Nó nằm ở đâu mới được nhỉ? Một nỗi bất an chồm tới. Tôi bỗng tự hỏi, liệu mình có thật là có sở hữu một sợi dây buộc tóc nào không, mình đang tìm thứ gì. Cái sợi dây buộc tóc bằng vải như những hiệp khách cổ trang ấy có thật không? Nó có thật không? Hay tôi chỉ đang tìm một thứ mà tôi tưởng mình đã sở hữu nhưng thực chất không phải? Có khi nào trong một lần bước vào những cửa tiệm bán dây cột tóc – một cửa tiệm bày bán đầy những món đồ nhỏ nhắn dễ thương – tôi đã nhìn thấy sợi dây buộc tóc ấy, nhưng tôi đã không mua nó. Có thể vì nhiều lý do: tôi không mang đủ tiền (nhưng một sợi dây buộc tóc bằng vải thì đáng bao nhiêu chứ, thật khó tin khi nghĩ rằng tôi không có đủ tiền mua một món đồ như thế), hay vì tôi chỉ lướt qua xem thử chứ không định mua gì, hay định mua nhưng người đi cùng tôi đã cản lại vì cho rằng nó phí tiền khi tôi có thể kiếm ở bất cứ đâu một vòng dây thun, hay vì bất kỳ lý do nào. Nói chung là rất có thể tôi đã không hề mua sợi dây buộc tóc ấy, bởi vì vừa mới tỉnh dậy trong cơn mơ màng sau một giấc ngủ sâu nên tôi nhớ nhầm là mình đã mua nó và giờ phải đi tìm nó. Có thể như vậy thật, có thể tôi đang đi tìm một món đồ không hề có thật. Song, rất nhanh, tôi có thể khẳng định là có, mình có một sợi dây buộc tóc như thế. Tôi lục tìm sợi dây của tôi. Tôi đã mua nó trong một dịp đi Phú Quốc với hội bạn năm người. Tôi nhớ rất rõ, sợi dây ấy gắn với một kỷ niệm cụ thể và vì thế tôi có thể chắc như đinh đóng cột rằng mình có nó. Ngay khoảnh khắc hiện tại, trong bóng tối trước khi bắt đầu một ngày mới, tôi tưởng tượng hết sức chi tiết về cái ngày mình mua sợi dây buộc tóc ấy. Năm người bọn tôi đã dạo chợ đêm Phú Quốc: tôi, Khang, Hoàng, Yến và Tuyền. Chúng tôi đã đi dạo chợ đêm, ghé vào một quán hải sản cùng với đoàn du lịch, đó là quán đồ ăn do một ông bác trong đoàn giới thiệu, vừa ngon vừa rẻ. Đúng là nó ngon và rẻ thật, tôi quên mất mùi vị và giá cả bao nhiêu rồi, nhưng tôi có thể nhớ cảm giác nó để lại: ngon và rẻ. Khang còn bảo là với những đứa gà mờ như bọn tôi, đi theo đoàn với người lớn có kinh nghiệm du lịch thì sẽ an toàn hơn, họ có thể giới thiệu các chỗ ăn chơi mà người mới đi lần đầu không thể biết. Vả lại, người đông thế mạnh là một chuyện tốt, đi cùng những cô bác lớn tuổi – dù xa lạ – lỡ có chuyện gì người ta sẽ giúp mình. Bởi vì mọi người là người cùng đoàn – chúng ta là đồng minh. Tôi nhớ khi đi ngang quầy bán những món đồ lặt vặt xinh xắn, Yến đã chỉ vào sợi dây buộc tóc màu đen và bảo với tôi trông nó giống sợi dây vải của các nhân vật trong phim truyền hình cổ trang Trung Quốc quá. Tôi nhìn sợi dây vải ấy và bỗng nhiên một niềm thôi thúc khiến tôi tin rằng mình sẽ không bao giờ tìm thấy một sợi dây cột tóc như thế ở bất cứ đâu nữa. Mình cần phải mua nó. Một bất ngờ lớn: hồi ấy tôi chưa để tóc dài. Tôi để tóc dài từ khi lên Đại học, còn chuyến đi Phú Quốc đó là một cuộc du lịch cuối năm cấp ba. Chẳng ai hiểu nổi và chính tôi cũng không hiểu nổi mình. Tại sao tôi cần mua một sợi dây cột tóc trong khi tôi không cần cột tóc? Tại sao tôi cần một món đồ dành cho người nuôi tóc dài trong khi tóc tôi còn ngắn? Tại sao tôi lại mua một thứ không cần thiết, một thứ vô dụng và không có nhu cầu sử dụng? Có phải do tôi, đến cuối cùng, cũng chỉ là một con người phù phiếm, thích tiêu tiền cho những món đồ vô nghĩa, để thưởng thức niềm vui của việc “được sở hữu” cứ không nghĩ gì đến công năng và lợi ích thực tế. Có phải việc này cũng giống như việc tôi mua bao nhiêu cuốn tiểu thuyết dày cộm, đắm chìm vào những tác phẩm hư cấu mà chẳng xây đắp gì cho thực tế cuộc đời mình? Tuy vậy, tôi vẫn lấy sợi dây xuống và mua nó. Sợi dây không đáng là bao, nhưng Tuyền vẫn tò mò bảo là tôi mua một sợi dây vải để làm gì. Tôi không trả lời được. Tôi chỉ muốn mua thôi. Nhưng sau đó tôi xoay sở ra một câu trả lời, “mua để cho có kỷ niệm về chuyến đi này!”, không mấy thuyết phục nhưng vừa đủ. Ba người còn lại không hỏi gì, có lẽ đa số mọi người đều quá rành cái tính khí đồng bóng của tôi nên họ thấy thế là bình thường, hoặc không bình thường nhưng họ hiểu được. Dù sao sợi dây cũng đâu đắt đỏ gì mà phải cân nhắc. Yến nói với tôi sợi dây làm cô bạn nhớ đến một lời hứa hẹn rất vu vơ của tôi, rằng khi nào tôi biết thêu như một người chuyên nghiệp, tôi sẽ thêu cho Yến một sợi dây cột tóc bằng vải. Phải đến tận khi đó tôi mới sực nhớ mình đúng là từng có hứa một lời hứa như vậy, song nó rất vu vơ thôi, vì nó kèm theo một điều kiện: khi nào tôi học thêu thành công. Khi đó tôi đang thử thêu chơi chơi vài món đồ, đường thêu của tôi rất xấu và chỉ cứ rối vào nhau, nhưng việc thêu thùa giúp tôi cảm thấy mình bình tâm. Song, trò ấy chỉ kéo dài được đâu đó một tháng, tôi chỉ hoàn thành được một cái khăn kỳ cục, với hình những bông hoa và con bướm ngốc nghếch, nhờ lên mạng xem những video hướng dẫn. Người ta dạy thêu cái gì thì tôi thêu vào tấm khăn cái đó, vừa đâm kim vừa quan sát cách người ta làm mẫu trên màn hình điện thoại, khi xong mười mấy hình mẫu người ta dạy cho dân mới bắt đầu, tôi cũng dừng luôn trò đó. Thế nên, lời hứa về sợi dây buộc tóc thêu hình hoa văn của tôi với Yến không bao giờ có thể thành hiện thực, tất nhiên một điều vu vơ như thế thì tôi cũng chẳng thật sự để tâm, tôi đã quên mất nó ngay như cách tôi dẹp bỏ những sợi chỉ rối ren và chiếc khăn xấu xí thô vụng kia. Nhưng Yến thì còn nhớ, và tôi nghĩ, có khi nào lúc cô nhìn thấy sợi vải đen được treo trên quầy hàng trong chợ đêm ở Phú Quốc, cô đã để ý đến nó ngay bởi vì cô vẫn luôn nhớ lời hứa về một sợi dây cột tóc được thuê hoàn chỉnh từ tôi. Chúng ta quên đi những lời hứa bằng cách ấy sao? Những lời hứa dần trở nên phai nhạt theo cách ấy sao? Tất nhiên lời hứa của tôi năm đó rất nhỏ, chẳng đáng gì. Nhưng có phải với những lời hứa lớn hơn thì chuyện cũng diễn ra y hệt thế. Bao nhiêu lời hứa vô tình như những hạt mầm không bao giờ tách vỏ vươn lên mặt đất đã bị gieo xuống và chết ngất trong lòng đất trên thế gian này? Khi ta đào một cái hố và gieo một hạt mầm, làm sao ta biết được ta đang ban phát sự sống cho nó hay đang khâm liệm nó bên dưới lớp đất sâu, trong bóng tối? Tại sao việc gieo trồng một sinh mệnh lại giống hệt như việc chôn cất một sinh mệnh: đều là đất, đào hố, chôn vùi, lấp lại. Hay chính Yến ngay từ khi nghe lời hứa ấy thốt ra từ tôi thì cô đã thừa biết chẳng nên trông đợi gì, bởi vì tôi còn nhớ rất rõ, sau khi tôi hứa hẹn như thế thì Yến bĩu môi, nói ngay rằng cứ đợi mà xem, như thể giữa cả hai đã xác quyết rằng lời hứa này chỉ là nói cho vui miệng thôi. Nhưng có phải đó là cách mà những lời hứa bị đẩy vào dĩ vãng: hứa hẹn cho vui miệng thôi mà? Và có phải tôi, không biết bao nhiêu lần, quên mình đã hứa những gì, như lời hứa với Yến, đồng thời cũng quên những gì người khác hứa với mình, vì thừa biết có đôi khi một người nói như thế song ý họ không phải như thế. Rằng khi tôi nói với Yến mình sẽ tặng cô một sợi dây cột tóc tự làm, ý tôi không phải muốn tặng cô một sợi dây cột tóc tự làm, tôi đang muốn nói một điều khác hẳn, rằng chúng tôi là bạn bè và tôi quý cô, tôi quý tất cả mọi người, tôi muốn tặng cho mỗi người bạn của mình một thứ gì đó không phải bởi vì tôi muốn tặng, mà vì tôi thương quý họ, tôi muốn có một thứ gì đó của tôi hiện hữu trong cuộc đời họ, tôi muốn có một sự liên kết hữu hình, thông qua đồ vật, vì nếu không hữu hình thì sao ta biết tình yêu của mình có tồn tại. Tôi nghĩ, Yến đã nghe được cái ý nghĩa ấy rồi và đối với chúng tôi bấy nhiêu cũng đủ, còn có thực hiện được hay không thì chỉ là phụ, cái ý nghĩa kia mới là điều quan trọng. Nhưng vào giây phút Yến nhắc lại lời hứa đó, tôi cũng như nhận ra một điều gì mình đã bỏ qua, rằng đối phương vẫn còn nhớ trong khi mình đã quên, dù cô ấy thì cần gì một cái dây vải thêu từ tôi chứ, nhưng Yến đã nhớ và điều này rất hệ trọng. Dù sao thì tôi cũng đã mua sợi dây cột tóc ấy và sau này, khi nuôi tóc dài, tôi lấy nó ra dùng. Tôi còn nhớ rõ đến thế thì làm sao có chuyện nhầm lẫn được, ít nhất có thể khẳng định thứ tôi đang tìm trong bóng tối đặc sánh này là có thật, thật trăm phần trăm. Tôi đã cầm nó trên tay, trả tiền cho bà dì ngồi trên gian hàng đó, rồi căng sợi vải ra, gấp đôi, gấp tư nó lại cho đến khi có thể nhét vào trong túi. Rồi khi lên thành phố này, sống một mình, bắt đầu nuôi tóc dài, tôi đã sử dụng nó để cột tóc mình hàng nghìn lần. Tôi nhớ mình sẽ cầm nó lên, vuốt một lượt từ đầu này đến đầu kia để nó thẳng ra, rồi ngậm nó trên miệng, đưa hai tay ra sau bới lại mái tóc, cột thắt sợi dây lại để giữ mái tóc mình không bị rối bù. Nếu cần, tôi sẽ phải cột trước mái tóc của mình bằng thun, rồi mới quấn nó bên ngoài để che sợi thun lại – một cách làm dáng ai cũng thừa biết, ai đã dạy chúng ta điều đó nhỉ? Tôi thậm chí có thể nhớ được mùi vị của sợi vải ấy trong miệng mình, khi ngậm nó mỗi lúc bới tóc. Tôi phải giặt nó thường xuyên bởi tôi biết mình sẽ luôn cần ngậm nó. Bao nhiêu là ký ức sinh động như thế, sao vừa rồi tôi có thể nghi ngờ rằng sợi dây ấy không tồn tại cho được, không thể có chuyện tôi đã tự tạo ra một khối lượng ký ức lớn đến thế trong đầu mình. Nếu tôi có khả năng ấy, thì có thể đến giờ này những điều tôi nhớ trong đầu đều là giả cả, đều do tôi tự tạo ra cho bản thân cả. Nhưng việc ấy không đúng. Tôi không biết cách chứng minh nhưng tôi chắc chắn là việc ấy không đúng. Thậm chí, chính cái khoảnh khắc tôi nghi ngờ về sự tồn tại của sợi dây buộc tóc mới là vô lý, mới đáng để gọi là kỳ quặc. Tôi nhặt tiếp một cuốn truyện tranh bị rơi dưới sàn lên, nhìn qua trang bìa và tiêu đề. Không phải là một quyển truyện nổi tiếng, mà ngược lại, một tác phẩm không mấy ai biết. Đó là sản phẩm của công ty truyện tranh Việt được thành lập bởi một vài người quen của tôi. Họ tặng tôi xem như quà biếu – sản phẩm đầu tiên của công ty họ. Nghe bảo hàng đã bán sạch hàng, còn lời bao nhiêu thì không rõ, tôi không hỏi. Tại sao đã bán sạch hàng mà tôi lại lo lắng về tiền lời của họ thì ấy lại là một câu chuyện dài liên quan đến những từ khoá quá mức đao to búa lớn: “khởi nghiệp”, “kinh doanh”, “xoay vòng nguồn vốn”, “thu chi”, “chiến lược”, “tham vọng của cá nhân” và “tình hình chung của thị trường”. Ra là chúng tôi đã đến cái tuổi ấy rồi, cái tuổi bước ra đời và xây dựng một điều gì đó, tự chật vật mưu sinh và tự lo cho bản thân. Hay đó chỉ là người khác, còn tôi thì không phải như thế, tôi vẫn chưa thể thoát ra khỏi căn phòng này, bộ tóc rối bù xuề xoà và ngứa ngáy này. Tôi vẫn chưa đủ dũng khí gia nhập vào bất cứ điều gì, bước qua bất kỳ ngưỡng cửa nào, trong khi thế giới vẫn đang vận hành, vội vàng đến mức có lẽ nó sợ rằng chỉ cần nó dừng lại thì chính nó sẽ chết, như một người đi lạc trong hoang mạc và bị sư tử đuổi bắt, họ chỉ cần dừng lại là sẽ chết, dù chẳng có thứ gì là con hổ ấy ở đây cả. Nhưng cuốn truyện tranh trên tay tôi là minh chứng, rằng chúng tôi đang cố gắng sửa sai cho những lỗi lầm mà thế hệ trước đã gây ra, chúng tôi đang cố phát triển cho bằng những nước khác bởi vì thế hệ trước đã thất bại trong việc đó – họ không thừa nhận họ thất bại đâu, họ không dám. Hôm tôi đến thăm văn phòng của người quen mình, người chịu trách nhiệm kịch bản cho quyển truyện này, trong một giây phút có lẽ hơi thiếu kiểm soát, hoặc chỉ đơn giản là dòng chảy của cuộc nói chuyện đã dẫn dắt, nói thật lòng rằng đây là một sự thất bại, rồi chỉ vào cuốn truyện trên tay tôi. Tôi đã lặng người trên ghế, một phần vì không biết phải phản ứng thế nào, một phần vì giây phút đó cần một dấu chấm lửng, để tăng kịch tính cho bộ phim này, vở diễn này, khoảnh khắc này. Rồi tôi hỏi người đó tại sao người đó lại nói vậy, “hay chỉ đơn giản là do Mỳ tự đặt ra tiêu chuẩn quá cao, đòi hỏi quá cao về mình đấy thôi!” – đến giờ nhớ lại, tôi thấy lối ứng xử và cách đáp lời của bản thân mới tao nhã làm sao, lịch thiệp làm sao, một lời hồi đáp rất vừa vặn trong một tình huống tương đối khó xử, tôi học được điều đấy từ đâu nhỉ. Người viết kịch bản quyển truyện bắt đầu giải thích về ước mơ của mình, những kỳ vọng và đam mê. Nếu so với chúng thì quyển truyện này chẳng đâu vào đâu cả, chẳng ra làm sao cả. Tôi nghĩ mình hiểu điều người nọ đang muốn diễn đạt, nhưng ta có thể làm gì được đây? Ước mơ tan vỡ là chuyện thường tình, chuyện thường tình. Bởi vì nếu ai trên thế gian này cũng đạt được ước mơ, miễn ai muốn kiếm một sợi dây buộc tóc thì chỉ cần gọi ra là nó tự động xuất hiện, thì thế gian này là cái gì: tiệm bánh ngọt miễn phí chăng, thật đáng buồn là thế gian không phải tiệm bánh ngọt miễn phí. Nhân loại suốt bao nhiêu đời nay không có ý định biến Trái Đất nơi họ sống thành tiệm bánh ngọt miễn phí, và chúng ta có thể làm được gì đây. Tôi lật bìa sau rồi lại nhìn bìa trước, sờ tay lên cuốn truyện. Không khác lắm với vô số những cuốn truyện tranh khác được in bán trên thị trường, bởi những công ty khác. Thể loại của tác phẩm này không phải kiểu tôi thích, không nằm ở hạng mục tôi quan tâm vì thế tôi không thể đánh giá nó được. Nhưng chúng ta cần trân trọng mọi cố gắng vì chúng ta cũng đang cố gắng. Nhưng tôi đang cố gắng làm gì thế này: tìm một sợi dây buộc tóc. Không giống họ, tôi đang làm một việc quá tầm thường. Trong khi ngoài kia, mọi người đang đấu tranh và hy sinh, đang rải bom trên các chiến trường, đang bảo vệ người thân và dân tộc mình khỏi nạn diệt chủng, đang đòi lại công lý và hoà bình, đang cố gắng hết sức vì những ước mơ và lý tưởng cao đẹp, đang phát triển xã hội, đang đề xuất những chính sách an dân và ổn định đất nước, đang cải cách giáo dục và định hướng nền kinh tế, đang phản đối bất công, đang biểu tình để phá bỏ những định kiến lầm lạc, đang cứu nạn và viện trợ cho người dân ở những vùng đất khốn cùng, đang tạo ra những tư tưởng sẽ làm thay đổi thế giới một lần nữa, thì tôi ở đây tìm sợi dây buộc tóc. Có một dịp nọ, tôi được trò chuyện với một bạn hoạ sĩ ở công ty họ, tôi hỏi bạn ấy là bạn đang sống thế nào, tiền lương có đủ trang trải không, tình hình công ty ra làm sao, có phát triển được không. Tôi không nói ra, nhưng tôi thể hiện rằng bản thân muốn biết rằng mọi thứ ở phía họ vẫn ổn, bởi vì ước mơ của họ rất dễ đưa họ vào tình thế không ổn. Bạn hoạ sĩ trả lời tôi là nghề này thì cứ vậy thôi, chưa bao giờ đủ sống, chỉ là một thứ mà họ muốn làm, họ phải làm đã rồi mới biết sẽ đi về đâu. Tôi bảo bạn và mọi người hãy cố lên, nhưng tôi còn muốn nói điều khác nữa, rằng tôi yêu bạn ấy, dù hai đứa tôi chưa bao giờ gặp nhau ngoài đời và chỉ mới trao đổi được dăm ba câu qua điện thoại, nhưng tôi yêu bạn ấy, rằng tôi yêu mọi người, tôi yêu tất cả chúng ta, tôi yêu những tham vọng, những nỗ lực, những cố gắng của chúng ta, tôi yêu thế giới này miễn là nó vẫn còn cho phép chúng ta có quyền được cố gắng, nó vẫn chừa cho chúng ta một con đường. Miễn là nó hứa hẹn sẽ cho chúng ta điều đó. Miễn là nó còn cho chúng ta được điều đó, tôi sẽ tha thứ cho nó, tôi sẽ cố gắng yêu nó một lần nữa, và mỗi khi nó khiến tôi thất vọng tôi vẫn sẽ lại cố gắng yêu nó một lần nữa. Tôi chỉ cần ở nó một thứ đơn giản như vậy thôi! Tôi lật nhanh qua các trang giấy chỉ để nghe tiếng loạt soạt vang lên trong đêm tối. Bình thường tiếng trang giấy loạt soạt chẳng đủ khuấy động được gì, chúng sẽ chìm lỉm trong vô số âm thanh của cuộc sống, nhưng thời điểm này khi thế giới vẫn còn mù mịt và sánh đặc thứ im lặng như thể nó vẫn sẽ im lặng đến vĩnh cửu này, âm thanh tôi vừa tạo ra bị khuếch đại. Thật thoải mái, như đang lắng nghe những cái đập cánh của một đàn bồ câu, trên quảng trường trước Nhà thờ Đức Bà, khi ta dang tay ùa đến chỗ chúng, reo lên để nhìn thấy chúng hoảng loạn vụt bay tứ tung, nghe những cái đập cánh lộn xộn nhưng êm ái của lông vũ. Nhưng tôi đi đến nhà thờ đó và đuổi theo lũ chim bồ câu hồi nào nhỉ? Tôi nhớ mình từng làm chuyện ấy, nhưng hồi nào mới được. Tôi đặt quyển truyện tranh lên trên Nhóc Maruko tập một. Phải có âm thanh lật giấy vừa rồi tôi mới nhận ra chiếc điều hoà của mình chạy êm ru đến mức từ lúc thức dậy đến giờ tôi không nghe được tiếng nó chạy. Chỉ có cái chấm sáng xanh kia báo hiệu nó vẫn đang bật. Suốt mấy hôm nay, kể từ ngày có một người thợ đến rửa máy điều hoà và rời đi, tôi bật lên và nghe tiếng nó kêu rè rè, một tiếng động rất kỳ lạ, như thể nó đã bị hỏng ở đâu đó. Tôi ngờ rằng có một hành động vô tình của người thợ rửa máy điều hoà đã khiến nó bị hỏng nhẹ, hỏng nhẹ bởi vì nó vẫn còn sử dụng được, chỉ là giờ nó phát ra tiếng kêu mà vốn dĩ từ trước đến nay nó chưa từng kêu lên như vậy. Nhưng tôi chấp nhận nó, tôi có thể hỏi chủ nhà xem xét thế nào, hoặc tìm cách thức để nó không kêu nữa, dẫu vậy tôi chấp nhận cái tiếng đó trong cuộc đời mình, như tôi đã chấp nhận bao nhiêu điều khác hiện diện trong cuộc sống của tôi, bởi vì tôi quá lười khi nghĩ đến tất cả những điều mình phải làm: báo với ai đó, gọi ai đó đến xem chỉ để sửa một lỗi quá nhỏ nhặt, cho phép họ vào căn phòng của tôi – chốn dung thân cuối cùng, địa bàn riêng tư, thế giới thu nhỏ của tôi. Đứng trước những rườm rà ấy, tôi nghĩ việc mình cứ sống thế này với tiếng ồn kia – cũng không ồn lắm – cũng không sao. Là tôi giỏi chấp nhận hay tôi lười biếng nhỉ? Điều này làm tôi nhớ đến căn nhà của cha mẹ tôi ở quê. Hồi trước, tầm năm ngoái hay năm kia gì đó, cánh cửa phòng tắm của nhà bị hỏng nhẹ. Nó không đóng lại được. Khoan đã, tôi cũng vừa cho đó là một sự hỏng hóc nhẹ à? Một cánh cửa không đóng lại được mà gọi là hỏng hóc nhẹ? Chẳng phải đó là bổn phận quan trọng nhất của một cách cửa hay sao: đóng lại. Một cánh cửa được sinh ra và tồn tại trên thế gian này là để làm cái việc đó cơ mà. Đó là lý do, là mục đích, là trách nhiệm, là trọng trách, là định mệnh, là căn tính, là nghĩa vụ, là giá trị tồn tại của một cánh cửa. Ấy thế mà tôi và gia đình mình lại gọi việc một cái cửa không thể đóng lại là một chỗ “hỏng hóc nhẹ”. Tôi bị gì vậy nhỉ. Hay tôi đã dần biến thành họ: gia đình của tôi – những người tôi vẫn luôn phán xét với thái độ hà khắc một cách quá đà, thiếu sự cảm thông. Nhưng chuyện là thế, nó không đóng lại được. Đợt ấy tôi về thăm nhà vài ngày, khi bước vào nhà tắm, tôi đóng cửa lại thì cánh cửa bung ra, nó thậm chí còn không thể khép lại cho kín được. Chốt cửa bị gỉ nên không thể dùng và nếu muốn khép kín nó thì ta phải lấy một cái gì đó kê vào, một chai dầu gội, hoặc một cái xô hứng nước. Tôi bảo với mẹ rằng cửa nhà tắm bị hỏng rồi, mẹ gật đầu bảo “ừ, cửa cái nhà tắm bị hỏng rồi” và tôi nghiêng đầu, hỏi mẹ nói thế là sao, sao lại nhắc lại lời tôi một lần nữa làm gì, cái cửa đã hỏng từ bao giờ. Mẹ bảo không nhớ nó đã như vậy bao lâu rồi nữa, hình như đã nửa năm nay hay hơn, nhưng vì thấy nó chỉ bị hỏng nhẹ nên mọi người cứ để đó, nếu tôi muốn đóng thì cứ lấy một chai dầu gội kê vào, rồi bật đèn lên thì người khác sẽ biết bên trong có người và không mở cửa. Tôi bảo trong nhà này có cả nam cả nữ, có những người nam và những người nữ, có mẹ và chị dâu của tôi, dì ba của tôi bán hàng ngoài chợ khi cần cũng hay đi vệ sinh nhờ ở nhà tôi. Nhà tắm còn là chỗ tích hợp cả đi vệ sinh. Nên sao có thể để cửa nhà tắm như thế được? Tôi bảo rằng mọi người phải sửa nó, chỉ tốn một chút thôi, không thể cứ sống với nó và chịu đựng nó từ ngày này qua ngày khác được. Và mẹ nhìn tôi như thể tôi vừa kêu bà hãy bước vào một con tàu vũ trụ, phóng lên Sao Hoả mà không có bộ quần áo phi hành gia nào, như thể tôi đang đòi hỏi một điều gì đó rất quá đáng, vượt xa mọi khả năng có thể thực hiện được, tôi vừa đưa ra một ý kiến vô lý, áp đặt, gia trưởng, không có đủ sự cảm thông. Rồi mẹ cụp mắt nhìn xuống – nhìn cái gì nhỉ, tôi quên mất rồi – và giây phút ấy tôi hiểu ra: mọi người đã chấp nhận chuyện này, đã quyết định sống với cánh cửa đó. Mẹ đã chấp nhận cuộc đời mình, chấp nhận rằng bây giờ bà không thể sửa chữa bất kỳ điều gì được nữa, mọi hỏng hóc nay chỉ còn có thể chịu đựng qua ngày. Bà không thể sửa lại được cuộc đời bà, cuộc đời bà không hoàn hảo và bà đã sống được với sự không hoàn hảo ấy suốt bao nhiêu năm nay. Ta không thể đòi hỏi sự hoàn hảo trong cuộc đời này, hình ảnh hoàn hảo chỉ là một ảo tưởng. Bà đã chấp nhận rồi, vì thế xin hãy để mọi thứ ở yên chỗ của chúng. Bà đã chấp nhận người chồng không đủ giỏi giang đã từng ngoại tình một lần của mình, đã chấp nhận những cuộc cãi vã lớn nhỏ giữa hai vợ chồng, chấp nhận mình đã trở thành một người phụ nữ thất bại, thất bại trong việc gìn giữ hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái, chấp nhận mình sinh ra không phải để hạnh phúc, mình không xứng đáng với một gia đình hoàn hảo. Mình chỉ xứng với cái cửa hỏng kia. Một cái cửa lành lặn có thể đóng mở dễ dàng là một ham muốn quá phận, là một tham vọng quá ghê gớm, một cuộc đời quá xa tầm tay với. Tôi biết rằng lời góp ý của mình sẽ không được nghe. Cái cửa sẽ vĩnh viễn ở đó, cho đến khi nó thật sự không che chắn được gì nữa thì mới có cơ may được đổi sang cái cửa khác, còn nếu không thì gia đình tôi, không chỉ mẹ, sẽ sử dụng cái cửa ấy bởi vì nó chỉ gây ra đôi chút bất tiện thôi, không có gì ghê gớm cả, chưa có “sự cố” nào xảy ra cả, mọi thứ đều là chắp vá nhưng vẫn ở mức có thể chấp nhận được. Nghĩa là không cần thay đổi, không cần sửa chữa gì, bởi vì chúng ta vẫn còn hàng nghìn việc khác quan trọng hơn việc một cánh cửa bị hỏng, vẫn còn vô vàn công việc chất đống, quay cuồng, lộn xộn đang đợi ta giải quyết, tại sao phải quan tâm một cái cửa nhà tắm bị hỏng? Nếu một ai trong số chúng tôi dừng lại để sửa cánh cửa ấy, cuộc sống của tất cả sẽ sụp đổ, sẽ tan vỡ, sẽ bị huỷ hoại. Trong khi thế giới đang vận động, phát triển, tiến về phía trước không ngừng, chúng tôi có quyền gì để dừng lại, cho bản thân thời gian để sửa một cánh cửa? Nhưng tôi cũng thúc thủ giống họ. Tôi nghĩ mình có thể tự kêu thợ đến sửa cửa, nhưng từ trước đến nay tôi không phải đứa trẻ đó: đứa trẻ tự mình kêu một người thợ đến sửa bất kỳ thứ gì trong nhà. Vả lại, tôi đâu còn sống ở đó, tôi chỉ về thăm nhà vài ngày và tôi bấy giờ có khác gì một vị khách trong chính ngôi nhà của mình? Người sống với cánh cửa đó nhiều nhất là các thành viên còn lại trong gia đình tôi, nếu họ không có ý kiến thì tôi có quyền gì? Tôi chỉ về chơi nhà vài ngày nhân dịp rảnh thôi và tôi phải nhớ rõ điều ấy. Nhưng tôi chạy trốn, tôi không muốn sống với họ và một ngày nào đó biến thành họ, tuy vậy tôi cũng đã biến thành họ, trong giây phút này, với sự chịu đựng và chấp nhận ngu ngốc dành cho những thứ bất tiện trong cuộc sống của mình, mà cái tiếng máy lạnh là một ví dụ. Nhưng hôm nay, tôi bỗng nhiên tỉnh dậy trong bóng tối và không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, ngoài tiếng ro ro rất dịu, giống như tất cả các loại máy lạnh trên đời, tiếng lạch cạch kia đã biến mất. Chẳng hiểu sao lại vậy. Hay sợi dây buộc tóc nằm giữa những trang sách này. Tôi có thói quen đánh dấu sách bằng bất cứ thứ gì có dạng dẹp dẹp mỏng mỏng mà mình tiện tay vớ được, lúc thì một tờ hoá đơn trong quán nước, lúc thì một tấm thẻ cào điện thoại, thẻ sưu tầm, tiền giấy, mác quần áo… Nên cũng có thể tôi đã dùng sợi dây ấy để đánh dấu sách vào tối hôm qua, trước khi ngủ và sau khi biết được tin Minh đã tự sát. Dẫu gì cũng không phải lần đầu tôi làm vậy, chắc phải trên chục lần tôi dùng sợi dây ấy để kẹp giữa các trang sách đọc dở rồi. Thế là tôi xem lại những quyền sách trên giường, cả những quyển bị rơi dưới đất vẫn chưa nhặt lên. Còn một cuốn truyện tranh nữa, là truyện tranh khoa học: về Freud và những nghiên cứu phân tâm học của ông. Cuốn này tôi được một người chị cùng lớp tặng vài hôm trước. Freud sẽ nói gì về những giấc mơ tối đen của tôi? Trong đó, tôi vẫn biết mình đang mơ nhưng tất cả chỉ đen kịt một màu, chẳng thể nhìn được gì. Thế giới đó còn không có tiếng động. Như bị nhốt bởi chính mi mắt mình, mi mắt tôi biến thành một nhà giam và khi nhắm lại, tôi bị giam trong bóng tối hun hút, bít bùng. Tôi không đọc được những dòng chữ trên trang giấy. Vẫn chưa đủ sáng, hoặc mắt tôi chỉ có thể thích nghi với bóng tối trong một giới hạn nào đó. Điều này dễ hiểu, bởi vì nếu có thể thích nghi với bóng tối đến mức có thể đọc được cả chữ thì thế gian này cần gì đến ánh sáng nữa. Song, những hình minh hoạ vui nhộn, các thân hình nhân vật méo mó, những biểu cảm được phóng đại để giải trí và gây ấn tượng, tôi vẫn có thể thấy được chúng lờ mờ trong bóng tối. Ở đó, bức tranh các thành viên trong gia đình của Freud được vẽ lại bằng những nét biếm hoạ, đáng yêu và dễ cảm mến. Thật dễ cảm mến con người khi họ chỉ ở trên trang giấy. Tôi nhớ đến một giấc mơ không biết từ bao giờ, nhưng nó ấn tượng đến mức tôi vẫn còn nhớ, trong giấc mơ đó tôi phát hiện thấy một ổ rắn bên dưới gầm giường của mình. Tôi rùng mình, cảm thấy dưới chân ngứa ngáy khi cảnh tượng trong giấc mơ nọ ùa vào đầu lần nữa. Sau này tôi đã có nhiều lần rọi đèn xuống gầm giường để kiểm tra, nhưng không có gì bên dưới cả, ngoài sự tối tăm của một khoảng không bị lãng quên, như thể thế giới này đã cắt lìa cái không gian ấy ra khỏi chính nó, bị chính tôi quên lãng với những con nhện, những hạt bụi, những mạng nhện giăng mắc và có thể có cả những món đồ bị lăn xuống đó mà tôi cũng không nhớ đến chúng. Trong giấc mơ, tôi đã hét lên, chạy khỏi phòng, tìm chủ nhà và bảo với họ trong phòng con có một ổ rắn, những sợi thân bò sát bóng lưỡng tối đen cuộn lại với nhau, chúng cong cớn, vòng vèo. Tôi nhớ chúng dính lại với nhau thành một cục và ngọ nguậy. Ở cuối giấc mơ, một con rắn bò lên người tôi. Tôi tỉnh dậy trên giường nhưng chỉ nằm yên một chỗ, không cử động. Trên đầu tôi khi ấy dường như có một thứ gì đó đang bò, chính nó đã tác động vào cảm giác ngoài đời thật và khiến tôi mơ thấy rắn. Đáng lẽ tôi phải lồng lên, giũ cái thứ ấy đi, nếu nó là một con rắn thật bò từ dưới gầm giường tôi lên, tôi phải bật dậy và tránh xa. Nhưng khi đó, mới vừa thoát khỏi cơn mơ kinh hoàng, tôi lại không dám cử động. Tôi đã nghĩ nếu mình cứ nằm yên, có khi nó sẽ không cắn và chui lại xuống ổ của mình ngay thôi, miễn là tôi không đột nhiên di chuyển làm nó phát hoảng. Một lát sau, cảm giác của một thứ gì đó dần dần biến mất, tôi chầm chậm ngồi dậy, nhưng chẳng có gì cả. Ban đầu, tôi nghĩ có lẽ là do cái dây đèn ngủ của anh Thiện, nó đã rũ xuống đầu tôi làm tôi tưởng có con rắn bò trên tóc mình. Nhưng sợi dây đèn không rũ xuống chỗ tôi nằm, nó không đủ dài. Tôi không biết vừa rồi là thứ gì, nhưng chắc chắn là một thứ gì đó rất giống con rắn. Tôi đã nghĩ có lẽ con rắn đúng thật đã lủi đi mất rồi, mình đã thoát khỏi nó lần này. Song, điều đó chứng tỏ trong phòng tôi có một ổ rắn. Trường hợp này lại càng đáng sợ hơn gấp nghìn lần. Tôi đang sống với rắn? Chúng có thể bò lên người tôi bất kỳ lúc nào, khi tôi ngủ. Nhưng như tôi đã nói, dưới gầm giường không có ổ rắn nào cả. Thế là tôi nghĩ có lẽ đó là sợi dây buộc tóc. Nó đã vắt lên đầu tôi, vắt lên người tôi, khiến giấc mơ tôi xuất hiện rắn. Nhưng suy luận này chỉ mãi về sau tôi mới nghĩ đến, còn vào cái hôm xảy ra sự việc, tôi không thể nhớ là mình để sợi dây cột tóc ở đâu, có để trên giường hay không. Con rắn hư vô ấy đã biến mất, không thấy quay lại kể từ đấy, song nỗi sợ trong tôi thì vẫn còn, về những cái rùng mình, rờn rợn trên da thịt. Freud sẽ nói gì về một giấc mơ xuất hiện cả ổ rắn. Ẩn ức tình dục nào về hình ảnh những con rắn dính lẹo, sự kiềm nén cảm xúc, chấn thương tâm lý, áp lực tinh thần và hàng chục từ khoá tương tự. Không biết người ta rốt cuộc có bao nhiêu từ để nói về tâm lý, từ nào cũng có vẻ phức tạp và cao siêu cả. Có lẽ ông ta sẽ không đề cập thẳng trong những công trình nghiên cứu, nhưng ông đưa ra những hướng tiếp cận, suy luận và điều trị. Phải, điều trị, đấy mới là quan trọng nhất. Nếu thành công, bạn sẽ trở thành tôi, sống lay lắt trong bóng tối, nếu thất bại, bạn sẽ thành Minh, Minh như thế nào thì ta đã biết. Nhưng không thể nói là tôi thì tốt hơn Minh. Có thể nói thế không? Tôi e là chuyện không đơn giản. Có bao giờ đơn giản đâu. Tất nhiên, cuốn sách đã nói về Freud thì không tránh khỏi những tranh minh hoạ hú hồn. Ban đầu, tôi mượn quyển sách này của chị cùng lớp để mang về scan đọc sau, nhưng rồi bỗng nhiên chị nổi hứng và tặng tôi luôn. Cái hôm tôi lật từng trang giấy để chụp ảnh, tôi đã đỏ hết mặt với các tranh minh hoạ bên trong. Tôi cố lật thật nhanh và nghĩ trong đầu có lẽ mình cần chuẩn bị thêm trước khi đọc nó, tôi vẫn chưa sẵn sàng lắm, tôi vẫn còn ngần ngại trước những thứ này, vả lại tôi đâu thể nói là mình có kinh nghiệm gì. Chúng ta bàn nhiều về Freud song nhìn chung đây vẫn là chủ đề còn gây nhiều ngần ngại. Nhưng con rắn ấy liệu có phải là đoạn dây cột tóc của tôi không? Hay tôi đang tìm chính con rắn chứ không phải dây cột tóc? Tôi đặt cuốn truyện tranh về Freud lên trên cuốn truyện tranh được in từ công ty người quen của tôi. Không kiềm được, tôi ngáp một cái thật đẫy. Tôi vươn người hết mức, họng há to, không cố giấu giếm gì. Bình thường ở chỗ đông người tôi vẫn tỏ ra mình và người kỹ lưỡng, bằng cách mỗi cái ngáp của tôi đều được che chắn kỹ lưỡng, và cố ém lại để không phát ra bất kỳ âm thanh nào, giấu bản thân hết mức song vẫn phần nào đó cố tình thể hiện ra mình đang ngáp, để nếu có ai đó nhìn thấy thì họ biết tôi đang ngáp trong một tư thế hết sức lịch sự, nhã nhặn, duyên dáng. Bây giờ thì không cần những hành động e lệ đó nữa, tôi duỗi dài cơ thể, đưa hai cánh tay lên cao, nhón cả chân lên. Nhưng rồi, hông tôi đau nhói một cái. Tôi bị chuột rút ở hông. Tôi không kêu oai oái, chỉ gập người lại, xoa xoa cái hông. Cơ thể tôi cứ như vậy đấy, nó hay bị trật hoặc chuột rút bất thình lình mỗi lần tôi duỗi người ra. Có nhiều lần, tôi nằm duỗi dài trên giường và đột ngột chân bị chuột rút đau điếng, tôi phải co chân lên, xoa xoa nắn nắn, cố chịu cơn đau đến tận xương tuỷ, một thứ cơn đau như một cái hố chẳng biết từ đâu mở rộng trên sàn nhà và tôi rơi thẳng xuống địa ngục. Trong khi đó, mới vừa rồi tôi đang tận hưởng cảm giác thoải mái trong cái căng người sảng khoái. Thì ra đó là khoảng cách giữa thiên đường và địa ngục. Tôi ngồi xuống sàn, ôm lấy bụng. Cơn đau nhói điếng vẫn còn âm ỉ, hẳn phải đến một hai phút gì đó. Tôi hối hận vì mình đã vươn vai và ngáp. Tôi hối hận vì đã lỡ thả lỏng đến mức đó. Tôi hối hận vì đã sống đến thời điểm hiện tại. Tôi hối hận vì đã cho phép mình hưởng thụ. Tôi hối hận vì đã đi ngủ trong lúc cả thế giới đang bàng hoàng trước lựa chọn đầy bế tắc của Minh. Lẽ ra đêm qua tôi phải trắng đêm trong đau buồn mới đúng. Ai cũng thừa biết chúng tôi là bạn bè thân thiết. Nhưng đi ngủ cũng là một kiểu đau buồn. Thay vì vẫy vùng, ta bị tê liệt trong chính sự sống của mình, trong bóng tối. Tôi không nhớ mình đã ngủ bằng cách nào. Dường như tối qua tôi đã nghe một bản nhạc không lời, hoặc một kênh tâm sự đêm khuya. Đêm qua tôi đã ngủ rất say mà chẳng mơ gì, hoặc không nhớ mình đã mơ gì, và bây giờ tôi đang bị một cơn chuột rút hành hạ, trong lúc sắp xếp lại đống bừa phứa mình đã lỡ gây ra. Đây là gì. Tình huống này được gọi là gì. Tôi cố điều hoà nhịp thở, cảm nhận cơn nói đau đến mức không thể quan tâm bất cứ điều gì xung quanh. Mắt tôi dường như vừa mới nổ đom đóm. Tôi cố hít vào thở ra. Sau hồi đỉnh điểm, cơn đau dần bớt đi từng chút một, tôi có thể di chuyển được. Tôi lê lết lên giường, tay vẫn ôm lấy hông phải. Tôi nằm co ro trên nệm, kéo tấm chăn phủ kín bản thân. Cơn điếng người vừa rồi làm tôi chỉ muốn quay về trạng thái nằm yên một chỗ. Tôi luôn tự hỏi, rốt cuộc có chuyện gì xảy ra với cơ thể mình, mà nó cứ phải chịu những cơn đau bất thình lình như thế này. Đau đớn là một dấu hiệu, nỗi buồn là một dấu hiệu. Những cảm giác không dễ chịu ấy nhắc tôi rằng có gì đó không ổn đang diễn ra, giống như tiếng động lạ phát ra từ chiếc máy điều hoà, chúng báo hiệu rằng có những thứ cần phải kiểm tra và sửa chữa. Chứ không phải chấp nhận. Con người không thể sống thiếu cảm giác đau đớn được, đau đớn là cần thiết, những tín hiệu cảnh báo nguy hiểm là luôn luôn cần thiết. Đó không phải là một lỗi lầm, đó chỉ là một hiện tượng để nhắc nhở chính mình về những chỗ không ổn, trước khi mọi thứ càng lúc càng tồi tệ hơn đến mức không còn kiểm soát được nữa. Ấy thế nhưng, tôi lại có xu hướng chấp nhận và chịu đựng hơn là thay đổi. Điều này rõ ràng có sự ảnh hưởng từ gia đình tôi. Nhưng sao cũng được. Tôi co người, cảm nhận lớp chăn mát mẻ, bóng tối phủ dài bên trong tấm bông bồng bềnh và to lớn. Tôi phải cảm ơn anh Thiện vì đã mua những món đồ này. Hồi trước tôi nằm ở cái giường bên kia, với đống chăn gối bên kia. Một cái gối nhỏ và một chiếc chăn mỏng cũng nhỏ xíu. Với tôi như vậy là đủ, tôi chưa từng nghĩ bản thân cần một cái chăn bông thật lớn. Cho đến khi anh Thiện mua bộ ga gối nệm này và sau đó về quê để lại chúng cho tôi. Tôi nghĩ mình có thể trốn trong bóng tối này mãi mãi. Ngay cả khi cơn đau đã chấm dứt, không còn bất kỳ dấu hiệu nào nữa, tôi cũng sẽ nằm ở đây. Cơ thể tôi như bị hút lấy bởi cái giường, một khi đặt người xuống rồi thì thật khó để từ chối sự thoải mái mà nó mang lại. Chưa kể, vào thời điểm này, tôi thèm một giấc ngủ vùi nữa, dù hai giấc ngủ vừa rồi không phải là ít, nhưng tôi vẫn thèm được ngủ. Tôi không buồn ngủ, tôi đang rất tỉnh táo và cơn đau vừa đến lại càng khiến tôi tỉnh người hơn. Nhưng thèm được ngủ không liên quan gì đến việc có buồn ngủ hay không. Tôi chỉ muốn ngủ để không phải suy nghĩ hay làm bất kỳ điều gì cả. Tấm chăn và cái giường này thật thoải mái. Cú chuột rút đã lui đi nhiều. Tôi nghĩ mình có thể cử động lại được bình thường, chắc sẽ hơi nhúc nhắc một chút nhưng không sao. Tôi mò mẫm tìm điện thoại, tôi muốn biết đang là mấy giờ. Nhưng nó lại biến mất lần nữa. Vừa nãy khi xem giờ xong tôi đã đặt nó ở đâu nhỉ, hình như tôi cứ để nó lại giường thôi. Vì thế hẳn nó chỉ đang ở đâu đó quanh đây, nhưng tôi không tìm thấy. Tôi hy vọng nó sẽ đột nhiên sáng đèn để thông báo một thứ gì đó, giống như cái thông báo game khi nãy, để tôi dễ tìm. Nhưng không thể cứ mong mỏi vậy được. Tôi đành phải nằm dài ra, đưa tay quờ quạng khắp chung quanh. Vừa rồi mắt tôi đã dần quen với bóng tối hơn một chút, tuy nhiên sau cú co thắt và chui lại vào chăn để nằm, bây giờ bóng tối lại một lần nữa đậm đặc như cũ. Có lẽ tôi phải bắt đầu lại, chờ cho thị giác quen dần với môi trường xung quanh. Tóc vẫn loà xoà tứ tung, đâm vào cổ và hai vai làm tôi ngứa ngáy. Tôi nhớ lần mình và nhóm làm việc trong lớp Đại học đóng kịch Quan Âm Thị Kính để phục vụ môn học, chúng tôi có một phân đoạn vai Thị Kính phải cắt tóc đi tu. Thế là chúng tôi mua một bộ tóc giả cho bạn đóng vai Thị Kính. Tôi đã mượn bộ tóc giả để đội thử, vì khi đó đã bắt đầu có những cảm giác nhen nhóm trong tôi về việc nuôi một bộ tóc dài. Tôi đội nó và đứng trước gương xem bản thân thế nào. Tôi kinh ngạc vì không ngờ mình nuôi tóc dài lại xấu xí và không hợp xíu nào như vậy, đặc biệt là sự phiền phức, rối rắm, khó kiểm soát của những sợi tóc cứng đầu đâm chỉa lung tung, phủ loà xoà, chẳng cách nào bới lên cho gọn. Tôi nghĩ thì ra những bạn nữ tóc dài luôn phải đối diện với thứ rắc rối này mỗi ngày, dù tất nhiên họ có kinh nghiệm kiểm soát tóc tai hơn tôi. Nếu tôi cũng để tóc dài thì tôi cũng sẽ phải chịu đựng sự bừa bộn ấy mỗi ngày. Tuy nhiên, nói vậy không phải là tôi không thích thú với điều đó. Nghĩ đến sự thoải mái sau khi cột gọn được mái tóc dài loà xoà lại, cái cảm giác rột rửa sau rối ren ấy không thể nào có được nếu ta không có một mái tóc dài. Người ta hay nói gì nhỉ: không có đau khổ thì sẽ không biết được mùi vị của hạnh phúc gì đó. Tôi từ từ ngồi dậy trên giường. Cái hông vẫn nhoi nhói, nếu tôi bước đi thì chắc chắn sẽ không thể trông thẳng thớm như người bình thường được. Hơi ê ẩm một chút. Tôi thề sẽ không dám vươn người căng cơ đột ngột mà không để ý gì đến những thớ cơ và xương cốt của mình nữa. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, vào lần chuột rút trước tôi cũng đã thề thốt thế thôi, để khi nỗi đau qua đi, tôi sẽ quên mất lời thề và lại vô thức phạm phải nó lần nữa. Đó là tội nghiệt của việc làm người. Hồi thái lai không bao giờ đến, ngay cả khi chúng ta đã qua cơn bĩ cực. Tôi chỉ mới qua hai mươi tuổi mà tình trạng cơ thể lại đáng sợ như thế này, chẳng biết phía trước sẽ còn thế nào. Tôi chầm chậm rũ tấm chăn đắp khỏi người. Tôi bước xuống giường, tiếp tục nhặt những thứ bị rơi dưới đất. Tôi xoa tay lên da thịt mình, từng khúc xương gồ, cánh tay, cùi chỏ, đầu gối, hai bắp chân lông lá. Cố gắng cảm nhận sự hiện hữu của chính tôi trong bóng tối. Tôi muốn nâng niu từng đường nét và bộ phận trên cơ thể mình, nhưng đây chỉ là một khao khát từ giây phút yếu lòng nhỏ nhoi trong cô độc. Bình thường tôi không hề tỏ ra yêu quý thân thể tôi, nhìn tình trạng sức khoẻ và cách tôi để cho bản thân mình sa sút từng ngày là biết ngay. Hồi trước, còn ở quê và những năm cấp ba, tôi uống bia khá tốt, ba bốn lon gì đó một lượt cũng được mà chẳng bao giờ biết say là gì. Nhưng hồi đầu năm nay, trong một bữa tiệc nhỏ, tôi chỉ mới uống một lon bia thôi mà đã không thể chịu đựng nổi, đó không hẳn là say, tôi sẽ gọi trạng thái ấy là bị quật cồn. Thật kinh khủng, tôi nhận ra cơ thể mình đã tệ đi nhiều đến mức nào chỉ trong chừng đó năm tháng. Tôi nhắn lên nhóm chat và kể với mấy người bạn quen trên mạng của tôi về tình trạng này, một người trong số đó chậc lưỡi bảo sao tôi lại “không biết giữ gìn” như thế. “Giữ gìn”, từ này thật hay, tôi là người chẳng bao giờ giữ gìn được bất cứ thứ gì cả, tôi luôn để vuột mất những hạnh phúc mình đã sẵn có, được ban phát cho từ khi ra đời. Tôi luôn phá hỏng những món quà và đặc ân mà cuộc sống ban tặng cho tôi, để rồi than vãn tại sao số mình lại khổ đến thế, trong khi nhận thức được rõ ràng mọi thứ đều do bản thân phá hỏng cả. Tôi thừa khả năng nhìn thấy mình là một đứa trẻ may mắn đến mức nào, nhưng rồi chẳng hiểu sao, ở mỗi ngã rẽ cần phải đưa ra lựa chọn, tôi điều chọn hướng rẽ sai, và mỗi lần chọn sai thì cuộc đời tôi cứ tệ dần. Tôi mất hết tất cả những điều kiện tốt đẹp mình có. Trong khi nếu những điều kiện ấy được trao cho người khác, họ có thể tận dụng chúng và “tạo nên trò nên trống”. Còn tôi, tôi chỉ biết phí phạm. Không biết giữ gìn. Nhận thức được bản thân được đặc cách đến mức nào nhưng không nhận thức được việc phải làm sao để duy trì những đặc cách ấy. Tôi nghe người ta bàn về “phước phần”, nghĩa là phước là thứ có phần, được bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu và nếu dùng hết thì nghĩa là ta đã “tổn phước”, ta phải biết giữ gìn và tiết kiệm, cho đến khi “cạn phước” cũng là lúc lâm vào đường cùng, bế tắc cực độ. Như Minh, có lẽ Minh đã dùng hết phước mà cuộc đời này cho nó. Còn tôi, chẳng biết được ai đoái thương, hay từ đâu ra, mà đến bây giờ có lẽ vẫn còn chút phước phần của mình để mà dùng tiếp, dù lo ngại chẳng biết nó còn được bao nhiêu. Cũng chính người bạn đã trách tôi không biết giữ gìn ấy, trong một buổi xem chỉ tay và bát tự, đã bảo rằng tôi là người nhờ ơn đức tổ tiên rất lớn. Tổ tiên gánh vác rất nhiều phần khổ sở cho tôi, tôi là một đứa trẻ sinh ra với sự che chở của vô số người đã khuất. Bạn ấy bảo tôi nên chăm về thăm nhà thờ tổ, lau dọn bàn thờ gia tiên, đối đãi với ông bà cha mẹ thật tốt, hãy cúng bái thành tâm mỗi khi có dịp. Tôi thừa nhận rằng mình cảm giác được điều ấy, dù chỉ là một thứ cảm giác rất chung chung rằng số phận luôn chiếu cố đến mình. Trong tôi có một điều gì đó gắn kết với những người đã khuất, theo nghĩa tích cực. Tôi luôn được gia hộ để tai qua nạn khỏi, dễ dàng bước qua những cơn bĩ cực. Tôi có ý thức về tổ tiên, ít nhất là hồi còn ở quê, bây giờ khi sống ở một thành phố xa lạ, những nghĩa vụ liên quan đến truyền thống dòng họ đã phai dần trong tôi, khoảng cách địa lý là một vấn đề rất lớn. Nhưng có lẽ chúng ta đâu đó cần phải tin rằng người đã khuất luôn có khả năng “tốc biến” đến chỗ ta ngay khi ta cần, dẫu cách xa mấy trăm cây số. Riêng về những trách nhiệm cụ thể như cúng bái, lễ lạc thì chắc chắn tôi đã bỏ qua rất nhiều do điều kiện không cho phép rồi. Sâu bên trong, tôi nghi ngờ rằng bản thân cũng đã vô tình hay cố ý cắt đứt với họ. Nghĩ đến đây, một nỗi đau kỳ quái len lỏi trong lồng ngực tôi. Hình như không phải như vậy, tôi không muốn như vậy, phải thừa nhận rằng tôi không muốn như vậy. Tôi yêu họ, tôi yêu những người đã chết và những người còn sống. Tôi yêu họ như nhau, không ai thua kém ai cả. Hãy hiểu cho, xin hãy hiểu cho, xin hãy hiểu cho tôi… Sau khi nhận được lời mách ấy, dù trước đó còn bán tín bán nghi, nhưng nghe xong là tôi liền đồng ý ngay, bởi vì trong tôi phải thừa nhận là chúng rất đúng đắn. Thế là những lần về quê gần đây, có dịp đến nhà tổ, tôi lại dành chút thời gian đốt nén hương và quỳ trước bàn thờ gia tiên. Tôi không cầu nguyện gì lúc đó cả, tôi chỉ quỳ xuống sàn gạch hoa cương, chắp tay lại và lắng nghe âm thanh tịch mịch ban đêm, hoặc nhìn những vòng khói bay bổng dưới ngọn đèn màu đỏ cam dìu dịu. Lòng tôi thanh thản như đang thiền. Có lẽ đó gần giống với hoạt động thiền, hay đó chính là hoạt động thiền. Hồi cấp ba khi ở nhà tổ cùng với ông bà nội, có nhiều buổi tối tôi cũng làm như vậy. Hồi ấy tôi không nghe ai mách. Đó chỉ là hành động xuất phát từ một điều gì đó rất nhạy cảm trong tôi, rằng tôi thích cái cảm giác ấy: thắp nhang và lặng người quỳ trước bàn thờ, giữ im lặng để nghe tiếng của ban đêm, cảm nhận cái mát lạnh của sàn nhà, thừ người nhìn khói bay dưới ánh đèn. Tôi cảm thấy mình được bảo vệ bởi bóng đêm, bởi im lặng. Như chính giây phút này đây, dù căn phòng này quá lạnh lẽo, chẳng có cúng bái gì ai mà cũng chẳng có sự cầu nguyện gì. Đây chỉ là một cái phòng trọ, vì thế sự im lặng của nó có tính chất rất khác với sự im lặng của một gian thờ. Đây là nỗi buồn, còn hồi ấy là sự thoải mái. Nhưng dẫu là gì thì tôi cũng cảm nhận được cảm giác an toàn, như thể bóng tối và cái vô thanh là một sự bao bọc đầy dịu dàng dành cho tôi, chúng cam đoan rằng tôi sẽ vĩnh viễn được bảo vệ nếu ở trong chúng. Hồi còn nhỏ, tôi là một đứa trẻ sợ bóng tối, sợ cả sự yên tĩnh đến mức chỉ nghe thấy những tiếng rít trong màng nhĩ mình, mà tôi tạm gọi là “tiếng động của chính bản thân”. Song, giờ thì ngược lại, tôi lại sợ hãi ánh sáng, có một thứ cảm giác giống như đau đớn mỗi khi có một ánh đèn bừng rỡ chiếu thẳng vào tôi. Tôi cảm thấy mình bị lột trần. Và cả âm thanh nữa, quá nhiều âm thanh cũng khiến tôi bất an và thấy mình bị đe doạ. Dường như có nhiều sự đối nghịch lớn giữa tôi bây giờ và tôi khi còn nhỏ, những đối nghịch mà kể ra mới thấy có hơi khó hiểu. Tôi không còn sợ bóng tối hay hồn ma nữa, tôi sợ ma sống hơn, nghĩa là những người sống lẩn lút trong bóng tối, chính họ mới đáng sợ. Có hai bước ngoặt khiến tôi không bao giờ sợ ma quỷ nữa. Một là cái lần anh Thiện hỏi tôi rằng tôi có làm gì ác không mà lại sợ ma quỷ, tôi lắc đầu bảo không, tôi nghĩ mình chưa từng gây ra tội lỗi nào, ít nhất là tôi chưa từng cố ý, và anh nói nếu tôi không làm gì sai thì sao lại sợ. Thế là tôi nghĩ, phải, mình trong sạch, mình lương thiện, mình đang cố gắng làm người tốt, mình vẫn đang nỗ lực từng ngày để giữ lấy những giá trị mình cho là tốt đẹp, mình chưa từng hại ai, mình không có gì phải sợ. Bởi vì đây là thế giới mà cái thiện sẽ chiến thắng, cái thiện luôn luôn được bảo vệ và chiến thắng, nếu mình không ác thì không được phép sợ bất cứ điều gì, kể cả những thứ hữu hình hay vô hình. Và hai là khi có người bảo với tôi rằng những người đã chết từng là một ai đó mà người khác thương yêu. Khi ta đi qua một nấm mồ, ta sợ hãi người đang nằm bên dưới, nhưng hãy nhớ cho đó có thể là tất cả tình yêu thương của một ai đó, đó có thể là cha mẹ của những đứa con, người yêu của một người yêu, bạn bè của một bạn bè, đứa con của một người cha người mẹ nào ngoài kia. Con người sinh ra trong tình yêu và chết đi trong sự tiếc thương, nên những người đã chết không hề đáng sợ. Miễn là ngôi nhà vẫn có cúng bái mỗi ngày, vẫn có người sống và sinh hoạt thì không có gì phải sợ. Tôi đã không còn sợ những hồn ma nữa, thay vì vậy tôi sợ người sống, nhưng thôi đó lại là một câu chuyện khác. Thậm chí bây giờ, tôi nghĩ mình yêu bóng tối hơn cả. Tôi cũng yêu những người đã chết bởi vì như đã nói, tôi biết mình nhận được sự bảo hộ và ơn đức từ họ. Tuy vậy, tôi sợ mình đã lãng quên họ rồi, khi đang đứng đây, ở nơi cách xa họ mấy trăm cây số. Tôi lại đưa tay vuốt ve khắp da thịt mình, rồi áp hai bàn tay lên mũi, ngửi mùi của bản thân. Tôi không thể miêu tả được mùi của chính mình, nhưng tôi có thể cảm nhận được sự thân thuộc từ nó và đôi khi tôi thèm được ngửi nó, tôi thèm mùi của chính tôi, để trở nên bình tĩnh và an tâm. Mùi của tôi cứ như mùi của sự sống vậy. Tôi có một thứ mùi hơi ngọt, nhưng tôi không chắc người khác ngửi thì sẽ ra mùi kiểu gì, tôi chắc chắn cách tôi ngửi chính mình không giống với người khác, tôi đã quen mùi của bản thân rồi thì không nói, nhưng người khác không quen thì họ sẽ ngửi ra một kiểu khác. Tôi nắm cổ áo mình và đưa lên mũi ngửi, rồi nhìn bộ quần áo mình đang mặc. Một chiếc áo thun cũ và một chiếc quần thun ngắn cũng cũ. Lúc mới mua, chiếc áo thun này rất đẹp, nó có màu xanh da trời sáng bừng, may đính một cái túi bằng nhựa. Ngay từ giây phút nhìn thấy nó treo trên kệ đồ, tôi và mẹ đã chấm nó ngay, tôi mặc vào và mẹ bảo nó hợp với tôi. Mẹ thích tôi mặc áo sáng màu, bởi vì tôi đã gầy gò sẵn, không nên mặc đồ tối màu rồi lại khiến bản thân trông gầy hơn. Vả lại, tôi vẫn còn trẻ như thế. Nhưng đó là hồi cấp ba, tôi mua cái áo này để đi chơi Phú Quốc với đám bạn, cái dịp mà tôi kể mình đã mua sợi dây cột tóc tôi đang tìm. Đã hai năm trôi qua rồi, cái áo đã cũ, nó không chỉ đơn giản là cũ: cái túi nhựa vốn nhìn hay hay bây giờ đã rã nát, tan tành, mỗi lần mặc nó đi ngủ là sáng hôm sau giường của tôi lại xuất hiện những vụn nhựa dẻo li ti. Màu xanh da trời ố lại, thành một thứ màu xám ngoét. Chiếc quần ngắn thì đã mất sợi dây rút, con số là hoa văn trên quần cũng đã tróc lở nham nhở. Những món đồ cũ kỹ này tôi dùng để mặc khi ngủ, không phải vì tiết kiệm hay gì, mà bởi chúng nhão ra nên mặc rất thoải mái, không giống như những cái áo mới hồ cứng, dày dặn khác. Bộ quần áo chỉ có mùi của tôi, mùi bột giặt nồng nặc lúc đem về từ tiệm giặt ủi đã biến mất. Đợt anh Thiện lên đây ở, anh nhìn qua sào đồ của tôi và bảo rằng tôi cần để ý đến vẻ ngoài của mình hơn, tôi đã ưu tiên sự thuận tiện quá nhiều đến mức trông mọi thứ cứ bị tối giản, hay đúng hơn là nhàm chán và – anh không nói ra nhưng tôi cảm giác được đây là điều anh muốn nói – hơi bị quê mùa. Một lần tôi ra ngoài với chiếc áo thun trơn và chiếc quần thể dục, anh hỏi tôi sắp sửa đi đâu, tôi bảo tôi ra quán cà phê gặp bạn. Anh lắc đầu bảo tôi không nên mặc thế này ra quán cà phê, hay bất kỳ bữa ăn uống nào, và cái quần thể dục ấy, tôi phải thừa nhận đúng như anh nói, đã cũ quá rồi, nó là loại đồ rẻ tiền mà mặc vài lần sẽ xù lông, nhão ra, vậy mà tôi đã mặc nó quá lâu. Anh nhắc tôi hãy thay một bộ quần áo đúng với tinh thần của một buổi đi chơi hơn, chỉ cần đổi sang một chiếc quần jean thôi, mọi thứ sẽ trông khác hẳn ngay. Tôi đồng ý bởi vì không, tôi không phải một người say mê sự tối giản hay cảm thấy thoải mái với quần thể dục, tôi chỉ mặc nó bởi vì tôi nhìn vào sào đồ và thấy nó đầu tiên. Nghĩa rằng tôi chưa từng nghĩ gì về việc quần áo của mình có một tí trọng lượng nào trong cuộc đời mình hay không, tôi chẳng nghĩ gì hết. Bởi vì tôi đã từ bỏ vẻ ngoài của mình. Dù hồi còn nhỏ tôi từng là một đứa trẻ xinh xắn, dễ mến, nhưng tôi đã “không biết giữ gìn” và đánh mất nó, tôi đã từ bỏ và việc thay đổi cách ăn mặc chẳng có ý nghĩa gì với tôi cả. Sao tôi có thể quan tâm đến việc nếu mặc một cái quần lên người thì trông mình sẽ như thế nào, khi mà còn bao nhiêu thứ cần phải quán xuyến, bao nhiêu suy nghĩ bủa vây chồng chéo trong đầu tôi, bao nhiêu thứ bận lòng. Thế là tôi thay ra một chiếc quần jean và ra ngoài. Dù sao thì tôi biết anh Thiện thấy thương cho mình, như tôi, dù không tiếc lời phán xét anh, vẫn nhiều lần không khỏi thấy thương cho anh, và cũng giống như tôi thấy thương cho Phát. Rằng không phải tôi không có trái tim, tôi vẫn có trái tim và không gì có thể phủ định được sự thật ấy. Nên có lẽ phần nào, tôi cảm nhận được anh Thiện tội nghiệp cho tôi, một đứa em không được ai dạy cho cách ăn diện, chăm chút cho vẻ ngoài của mình mỗi khi bước ra đường, không coi trọng gì cái việc mình sẽ xuất hiện trước người khác như thế nào. Tôi cảm nhận được trong lời góp ý hôm đó của anh Thiện là anh muốn giúp tôi. Dù tôi có định tiếp thu hay không.
Bình luận
Chưa có bình luận