi đem theo một cây bút chì ruột than, nhưng bởi vì với tính khí lo xa vốn dĩ luôn là tôi, tôi nghĩ chỉ một cây bút chì thì không ổn. Thứ gì cũng không nên chỉ có một cái – nghĩa là chỉ có một lựa chọn (tất nhiên là ngoài người yêu, tất nhiên, nhưng tôi nghĩ vẫn cần chú thích). Bước vào phòng thi với cái đề trăm phần trăm trắc nghiệm với mỗi một cây bút chì thì có hơi quá can đảm, quá mạo hiểm. Thế là nhân dịp đi nhà sách, tôi mua thêm một cây bút chì có thể thay ngòi và mua một hộp ngòi, tránh việc bất trắc có thể diễn ra vào sáng hôm sau. Dưới quê chúng tôi có một nhà sách và chúng tôi, trong những buổi đi chơi mà chẳng biết đi đâu, sẽ lựa chọn đi đến đó như một lựa chọn an toàn. Nhưng khi lên thành phố, tôi và Minh vẫn muốn đi thử một nhà sách trên đây xem sao, ngày mai chúng tôi còn đi đường sách nữa. Có thể hiểu lý do là bởi vì tôi và cô đều là những người thích sách, đi nhà sách là hợp lý. Còn một lý do nữa, đi nhà sách là một lựa chọn an toàn với chúng tôi, địa điểm ấy khá ổn. Tôi không nhớ tôi có mua quyển sách nào vào ngày hôm đó không, chỉ nhớ là tôi có mua cây bút chì ngòi bấm màu vàng và dùng đến tận bây giờ. Nghĩ vậy, tôi bỗng nhiên hoảng hốt, nếu tôi không tìm thấy cây bút ấy nữa thì sao, tôi hẳn sẽ không chỉ mất một cây bút, tôi sẽ đánh mất cả một câu chuyện, một đoạn hồi ức của mình, dù nén một hồi ức vào một món đồ vô tri thì khí quá đáng. Nhưng điều này thúc tôi sợ hãi, tôi cũng sợ mình làm mất sợi dây buộc tóc kia nữa, bởi vì nó gắn với một ký ức khác cũng quan trọng không kém – mà, ký ức nào chẳng quan trọng chứ? Rồi tôi nghĩ, quá nhiều thứ giá trị, quá nhiều thứ không thể mất, quá nhiều thứ cần phải tìm lại. Những thứ mà tôi đã tin nếu có mất cũng không sao thật ra lại rất có sao. Hay tôi chưa đủ trân trọng bản thân mình, cuộc sống của mình và những điều mình trải qua? Có gì sai ở tôi chăng. Tôi thấy mình chưa đủ hoảng loạn, chưa đủ bất an. Phản ứng của tôi chưa đủ mạnh, chưa đủ kịch tính cho những tình huống xứng đáng để phản ứng như vậy. Tôi cần tìm ra chúng, chúng phải ở đâu đó quanh đây thôi, cây bút thì chắc chắn đã nằm đó và sợi dây cột tóc chắc chắn đã được để ở một chỗ dễ thấy, cái điện thoại nhất định cũng sẽ được tìm ra. Chỉ là tôi đang bị che mắt, chúng đang rơi vào điểm mù của tôi mà thôi, như những lần mẹ tôi bảo tôi lấy một thứ nằm ngay trước mắt tôi, nhưng bằng một cách nào đó tôi không thể thấy, để mẹ phải gào toáng lên và tôi hoảng loạn, tôi lại càng không thể thấy, cho đến khi bà đứng dậy đi tới tận chỗ và tự mình lấy cho nhanh. Chắc chắn chúng chỉ nằm ở điểm mù của mắt tôi thôi. Liệu ký ức có điểm mù của nó không, liệu những gì tôi nhớ và kể lại, dẫu tôi thề thốt là mình đang thành thật, vẫn chứa những biến thể, chưa đủ khách quan, quá nhiều điểm mù và những điều chính tôi cũng không thể hiểu hay điều khiển được. Tôi không nhớ cái nhà sách mình và Minh đã bước vào hôm ấy là nhà sách gì, ở đâu. Chỉ nhớ nó là một nhà sách lớn. Chúng tôi còn đi đến những địa điểm quan trọng, đi bằng xe buýt với thẻ học sinh. Xe buýt dưới quê của tôi khác với trên thành phố, chúng sẽ có một người phụ xe bán vé, mỗi lần đến nơi người đó sẽ thông báo để bà con bước xuống, thậm chí nếu họ nhớ, họ sẽ đi đến chỗ người cần xuống ở trạm sắp tới để nhắc họ. Nhưng xe buýt trên thành phố thì phải tự bỏ tiền, tự nhấn nút lấy vé, tự nghe thông báo trên loa qua một chất giọng rất máy móc. Minh lại biết tất cả mấy thứ ấy, cô đã chuẩn bị sẵn sàng để sống trên thành phố này trong nay mai, tôi thì chưa nhưng phong cách của tôi là: cứ phóng thẳng vào và thích nghi dần dần. Vả lại, nếu đã có Minh giỏi như thế thì tôi vô dụng một chút cũng chẳng hại gì. Tôi nhớ, sau khi đi nhà sách xong, tôi và cô đến Bitexco và Phố Đi Bộ. Minh bảo khi đọc tản văn của các tác giả trẻ viết về thành phố này, cô đã không biết bao nhiêu lần hình dung về nó, bây giờ cô đã được ở đây rồi và chắc chắn tương lai sẽ sống ở đây. Thật đáng để trông đợi! Đáng lắm sao? Tôi không biết nữa. Chúng ta đâu thể đoán trước được gì, những ước mơ thì vô tư thế đấy, phải vậy thì ta mới có thể sống từng ngày, tiến về phía trước mà không quá rụt rè. Khi đó tôi không bảo với Minh rằng những tản văn mà cô đọc, những câu chữ sến súa, ngớ ngẩn, nông cạn ấy đối với tôi chẳng hay ho gì, sao cô lại thích chúng thì tôi không hiểu nổi. Nhưng chẳng phải bởi vì có nhiều người thích nên mấy cuốn sách và mấy tác giả kia mới bán được hàng và trở nên nổi tiếng hay sao, dù có ngốc nghếch đi chăng nữa nhưng có lẽ chúng cũng mang một ý nghĩa gì đó đối với người khác, dù sáo rỗng đối với tôi. Mà sau này, chính Minh cũng cầm những cuốn sách ấy lên và bảo rằng giờ cô thấy chúng dở tệ, chẳng hiểu tại sao ngày xưa bản thân lại mê mẩn đến thế. Đây không phải chuyện đáng buồn, thật ra nó đáng vui: ta đang thay đổi, về rất nhiều thứ trong cuộc sống, ta đã có thể nhìn ra những điều mà hồi xưa đã không nhìn ra được. Dù vậy, chúng phải có ý nghĩa nào đó thì mới trở thành best seller trên kệ hàng chứ, ai mới là kẻ ngu ngốc đây? Khi nhìn thấy Bitexco, Minh kể rằng cô đọc trong sách thấy nhân vật trong đó miêu tả toà nhà Bitexco trông như trái bắp, cô thấy đúng là như vậy. Còn tôi thì chỉ đi bên cạnh nghe cô nói, bởi vì trước đó tôi chẳng có bất kỳ một kiến thức nào về thành phố này để mà chia sẻ hay trầm trồ, hay đối chiếu giữa hiện thực với những gì mình đã mơ mộng. Tôi chỉ cảm thấy duy nhất một điều: tôi không thích thành phố này, nó hơi đáng sợ theo một kiểu nào đó, hoặc có lẽ khi ấy tôi chỉ đang phải đứng trước một trạng thái tâm lý rất bình thường khi người ta bước vào một môi trường họ không quen thuộc. Cả hai đi bên dưới toà Bitexco, chúng tôi ngắm nhìn đường phố và ngẩng lên xem cách mà toà nhà vươn lên giữa bầu trời. Khi ấy, tôi và Minh nhìn thấy một cặp đôi người nước ngoài nắm tay đi dạo trong trời chiều, vừa cười nói, ngắm nghía và sau đó họ hôn nhau, môi chạm môi, bên dưới toà nhà. Tôi chưa từng nhìn thấy ai hôn nhau ngoài đời, phim ảnh thì có rồi. Nghĩ cũng khá kỳ lạ, sao tôi lại chưa từng nhìn thấy ai khoá môi nhau ngoài đời được nhỉ, khi đó tôi đã gần mười tám năm sống trên đời. Có lẽ vì xung quanh tôi, việc môi chạm môi là một điều gì đó hơi riêng tư, việc thân mật cũng riêng tư, không nên để lộ ở giữa đường, trước bất cứ ai. Nhưng khoảnh khắc thấy hai vị khách nước ngoài ấy hôn nhau, tôi và Minh bất ngờ và cả hai nhìn nhau bật cười. Minh bảo đúng là người nước ngoài họ thoải mái thật. Chúng tôi không cười hành động hay văn hoá của họ, chúng tôi cười vì bất ngờ phát hiện ra cuộc sống có thể khác đi, rằng những bộ phim là có thật, cảnh trong phim không chỉ tồn tại trong phim mà còn có thể tồn tại ngoài đời, rằng sự lãng mạn thật dễ dàng để đạt được. Đó là một cảnh tượng đẹp, đến giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, dưới toà nhà cao diệu vợi và bầu không khí dịu dàng hôm ấy. Tôi cố gắng nhớ xem tại sao hồi đó tôi lại bất ngờ và cảm giác những người trên thành phố này đều đẹp đẽ, quá nhiều người đẹp. Tại sao bây giờ tôi không còn thấy như vậy nữa. Có thể là do sự quen nhàm của ý thức, bây giờ tôi chẳng còn thấy người thành phố xinh đẹp như ngày hôm đó tôi thấy. Tôi cũng không còn giữ được sự bất ngờ choáng ngợp trước phong cách, lối sống hay ngoại hình của người dân ở đây nữa. Mà đặc biệt hơn, tôi bây giờ cũng đã trở thành một người thành phố, đã sống ở đây hơn hai năm rồi còn gì, đã là một trong số họ, tôi vẫn thấy tôi chẳng hề đẹp đẽ, tôi thấy mình xấu xí vô cùng, thất bại vô cùng và không, sao tôi có thể xem bản thân đã đẹp hơn lúc xưa hay đẹp hơn những người ở quê. Tôi chỉ thấy bản thân thật xấu xí, dẫu cố gắng cách mấy, không chỉ đơn giản là câu chuyện ngoại hình – con người tôi, bản chất của tôi, định mệnh của tôi, chúng đều gắn liền với những thứ quê mùa, xấu xí, hèn kém, không thể thay đổi, mà thay đổi để làm gì. Ngày hôm đó, khi đứng dưới toà nhà, tôi trông thấy bên kia đường, có một câu con trai đeo chiếc cặp hình kỳ lân, sặc sỡ. Cậu ấy bước sang đường, với chiếc cặp xinh xắn trên lưng, mặc quần đùi khoe đôi chân trắng ngần, anh chàng ấy nhỏ bé và đáng yêu như một thiên sứ. Ngay lập tức, trong đầu tôi thốt lên ngay câu: người thành phố họ đẹp thật, ăn mặc có gu và tự tin là chính mình. Ước gì dưới quê, tôi có thể bắt gặp những cậu chàng như thế mỗi ngày, và tôi nghĩ nếu tôi sống trên thành phố này, tôi sẽ được nhìn ngắm những cậu chàng như thế mỗi ngày, chỉ cần bước ra đường. Nhưng đó hẳn là sai lầm, hoặc không phải sai lầm gì mà chỉ đơn giản là sự thay đổi của phong cách ăn mặc qua mỗi năm, bây giờ tôi chẳng nhìn thấy cậu chàng nào đi ngoài đường với dáng vẻ xinh xắn như thế. Hay chàng trai lạ mặt kia, người thành phố đầu tiên để lại ấn tượng trong tôi, thật ra cũng chỉ là một trường hợp cá biệt thuộc phong cách như thế, nó không hề đông đảo như tôi tưởng. Nhưng khoảnh khắc cậu chàng lạ mặt bước qua đường với dáng vẻ đó đã để lại trong tôi ấn tượng không chỉ về cậu mà còn về thành phố này, để rồi cũng giống như cậu ta, mọi thứ đẹp đẽ rốt cuộc chỉ là một giây phút thoáng qua mà ta tưởng đó là bản chất của một con người hay một nơi chốn, tôi không còn bắt gặp ấn tượng ấy lần nào trong suốt hai năm nay. Tôi ước gì có thể thấy lại, tôi cũng âm thầm tìm kiếm hình ảnh ấy trên đường, nhưng tuyệt nhiên không có. Đó là một thứ ảo ảnh bừng lên rồi lụi tàn ngay tức khắc. Có thể nào: tôi, trong một giây phút lơ là không biết, cũng đã rơi vào tầm mắt của người khác, giống như chàng trai lạ mặt ấy hay không. Có khi nào cuộc đời là những phiên bản chồng lấn mà ta sẽ không bao giờ được biết. Song, có một sự thật không thể chối bỏ là kể từ lúc lên thành phố, tôi được sống thoải mái với con người mình hơn. Nghĩa là tôi được tự tin diện những bộ quần áo mà tôi không thể tròng vào người khi còn ở quê, sống với những điều mình thích mà không lo lắng có bị ai phán xét hay không. Nuôi tóc dài. Phải, tôi sực nhớ ra và đưa tay vuốt mái tóc của mình. Tôi sẽ vĩnh viễn không thể làm được điều này nếu tôi không lên thành phố sống. Nhưng mà, có quan trọng không? Nếu cả đời tôi không để mái tóc này, tôi cứ để cái mái tóc ngắn như từ nhỏ đến lớn, thì có sao đâu. Nó đâu có quan trọng. Tôi không tin có gì đó sẽ thay đổi. Nếu tóc dài thì sao mà tóc ngắn thì sao, ai sẽ chết, ai sẽ sống, thế giới nào sẽ nổ tung và thế giới nào con người được sống trong hoà bình? Không, không có gì thay đổi cả. Vậy thì có quan trọng không? Chuyện tôi ăn gì mặc gì, chuyện ai đó theo đuổi phong cách thời trang nào, nếu nó không quan trọng vậy thì tại sao ta không sống y hệt mọi người, ăn mặc y hệt mọi người và hành xử đúng “quy chuẩn xã hội”, bởi vì có gì thay đổi đâu chứ? Tôi nhớ lần mình về nhà với mái tóc này, mẹ tôi không nhận ra tôi, không ai nhận ra tôi, cho đến khi tôi cất tiếng gọi họ. Họ xoay qua và ngờ ngợ, rồi họ nhận ra, nhưng họ lúng túng. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho tất cả những thứ có thể xảy đến, song khi chúng đến thì tôi vẫn không dễ để xoay xở. Tôi bỗng nhiên cảm thấy thương họ, rằng họ không đáng để có một đứa con như tôi, họ không đáng phải chịu đựng điều này – khi vốn họ đã chịu đựng rất nhiều điều để còn đứng được ở đây, sống đến hôm nay. Họ không đáng phải có một đứa con trai nuôi tóc dài trong nhà họ. Họ xứng đáng có những đứa con tuyệt vời hơn tôi, họ xứng đáng với những thành viên gia đình sẽ không bao giờ khiến họ bối rối, họ xứng đáng với một thằng con trai để tóc ngắn. Mà ước mơ ấy thì viển vông chỗ nào: một đứa con trai tóc ngắn? Đó chẳng phải là một điều ai cũng dễ dàng đạt được trong đời hay sao. Đó chẳng phải là thứ người ta sẽ được ban thưởng miễn là sống một cách bình thường hay sao. Vậy vì lý do gì họ lại không đạt được điều đó khi đã phải cố gắng nhiều đến thế. Tại sao tôi lại đứng ở chỗ ấy với một bộ tóc dài đến vai, xoã ra và gọi họ, như thể muốn phá huỷ tất cả hạnh phúc đời họ và những gì họ cố công đến tận ngày hôm nay để đạt được. Tại sao tôi tự cho mình cái quyền đó: cái quyền được sống hạnh phúc khi dám để tóc dài, cái quyền được vui vẻ khi dám để tóc dài, cái quyền được tồn tại đến tận giờ phút này khi dám để tóc dài. Chẳng phải tôi là một đứa con trai và tôi nợ họ một mái tóc ngắn hay sao? Đáng lẽ tôi không được phép, không có quyền hạn gì cả. Song, tôi lại khiến cho gia đình mình lúng túng trước cuộc đời họ. Lẽ ra họ phải có một đứa con trai khác xứng đáng hơn với mái tóc ngắn của chàng ta. Lẽ ra họ có thể hạnh phúc và vốn dĩ họ vẫn đang hạnh phúc cho đến khi tôi xuất hiện với mái tóc này và gọi họ, cuộc đời họ bất hạnh kể từ ấy và tất cả đều là lỗi của tôi. Tất cả đều là lỗi của tôi. Vậy mà tôi vẫn còn mặt dày sống trên đời trong khi Minh lại chết, trong khi cái người luôn quan tâm đến gia đình mình và không dám làm gì để gia đình thất vọng như cô ấy lại chọn giải pháp tự kết liễu, trong khi tôi thì còn sống ở đây, như thể chứng minh rằng mình đã đúng, dù không hề, không phải như vậy. Tôi còn sống đến giờ phút này chỉ bởi vì tôi chưa chết, chứ không phải bởi vì tôi đã đúng. Hai chuyện ấy rất khác nhau và cứ sống tiếp, ta sẽ thấy chúng có thể khác nhau đến mức nào. Và nếu tôi không để tóc dài thì giờ phút này tôi đâu có mất công mất sức nhiều vậy chỉ để tìm cái đồ cột tóc của mình. Nếu tóc tôi ngắn như hồi trước, tôi đã dễ dàng tỉnh táo ngay khi thức dậy, không nhất thiết phải làm thêm cái bước cột tóc để rồi mới đạt được cảm giác “đâu vào đó”, mà cái bước cột tóc lại nảy sinh nhiều bước nhỏ hơn, như bước đi tìm cái dây cột tóc chẳng hạn. Thì ra chúng ta thất bại theo cách ấy: không phải ở một công việc đao to búa lớn với mục tiêu thay đổi thế giới, ta thất bại khi một hôm thức dậy và không tìm thấy dây cột tóc. Mọi thứ dường như luôn khó khăn hơn một chút mỗi ngày, rồi cứ cộng dồn cho đến khi con người không thể nào chịu đựng nổi nữa. Tôi nghĩ có khi nào vật chất quyết định ý thức là ý tưởng đúng, bởi vì tôi đã mua cái dây cột tóc, nên tôi đã vô tình gieo xuống một thứ gì đó không có hình dạng, nhưng cốt lõi ý tưởng của nó là tôi sẽ để tóc dài vào một ngày nào đó, cuối cùng là tôi đã để tóc dài thật. Tôi đã bị sợi dây điều khiển, bị đồ vật điều khiển, trong vô thức mà không hề phát hiện ra. Có phải đó là giây phút bắt đầu cho vở bi kịch này: trong một khu chợ đêm ở Phú Quốc, một thằng con trai mua một sợi dây cột tóc? Có phải đó là lý do vì sao thế giới này vẫn chưa thể ổn định: vì tôi đã mua dây cột tóc khi được Yến chỉ cho xem? Nhưng gia đình không làm gì tổn thương tôi cả, họ tôn trọng dáng vẻ tôi chọn cho mình – bởi vì, họ có thể làm gì chứ. Họ không nói những lời miệt thị, gây đau đớn như những gia đình hà khắc khác. Gia đình tôi có một sự dễ tính và bao dung nhất định để họ không làm tổn thương nhau chỉ bởi vì một mái tóc dài – có đáng không, họ nghĩ biết đâu vài hôm nữa tôi lại chán và đi cắt tóc ngắn như trước, thế là mọi thứ quay về trạng thái bình thường mà chẳng cần ai phải ầm ĩ, chẳng ai biến thành “phản diện”, ta có thể ước mơ một viễn cảnh như thế cơ mà. Nhưng từ ánh mắt và cách họ đối diện với tôi ngày hôm ấy, tôi biết họ lúng túng. Trước đó, có nhiều lần cha mẹ tôi nhìn thấy những người đàn ông để tóc dài, họ chỉ đơn giản là lơ đi, xem như không nhìn thấy, họ không cần phải cố gắng đối diện hay chào đón những thứ khác với mình, dẫu sao thì đâu liên quan gì đến họ, đời ai nấy sống thôi. Song, đó là với câu chuyện của người ngoài, những người xa lạ mà ta có thể làm lơ đi. Nhưng với đứa con trai, một thành viên trong gia đình ta thì sao, những người ta không thể ngó lơ làm như không thấy thì sao. Gia đình tôi buộc phải đối diện với điều mà từ trước đến nay họ không chọn đối diện, giờ họ chẳng có lựa chọn nào hết. Họ buộc phải nhìn thẳng vào và đưa quyết định sẽ ứng xử ra sao tiếp theo: chấp nhận hay không, nói về nó hay không và nếu nói thì phải nói như thế nào. Và họ lúng túng. Và tôi thấy tội lỗi khi khiến họ phải lúng túng như thế. Tôi tội lỗi khi là chính mình. Sao tôi lại tự cho bản thân cái quyền được làm chính mình? Nếu mẹ tôi tự cho bà cái quyền được làm chính bà thì có lẽ tôi đã thành một đứa trẻ lớn lên trong gia đình tan vỡ, mẹ tôi sẽ từ bỏ mọi thứ để được sống cuộc đời bà muốn. Nếu cha tôi tự cho ông cái quyền được làm chính ông thì ông sớm đã không phải người đàn ông gắn chặt với gia đình này, mà có lẽ đã trở thành một tay dân chơi độ xe trác táng ở đâu đó. Nếu họ cho mình cái quyền được làm chính họ, tôi sẽ không thể tồn tại đến ngày hôm nay với bao nhiêu điều tôi đang hưởng thụ. Vậy thì sao tôi lại dám cho mình cái quyền được làm chính tôi? Chẳng phải điều đó rất đáng xấu hổ hay sao: sống là chính mình? Tôi hít vào và thở ra, ban đêm ùa vào mũi tôi qua hơi thở. Phải, đã có quá nhiều người hy sinh cho tôi và tôi không có quyền trách cứ họ, không có quyền để tóc dài và không có quyền lọ mọ đi kiếm dây cột tóc trong bóng đêm như thế này. Tôi chỉ đơn giản là phá hỏng mọi thứ người ta xây đắp cho mình. Nhưng giờ thì sao, trong bóng đêm này, giờ thì sao? Tôi không còn có thể từ bỏ được nữa, tôi không còn có thể chọn lựa lại lần hai, tôi đã chọn rồi và phải sống với lựa chọn ấy. Mỗi người chỉ được chọn một lần và khi những lựa chọn xuất hiện, chẳng ai có sự chuẩn bị trước cả, chẳng có dấu hiệu nào báo trước cả. Họ cứ sống và khi giật mình nhận ra thì họ đã lựa chọn xong mất rồi, từ bao giờ thì họ cũng chẳng biết… Sau khi đi dạo qua dưới toà Bitexco, chúng tôi ghé sang Phố Đi Bộ, cũng chỉ cách một ngã rẽ. Chúng tôi không bước vào toà nhà “hình trái bắp” ấy, mà cũng chẳng để làm gì, tôi và Minh không định ghé ăn uống hay mua sắm, nhưng có thể dạo chơi cũng được, tuy vậy cả hai cũng không có ý định vào trong đó dạo chơi. Hồi ấy tôi cũng không nêu ý kiến với Minh là hai đứa vào trong xem thử, và cô cũng không nốt. Dường như trong toà nhà ấy, đối với chúng tôi khi đó, là một vùng đất cấm kỵ, không được phép vào. Việc vào trong toà nhà không dành cho chúng tôi và chúng tôi tránh phải nhắc đến mong muốn này bằng suy nghĩ rằng “trong đó cũng chẳng có gì đáng xem đâu”, bởi vì, dù tất nhiên nói thế này không đúng, chỉ là ví von thôi, rằng riêng cái việc bước chân vào Bitexco đã khiến chúng tôi phải tốn tiền. Toà nhà ấy không có vé vào cổng và ta đều biết như vậy, nhưng hồi chúng tôi mới lên, có vẻ tôi và Minh đã nghĩ là cả hai sẽ phải tốn tiền để bước vào. Cả hai đáng lẽ nên vào, tôi thì không nói gì nhưng Minh rất thích toà nhà này – nó như một biểu tượng của một ước mơ sâu xa với cô – nhưng rốt cuộc chúng tôi lại không vào, ngầm chấp nhận rằng bây giờ vẫn chưa phải lúc. Điều này khác hẳn khi tôi đã lên thành phố sống. Ngay những tháng đầu lên đây, hồi vẫn còn ở bên Quận 7, cũng có thể xem là khá gần với khu trung tâm, tôi thường bắt xe đến Bitexco, đường hoàng bước vào, qua lớp cửa tự động, lên thang cuốn và ghé một quán nước trong ấy để ngồi ăn uống, ngắm mọi người đi dạo. Thật khác biệt. Sau này, một tuần vài lần, tôi sẽ lại đến cái nơi mà cách đấy không lâu vẫn còn là một biểu tượng không thể phạm đến với mình. Tôi đi Bitexco nhiều đến mức người ta thấy lạ và đùa rằng tôi sống sang chảnh quá, dù thật ra nước uống đồ ăn của những hàng quán trong toà nhà cũng y như bên ngoài thôi, vẫn ở mức giá đó. Nhưng dường như toà nhà kia là một thứ gì bất khả xâm phạm, một biểu tượng của thế giới không thuộc về chúng tôi, nên việc tôi ghé chỗ ấy chơi nhiều lần là điều gì rất kỳ lạ với người khác. Bây giờ nghĩ lại, tất nhiên là tôi có đủ vốn liếng trải nghiệm để hiểu hết về những sự cách biệt tồn tại âm thầm. Có những nơi dành cho kiểu người này và những nơi dành cho kiểu người khác. Mà việc tôi đang ở trong tập hợp này lại thích đi sang vùng đất của tập hợp khác, lại không có lý do rõ ràng, là một điều gây thắc mắc, quái gỡ. Nhưng khi trở thành một cư dân của thành phố, sống lâu năm với nó và hiểu kha khá về nó, những điều đặc biệt ban đầu sẽ trở nên bình thường, không có gì đặc biệt nữa. Bitexco thật ra là một toà nhà chán ngắt và bạn bè tôi cũng đều đã đi hết, tụi nó bảo ở đấy chán ngắt và không phải chỗ đáng đi. Tôi đồng ý. Còn giây phút đi dạo với Minh bên dưới chân toà nhà, vào cái ngày đầu tiên ấy, tôi đâu có nghĩ rằng một ngày mình sẽ trở thành một người trong số những vị khách ở đây, ra ra vào vào một cách điềm nhiên. Song, toà nhà là một câu chuyện, con người lại là một câu chuyện khác hẳn. Con người đi bên dưới toà nhà ấy lại là một tập hợp khác, quả đúng là không dành cho tôi. Toà nhà là một nơi chốn và nó có thể chào đón tất cả các vị khách bước vào trong nó, nhưng con người thì có quyền từ chối vì thế câu chuyện con người sẽ nghiệt ngã hơn. Tôi sờ tay lên chiếc bàn học, lần tìm xem sợi dây có được đặt trên đây không. Tôi cố hình dung bản thân có đang biến thành những con người đó, những con người đi bên dưới toà Bitexco, trong khoảng thời gian tôi vẫn có thói quen đến đấy ăn tối. Hình như là không, may mắn là tôi không biến thành họ, có lẽ. Tuy nhiên, không phải họ xấu xa gì cho cam, tôi chỉ không muốn biến thành họ thôi. Chuyện là hồi mới lên đây và phải bắt xe ôm công nghệ để ra Quận 1, tôi chưa có ví điện tử mà chỉ có thẻ ngân hàng và tiền mặt, mà mỗi lần đi rút tiền mặt thì ai cũng biết thế nào rồi: ATM toàn trả ra những tờ năm trăm. Tôi mà cầm những tờ tiền lớn trả phí xe thì các bác tài không có tiền để thối lại, cả hai cũng không thể đứng đó mãi. Tôi phải đi kiếm người đổi ra tiền lẻ, song chưa lần nào tôi kiếm được ai chịu giúp đỡ mình. Nhưng đó không phải vấn đề, không ai chịu giúp cũng không sao, vấn đề là cách thể hiện của họ: bước qua như không nghe, dù tôi bảo mình cần giúp, họ không nghe theo cái kiểu muốn tránh gặp rắc rối với người lạ. Sau này, tôi có hỏi bạn mình, bạn tôi bảo hãy tưởng tượng xem, nếu đang đi ngoài đường mà có một đứa lạ mặt đến bảo muốn đổi tờ năm trăm ra tiền lẻ, liệu tôi có nghi ngại không. Tôi ngẫm và thấy cũng đúng. Tuy nhiên, đúng cũng có năm bảy đường, họ có thể đúng theo một kiểu khác. Nếu là tôi, tôi nghĩ, mình ít nhất sẽ dừng lại khi có ai muốn mình giúp đỡ, rồi cứ vậy từ chối, không cần quá lịch sự, nhưng đủ tôn trọng. Nghĩa là một phần nào đó, tôi vẫn đặt niềm tin vào thế giới này, vào những người xung quanh, tôi tin rằng đây không phải một thế giới mà ta đang đi dạo trên đường thì có một người lạ mặt đến để bỏ bùa, lừa tiền, gây rắc rối cho ta. Ta phải tin đây là một thế giới mà ai cũng tốt đẹp và nếu ta đủ tử tế thì thế giới sẽ tử tế lại với ta. Bởi vì nếu không như thế, làm sao ta sống nổi. Làm sao ta sống nổi trong một thế giới mà ta tin rằng chỉ cần bước ra ngoài đường thì sẽ có hằng hà sa số những mối đe doạ, những vụ lừa lọc, những vụ thó đồ và trộm cướp? Hay tôi cũng đã nhầm lẫn. Bởi vào ngày hôm ấy, ở trên con Phố Đi Bộ ấy, khi tôi và Minh đang vui vẻ nhìn ngắm những hàng quán bên đường, nói chuyện với nhau, đột nhiên có một “bạn thỏ trắng” cầm kẹo đến hỏi chúng tôi muốn chụp ảnh với “bạn ấy” không. Tôi và Minh cứ ngỡ đấy là một sự kiện mà người ta thoải mái chụp ảnh giao lưu với các linh vật, vả lại trước đó dù có nghe về những vụ làm tiền, tôi và Minh cũng không nghĩ rằng bọn họ lại hoạt động lộ liễu, ngay trên đường như vậy. Mà, khi đó hai chúng tôi có thể làm gì, chỉ là chụp ảnh và có gì để từ chối. Nhưng dường như trong lòng cả hai đã ngờ ngợ rằng có chuyện không ổn, bộ đồ thỏ trắng không phải bạn của chúng tôi, chuyện này sẽ chẳng có một kết cục nào tốt đẹp. Nhưng chúng tôi bị đột kích và lúng túng, không biết phải từ chối thế nào và bằng một sự thúc đẩy nào đó, chúng tôi đã chụp hình với bạn thỏ trắng thật. Nhớ đến đó, tôi quỳ sụp xuống, muốn xua ký ức này ra khỏi đầu ngay lập tức, vì thật đáng gượng và đáng xấu hổ, những người như chúng tôi lại rơi vào một cái bẫy ngớ ngẩn như thế. Tôi tự làm đau mình để đánh lạc hướng cảm xúc. Tôi bấm móng tay vào bắp tay. Tôi thường phải tự khiến mình đau đớn mỗi khi nhớ đến những ký ức đáng xấu hổ. Có lúc tôi cào tay mình đến tứa máu, chỉ để bản thân chịu đựng được những ký ức ấy. Nếu không, tôi có thể chết vì ngượng, chết vì xấu hổ và – ai biết được – chết vì trừng phạt bản thân do đã để xảy ra một việc như thế. Hai năm trôi qua, gặp nhiều người mới và có nhiều mối quan hệ mới, tôi biết được rằng những ký ức đáng hổ thẹn, ngượng ngập và xấu xí thì ai cũng có cả. Chúng sẽ đến vào những lúc người ta không ngờ nhất. Khi người ta vốn dĩ đang tận hưởng một khoảng thời gian thoải mái, hoặc trước lúc đi ngủ, khi đã nằm trên giường và đắp chăn, thì những ký ức kiểu ấy ùa vào và làm người ta xấu hổ ngay lập tức, phải vò đầu bứt tóc vì khó chịu, ghét bỏ bản thân, tự bấu vào da thịt mình để tập trung nhớ về những chuyện khác. Lúc trước tôi đã nghĩ việc mình cào cấu bản thân mỗi khi nhớ đến một kỷ niệm ái ngại là biểu hiện điên khùng, tâm thần, cho đến khi tôi biết con người ai cũng đều sinh ra với cơ chế đó. Song, một khi ta đã nhớ thì không thể dừng lại, chỉ trong một phần nghìn giây là chuỗi cảnh tượng ấy ập vào, không kịp ngăn cản, đây là ký ức chứ không phải thước phim – dù các nhà văn vẫn hay ví von rằng chúng giống nhau đi chăng nữa. Hai đứa chúng tôi đã lần lượt chụp với bạn thỏ bông. Khuôn mặt Minh ngượng ngập, tôi thì cố làm ra vui vẻ. Minh sượng ngắt, nhìn vào camera điện thoại. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in biểu hiện của cô khi ấy, dáng vẻ trong tấm ảnh như đứa trẻ chẳng hề muốn việc này nhưng chẳng hiểu sao lại cứ làm. Hai đứa đều ngờ ngợ rằng nên dừng mọi thứ đang diễn ra lại, tuy nhiên chúng tôi không cự tuyệt được, không chống cự được, chúng tôi chỉ có thể xuôi theo. Nếu trong một tình huống tỉnh táo hơn, có lẽ chuyện đã khác, hoặc khi hai chúng tôi đã có kinh nghiệm xử lý những sự việc tương tự hơn – về sau, tôi cực kỳ giỏi xử lý những trường hợp dạng thế này; khi ai cũng đang ngập ngừng không biết từ chối những yêu cầu kỳ quặc hay những tình huống khó xử, tôi sẽ là người ra mặt nói ngay lập tức, đến mức Khang từng bảo tôi rằng sao tôi lại thẳng thừng được đến thế, nhưng vụ bạn thỏ bông thì không hề – nên chúng tôi bị đẩy đi, chụp ra hai tấm ảnh ngớ ngẩn, bằng điện thoại của chúng tôi chứ còn chẳng có cái máy ảnh nào. Minh khó khăn để tạo dáng với bạn thỏ, trông vào là nhận ra cô chẳng vui vẻ gì. Tôi biết là cô biết, rằng việc này sẽ dẫn đến những điều không tốt đẹp. Sau đó, bạn thỏ bán cho chúng tôi hai cây kẹo với giá năm chục ngàn. Sự thể xem như đã rồi, chúng tôi nhìn nhau, đờ người ra, một giây câm lặng, ngượng ngùng và có chút gì bẽ bàng. Minh nói mình không có tiền mặt nên tôi trả tiền cho bạn thỏ, lấy hai cây kẹo. Bạn thỏ ấy là một người con trai, giọng nói rất êm tai, có lẽ là đi làm thêm hay sao đó, nhưng bạn thỏ biết hai đứa chúng tôi chẳng cần gì hai cây kẹo hay chụp ảnh, nhìn là biết. Nhưng chúng tôi thì dễ bị lừa, và tôi nghĩ, ngay giây phút, có lẽ người đàn ông trong bộ đồ ấy – có thể là một sinh viên đi làm thêm, nghĩa là phiên bản chúng tôi của tương lai, thật đáng sợ làm sao – cũng xấu hổ với việc anh ta đang làm với hai đứa học sinh. Dù sao thì cuộc đời là vậy đó, chúng tôi đứng ở đây và cuộc đời là vậy đó. Tôi co ro người trên sàn, thở hồng hộc, những đầu móng tay bấu vào da thịt, tôi có thể tưởng tượng được những vết hằn của móng tay mình khi thả chúng ra. Việc nhớ lại các đoạn ký ức ngu ngốc thật khó chịu. Sau đó, chúng tôi rời đi, tất cả mọi niềm vui và háo hức ban đầu biến mất sạch sẽ. Tiếp theo, Minh dường như đã lấy lại chút thế đứng, cô bắt đầu lầm bầm chửi bới. Cô bảo chúng tôi vậy là đã bị lừa ngon nghẻ, hai cây kẹo với giá năm chục ngàn, thật quá đáng. Tôi bảo với cô nhìn qua những bộ lốt con vật rủ chụp ảnh này, có thể phần nào đoán ra chúng lừa đảo nhưng chẳng hiểu sao cả hai lại cứ làm thế nữa. Và đây mới là bước ngoặt quyết định: đòn tấn công cuối cùng của thành phố này dành cho tôi. Minh nhìn tôi và bảo “mày biết nó là lừa đảo à?” và tôi nhận ra mình đã rơi vào cái bẫy của ngôn từ. Bản thân tôi không có ý diễn đạt rằng mình biết, mình chỉ dấy lên nghi ngờ thôi, nhưng Minh đã nắm bắt được ngay. Đối diện tôi, Minh hậm hực, vờ vĩnh, diễn ra một màn “tao thì chẳng biết gì cả, mày biết mà lại để chuyện này xảy ra, vậy thì mày giữ hai cây kẹo đó đi, tao sẽ không trả tiền lại cho mày” và tôi phát hiện rõ ở người bạn của mình một diện mạo mà từ trước đến nay tôi chưa từng được thấy: sự hèn hạ, nghèo khổ. Tôi có thể lên tiếng bảo Minh đừng nói dối, tôi thừa biết là cô cũng biết, tôi thừa biết cô cũng giống như tôi, nghĩa là cũng đã nghi ngờ chuyện này, cô chỉ đang cố đẩy lỗi lầm qua cho tôi gánh chịu mà thôi; và nữa, nếu cô muốn tôi là người trả tiền thì cô cứ nói ra, cô cứ nói rằng cô muốn tôi cho cô số tiền đó, cô cứ “xin” thì tôi sẽ “cho”. Minh hoàn toàn có thể có những cách khác để giữ lại được vài chục ngàn quý hoá của cô, không cần phải thẳng thừng như thể cô là kẻ phán quyết, một quan toà để công kích bạn mình – người vốn dĩ cũng là nạn nhân cùng với cô. “Tao sẽ không trả tiền lại cho mày”, như thể vài chục ngàn của cô là rất quan trọng với tôi, nhưng không phải, chúng chỉ quan trọng với cô thôi: một con nhỏ nghèo khổ không dám tiêu pha bất cứ thứ gì, phá hỏng chuyến đi này bằng sự tằn tiện ngu ngốc, khách sạn thì chẳng chịu thuê mà chỉ muốn kiếm một chỗ ngủ tồi tàn để tiết kiệm vài ba đồng lẻ, tính toán từng đồng với bạn bè cốt để sao cho mình ít phải tiêu tốn nhất có thể. Giây phút đó tôi đột nhiên nhận ra, đi với Minh nghĩa là tôi đang bị cô kéo xuống ngang hàng với cô, thì ra đây là lý do người ta khuyên nhau đừng chơi với những người bạn kém cỏi hơn mình quá xa: họ chỉ chực chờ để kéo ta xuống vị trí ngang họ. Nhưng tất nhiên tôi không nói mấy lời này ra, và bây giờ nhìn lại tôi đã hiểu chúng đơn thuần là vì tôi tức giận quá nên mới nghĩ vậy, chúng đi quá xa và có nhiều phần cay nghiệt hơn mức cần thiết, nhưng tất cả chỉ là thứ cảm xúc rất con người trước một tình huống quá sốc, tôi không hẳn đã nghĩ như thế. Còn việc xấu hổ trước tình huống ấy và không muốn nhớ lại tất cả chuyện đó là có thật. Tôi cầm hai cây kẹo trong tay, nhận ra chuyến đi này vậy là hỏng bét, mọi thứ đã sụp đổ và tình cảnh của Minh – của gia đình cô lẫn của chính bản thân cô – không ổn như tôi đã tưởng. Tôi nhận ra chúng tôi tiêu tùng rồi: cuộc đi chơi, đi thi, đi dạo thành phố này, vậy là đã biến thành một ký ức xấu xí mà sau này chẳng ai muốn nhớ lại, trong khi đáng lẽ nó phải là một ký ức tốt đẹp. Thì ra tiền bạc có khả năng làm bẩn tất cả mọi thứ nó chạm vào, theo phương thức thế này đây. Tôi nhận ra mình đang bứt tóc, trong lúc chồm hổm trên sàn, hết cào cấu da thịt rồi cả bứt tóc, đúng là sức công phá của những kỷ niệm xấu xí thật ghê gớm, song tôi không thấy đau. Tôi hít vào, thở ra, điều hoà hơi thở và cố lấy lại trạng thái cân bằng. Không sao, chuyện đã qua rồi, giây phút xấu xí ấy chỉ là một dĩ vãng rất xa, không ảnh hưởng đến chúng tôi hôm nay. Tôi và Minh vẫn là bạn với nhau đến tận hôm nay, tôi đã không nói ra những lời miệt thị trong đầu khi ấy và chấp nhận không phán xét cô chỉ vì những giây phút mà có lẽ chính cô cũng không kiểm soát được. Trong khi, đáng lẽ kẻ thù chung của chúng tôi là bạn thỏ trắng, là đồng tiền, là hệ thống tư bản, là những trò lường gạt du khách, thì chúng tôi lại xoay qua thù ghét lẫn nhau, đối đầu lẫn nhau. Đây chính là cách thức mà các thế lực xấu xa hoạt động: thay vì lũ con mồi hợp sức lại để tấn công chúng, chúng có phương pháp để khiến lũ ấy thù ghét và tấn công lẫn nhau, còn người hưởng lợi duy nhất là chúng. Tôi sẽ không dễ dàng để mình rơi vào cái bẫy này, dù quả thực giây phút ấy tôi có hụt hẫng với Minh và phát hiện ra cô trong những chiều kích tôi không ngờ đến – một diện mạo có lẽ cũng giúp tôi phần nào hiểu hơn về bản chất con người nói chung – thì vẫn không được lơ là khỏi vấn đề chính yếu. Sau này, vẫn trên con Phố Đi Bộ đó, tôi và Tuyền đi với nhau, tôi nhớ lần đó cũng là cái nhóm bạn năm người của chúng tôi, nhưng tôi không rõ ba người còn lại đang ở đâu và tại sao họ không hiện diện trong đoạn ký ức này, tôi và Tuyền cũng gặp trường hợp tương tự trường hợp của bạn thỏ trắng. Có một nhóm các bạn trẻ đến bê lên trước mặt chúng tôi một chiếc mâm đầy kẹo, chắc là họ làm để bán, họ đến chào mời và tôi nhanh nhảu từ chối ngay tắp lự. Bạn thỏ trắng chỉ cần xuất hiện một lần là đủ để lại trong tôi những ánh ảnh lâu dài và những nỗi sợ không tên. Bạn bưng khay kẹo nhìn tôi và Tuyền với vẻ có hơi sốc một chút vì không ngờ lại phải nhận lời từ chối thẳng thắn, rõ ràng và thiếu ý tứ như vậy – có lẽ bạn ấy thì không như bạn thỏ trắng, bạn ấy muốn bán hàng thật. Còn Tuyền thì cứng đờ người ra, hơi nép phía sau tôi. Tuyền là như vậy và tôi nghĩ cô chưa từng phải đối diện với bạn thỏ trắng, nên cô cũng giống như tôi và Minh hồi xưa, ngần ngại và chưa biết phản ứng thế nào. Việc tôi quá thẳng thừng và Tuyền quá rúm ró, khiến cho cảnh tượng có phần buồn cười. Cả hai như những chiến binh quả cảm đang vô cùng căng thẳng, giương hết mọi giáo mác phòng vệ mà mình có lên để chĩa vào đối phương, trong khi tất cả chỉ vỏn vẹn là một cuộc chào hàng. Sau đó một lúc, Tuyền mới định thần lại và bảo với tôi rằng khi nãy tôi có hơi cứng rắn quá, cứ từ chối nhỏ nhẹ là được rồi, bạn bán hàng ấy có khi chỉ bằng tuổi chúng tôi thôi. Tôi gật đầu, giải thích là chính tôi cũng lúng túng chưa biết xử lý sao nên nói ngay vậy thôi, không có thời gian điều chỉnh thái độ và câu từ. Tôi không kể cho Tuyền nghe về Minh và bạn thỏ trắng. Không sao rồi, tôi nghĩ mình đã ổn định trở lại, giai đoạn khó khăn nhất trong chuỗi ký ức ấy đã qua. Tôi đứng dậy trong bóng tối. Dù không hiểu lắm vì sao lần đó Minh lại như thế, nhưng cũng chỉ có mỗi lần đó thôi, không sao hết, tôi sẽ xem như việc này xuất phát từ sự phức tạp vốn dĩ luôn luôn có trong đời sống con người. Cơn đau từ các vết cào cấu từ nãy đến giờ bắt đầu thấm và lan ra, tôi cảm nhận được chúng rồi. Tôi lại nhớ về những khuôn mặt ráo hoảnh bước qua mình trên đường mỗi lần tôi muốn nhờ họ giúp đỡ. Có phải họ cũng đã từng bị lừa gạt với những trò bắt chuyện trên đường phố giống như tôi khi xưa không, và chính tôi cũng đã biến thành họ, trong một giây phút: lần đi với Tuyền? Tôi rùng mình, nhận ra chuỗi bi kịch này. Có lẽ đúng là như vậy thật. Sự vô tâm của con người không phải tự dưng mà có, nó được hình thành từ một ký ức không tốt đẹp. Họ từng bị lừa dối hoặc từng thấy ai đó quanh mình bị lừa dối, thế nên họ sợ hãi và né tránh những tình huống tương tự. Và sao tôi có thể khẳng định rằng mình không giống như họ, tôi đã giống như họ rồi đấy thôi: vào giây phút đi cùng với Tuyền, từ chối quá mức thẳng thừng người bạn bán kẹo kia, với sự lạnh tanh và phòng bị đến mức đối phương cũng phát ngượng. Thì ra đây chính là cách chuỗi bi kịch được hình thành và sự vô cảm được nuôi dưỡng để nảy mầm: do những con thỏ trắng trên đường, những kẻ lừa gạt để bán hai cây kẹo với giá năm chục ngàn, những trò gian manh trí trá của cõi người. Ta trút vào nhau những nỗi sợ. Nỗi sợ đang nhân bản liên tục ở ngoài kia và ta không thể làm gì để ngừng quá trình ấy lại. Tôi cũng chỉ là một mắt xích trong chuỗi những bi kịch trên đường phố, tôi cũng chỉ là một phần trong số họ. Nghĩ ra được đến đây thì có lẽ tôi đã phần nào hiểu được cuộc sống này là gì và vì sao chúng ta lại đi đến ngày hôm nay, cũng có thể hiểu cho sự vô tâm hời hợt của những con người đó – những con người vội vàng lướt qua tôi để tránh gặp rắc rối trong khi tôi đang cần giúp đỡ. Chỉ một đôi lần tôi được giúp đỡ khi ngỏ lời với người lạ và chúng ít ỏi đến mức tôi có thể nhớ rõ được – và giúp tôi cảm thấy an ủi. Có một lần ấn tượng mà bây giờ nhớ lại, tôi không rõ vì sao nó lại như thế, hình như trí nhớ của tôi đã khuyết ở một điểm nào đó khiến cho câu chuyện trở nên khó hiểu. Tôi chỉ còn nhớ mơ hồ rằng mình bước ra khỏi Bitexco, định đặt xe về nhưng không được, tôi không rõ là do máy hết pin, ứng dụng đặt xe bị lỗi hay không có tiền mặt. Tôi chỉ nhớ mình đã kiếm ai đó xung quanh để nhờ giúp đỡ, tôi đến hỏi một người bạn cỡ tôi – lát sau tôi biết anh hơn tôi một tuổi – và nhờ anh đặt xe giúp. Rồi chuyện gì xảy ra tiếp theo nhỉ? Hình như điện thoại của anh cũng gặp lỗi, nghĩa là hôm đó toàn bộ hệ thống của doanh nghiệp ấy bị lỗi chăng. Nói chung là hai anh em cứ xoay xở một lát thì đành bỏ cuộc. Rồi bỗng dưng tôi và anh đi kiếm chỗ nào đó để ở qua đêm nay. Thật bực mình! Chuyện gì đã xảy ra ở cái khoản bị khuyết ấy nhỉ, bây giờ kể lại tôi có cảm giác bản thân là một người dễ dãi đến điên khùng, dù thực tế không phải vậy. Nhưng đầu óc tôi chẳng thể nhớ ra được gì thêm, hẳn chàng trai lạ mặt đó phải toả ra cảm giác đáng tin cậy, một vẻ hiền lành thân thiện, chúng tôi nói chuyện hợp nhau, trao đổi vui vẻ, hay anh nhìn thuận mắt tôi, hay gì gì đó – phải có lý do để sau đó chúng tôi thoải mái đi cùng với đối phương như vậy. Phải có một chất xúc tác, một sự dẫn dắt, nhưng tôi cố nhớ và không nhớ ra. Sự bất lực với trí nhớ của mình khiến tôi mệt mỏi và thậm chí có chút mầm mống đau đớn gieo vào cõi lòng tôi. Có những chuyện ta không thể nhớ nổi, nếu cố nhớ có lẽ tôi sẽ âm thầm vẽ ra một câu chuyện khác hẳn mất. Nhưng tôi sẽ tua nhanh đến đoạn tôi và anh bước vào một chi nhánh Circle K mở suốt 24 tiếng. Hồi đó tôi vừa mới lên thành phố, nên chưa biết gì về những địa điểm mở suốt đêm. Tôi không biết chúng có tồn tại, cho đến hôm đi cùng với anh chàng lạ mặt. Tôi cũng không rõ vì sao khi ấy mình lại đồng ý đi với người lạ đến một cái nơi tôi chẳng biết lắm. Tôi nghĩ đến hai trường hợp, một là hồi ấy tôi quá ngây thơ, đến mức không có chút phòng bị nào với người lạ và dẫu gì trông đối phương cũng đáng tin tưởng, hai là tôi vào cái giai đoạn này đang không ổn, có một điều gì thúc bách tôi chạy trốn, một cơ chế “đâm đầu vào chỗ chết” thúc tôi hành động trái với lẽ thường, dù có đáng sợ và nguy hiểm cách mấy. Bây giờ mà bảo tôi làm lại, tôi có dám bước theo chàng trai kia không, tôi nghĩ là không. Nhưng hãy nói cho đúng, hồi chuyện này xảy ra, tôi đau buồn nhưng vẫn còn nồng nhiệt, nghĩa là còn muốn làm gì đó phá phách, ghê gớm, nổi loạn – với tôi thì việc chọn một người lạ ngẫu nhiên trên đường và tin tưởng hoàn toàn vào họ là một trò đáng gọi là nổi loạn. Bây giờ tôi vẫn đau buồn, nhưng là một nỗi buồn tê liệt, tôi không muốn chống trả nữa, không muốn vùng vẫy nữa. Việc cố giằng ra khỏi cuộc sống mỗi ngày làm tôi mệt quá rồi, tôi sẽ từ chối những chuyến phiêu lưu không phải vì tôi thích sự yên bình, mà vì tôi không thể tưởng tượng nổi bản thân bước vào một cuộc phiêu lưu với cơ thể này, linh hồn này. Tôi muốn nằm yên một chỗ, không phải sự im lặng giác ngộ của một hòn đá – nghe mới thật hay ho làm sao – mà là sự rũ rượi, mệt mỏi của một cái cây khô héo, trơ trụi, không thể vươn lên được nữa. Đêm đó tôi đã ở cùng với một anh trai lạ mặt cả đêm, chẳng vì lý do gì hoặc có nhưng nó tủn mủn đến mức tôi đã quên mất. Còn bây giờ, tôi sẽ không chủ động tìm kiếm sự giúp đỡ của bất kỳ ai, gia nhập vào chuyến phiêu lưu của bất kỳ ai hay mơ ước có một cột mốc phá vỡ câu chuyện nhàm chán kể về cuộc đời mình. Tôi chỉ muốn được ở yên đây, lặng lẽ tìm kiếm sợi dây cột tóc của mình. Đừng ai chết nữa, đừng có chuyện gì quấy quả tôi nữa. Đừng có mơ ước nào bỗng dưng ùa tới kéo giật tôi đứng lên rồi thúc tôi thực hiện những chiến công để đời nữa. Tôi sẽ phân huỷ trong căn phòng này, bóng tối và những loài vật cư ngụ trong bóng tối sẽ ăn mòn tôi, sẽ hỗ trợ tôi phần còn lại. Tôi thậm chí còn không muốn chết: chết là một điều gì quá mệt mỏi, quá vất vả, quá nhiêu khê với tôi, tôi muốn được nằm yên – nằm yên, như những sợi rong bên dưới một đáy hồ tĩnh lặng. Những cơn hú hét, gào rú, ồn ào, nhiệt tình rồi sẽ biến mất. Tôi muốn trở thành một kẻ lười biếng. Tôi muốn sống nhưng không phải theo cái nghĩa mà ai cũng nghĩ tới khi nhắc đến từ này. Dường như có một trạng thái lơ lửng giữa sống với chết, và tôi cảm thấy thoải mái khi đứng ở đó.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout