Hôm qua là ngày Minh tự sát. Tỉnh dậy khi đã gần ba giờ sáng và cố ngủ lại, tôi trải qua thêm một giấc nửa tỉnh nửa mê đến hơn bốn giờ. Bóng tối tràn ngập căn phòng. Đồ đạc ngổn ngang lẫn lộn trong một mảng màu đen kịt, tuy nhiên trông chúng vẫn như đang tuân theo một quy luật nào đó, như thể chúng vừa sinh ra là đã được đặt ở những chỗ ấy. Căn phòng tranh tối tranh sáng. Những góc cạnh hiện lên lờ mờ, chỉ thấy ánh sáng đèn tín hiệu của máy điều hoà màu xanh lá, mỏng và nhỏ như ánh sáng của một con đom đóm. Điều hoà chạy ro ro. Tôi trở người trên giường. Căn phòng có hai chiếc giường. Chiếc tôi đang nằm thật ra là của anh Thiện, anh ấy lên thành phố một vài tháng để kiếm việc làm rồi lại trở về quê vì không kiếm được, hoặc kiếm được nhưng không muốn theo lâu dài. Dây đèn trang trí trên bức tường cạnh giường cũng là do anh Thiện mua, tấm phông trang trí hình Bùa ngủ ngon cũng vậy – dạo gần đây những hoa văn kiểu này bỗng nhiên nổi rộ lên và người ta bắt đầu in ấn chúng trên hàng loạt món đồ, tất nhiên phải là ai khác mua thứ ấy chứ không thể là tôi, nó hơi quá đà với tôi, dù tôi tin rằng anh Thiện cũng không thật sự thích nó mà anh chỉ đơn giản là chọn nó trong số những món đồ được bày biện ra để anh chọn, không xuất phát từ một khao khát thầm kín nào cả. Những hôm đầu tiên tôi có bật dây đèn trang trí khi ngủ, ánh sáng của nó dịu dàng, ấm áp và thoải mái, khiến người ta cảm thấy hạnh phúc và đủ đầy, nhưng dần dần tôi không còn bật nó lên nữa. Tôi ngủ với bóng tối. Tôi thích ngủ trong bóng tối hơn. Cha mẹ luôn thắc mắc tại sao tôi có thể ngủ trong một không gian tối mịt mùng như vậy, nhưng cái cảm giác yên tâm rằng mình đang ở trong một chất nhầy rất loãng màu đen, bao bọc xung quanh, làm tôi như chìm vào một thế giới khác. Không ai quấy rầy ai trong bóng tối. Ánh sáng mang lại nhiều bất an, ánh sáng nhắc tôi rằng tôi không chỉ có một mình, còn bóng tối thì như đang thủ thỉ rằng tôi chỉ đang có một mình. Và một mình thì an tâm hơn. Tôi mò mẫn trong tấm chăn dày, loại dày đến mức khi đắp nó ta sẽ cảm giác như đang đắp một đám mây xốp lên người. Tôi tìm điện thoại. Tôi nhớ mình đã sạc điện thoại trước khi đi ngủ. Nó phải ở đâu đó thôi, trên đầu giường hoặc dưới gối, hoặc tôi đang nằm lên nó, hoặc trong tấm chăn quá lớn này. Tôi lần tay khắp chung quanh, giống như đang tìm một vật gì dưới đáy biển tối tăm thời cổ đại, giống như một người đi đường ban đêm đang dò trên mặt đất để không bước lệch khỏi đường và trượt xuống triền dốc hai bên. Tối đến mức không thể phân biệt được là tôi đang nhắm hay mở mắt, chỉ có những đường nét cánh tay và các ngón tay ngoe nguẩy là xác nhận rằng mắt tôi đang mở, nhưng những đường nét cũng mập mờ lẫn vào trong cái đêm tối hun húc. Điều hoà thật dễ chịu, luôn ở mức vừa phải. Tôi lại xoay qua bên này bên kia để tìm. Tay tôi đụng trúng những cuốn sách đặt bừa phứa trên giường, chúng trượt đi và rơi xuống sàn. Không thấy điện thoại. Hay nó đã rơi cùng với những cuốn sách? Khi nãy tôi chỉ vừa mở lên xem giờ xong, đặt xuống một lát thì nó biến đi đâu mất, khi cần thiết thì lại không thấy. Tôi cố gắng tìm một lần nữa. Chiếc điện thoại có ốp lưng quá dày, một chiếc ốp lưng trong suốt, một miếng nhựa dày dặn quá mức làm chính chiếc điện thoại cũng trở nên thô kệch. Tiệm phụ kiện điện thoại hôm đó đã hết những mẫu đẹp, mà tôi biết rõ nếu mình không mua ngay lúc ấy thì sau này sẽ lần chần mãi không biết đến bao giờ. Tôi đã dần hiểu ra nếu mình cần làm gì thì phải làm ngay, bởi vì một là làm ngay lập tức, còn không thì bản thân sẽ lần lữa mãi cho đến khi quá muộn. Giống như một bộ phim tải lậu mà tôi để trong máy dự định một ngày rảnh nào đó sẽ xem, nhưng tới bây giờ đã hai năm trôi qua nó cứ nằm ở đó, không được đoái hoài, như một biểu tượng của sự cô độc, của một cuộc lưu đày nơi tận cùng thế giới. Nơi tận cùng của thế giới. Vùng đất mà cả thế giới đã lãng quên thật ra chẳng ở đâu xa xôi cả. Nên tôi buộc phải mua cái ốp lưng đó, và tự nhủ rằng mình sẽ đổi một cái khác đẹp hơn trong tương lai, tất nhiên vẫn là cái câu chuyện tôi vừa nói: thứ gì không làm ngay thì sẽ bị lãng quên đến khi quá trễ, đã bốn năm rồi mà tôi vẫn chưa đổi cái mới, cái ốp lưng dày cộp thô kệch vẫn phải làm công việc của nó. Màn hình điện thoại nháy sáng, ra là nó bị lẫn xuống dưới chân tôi. Nó nháy đèn như thể báo với tôi rằng nó đang ở đâu, nó biết có người đang tìm mình. Một tin nhắn đến, chỉ là tin rác thông báo sự kiện của game. Trò dạo này tôi hay chơi là kiểu game mà ta phải cẩn thận canh góc để bắn các viên đạn về phía những con quái vật sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ở mỗi lượt, nhưng khác với những con game chung một kiểu như vậy, trò tôi chọn có nhiều điểm thú vị hơn, nhiều hiệu ứng, nhiều sự kiện được cập nhật, như đến Giáng Sinh thì nó sẽ cập nhật giao diện và các ải liên quan đến Giáng Sinh, rồi càng ngày những người đứng sau càng sáng tạo thêm những chức năng mới, những cửa ải mới, những chiêu thức mới, như một thân cây ban đầu bung toả ra nhiều nhánh lớn và rồi sau đó ở những nhánh lớn lại sinh ra nhiều nhánh con, và những nhành con lại tiếp tục phân ra, cứ thế không dứt, cái này lại dẫn đến nhiều cái khác và trong mỗi cái khác lại sản sinh ra nhiều cái khác nữa. Như khi muốn kể rõ ràng một câu chuyện, bạn sẽ phải kể rất nhiều câu chuyện phụ kèm theo, rồi trong mỗi câu chuyện kèm theo đó lại rẽ nhánh thêm rất nhiều câu chuyện bổ sung khác mà nếu không biết cách dừng lại thì càng lúc bạn sẽ càng phải kể nhiều câu chuyện hơn so với dự tính ban đầu, như một mê cung nhiều đường ngang ngõ tắt đến mức làm người ta lạc trong đó mà quên mất trục đường chính nằm ở đâu. Xem giờ và kiểm tra để biết ngoài cái thông báo của game kia thì không có thông báo nào khác xong, tôi tắt điện thoại và một lần nữa quay về với căn phòng tranh tối tranh sáng. Tôi không muốn nhấn xem những phản ứng của người khác về cái chết của Minh. Người ta không có nhiều kiểu phản ứng để lựa chọn khi nghe tin ai đó chết. Tôi lại mò mẫm trên giường, tôi cần tìm dây buộc tóc. Mái tóc dài này làm tôi có cảm giác lần nào thức dậy mình cũng đang chìm trong một mớ hỗn độn, và khi cột nó lên tôi có thể ngay lập tức tỉnh táo đến bất ngờ, giống như sự mệt mỏi và ủ ê khi bước vào một căn phòng bừa bộn và sự thoải mái khoan khoái khi đã dọn dẹp xong căn phòng bừa bộn đó. Nên có thể nói cột gọn tóc lại là bước đầu tiên để tôi trở nên tỉnh táo, còn bây giờ tôi vẫn đang tồn tại trong một đống lộn xộn và rối ren. Tôi thò tay vào chăn, dịch người về mép cuối giường để tìm, rồi lại dịch từ từ về phía đầu giường. Bàn tay rờ rẫm mặt ga trải mát dịu. Đó là một chiếc dây buộc tóc màu đen, và chỉ có bấy nhiêu để mô tả nó. Nó không phải một cọng dây thun bình thường, nếu là một cọng dây thun bình thường thì tôi sẽ đi lấy cái mới chứ không cần phải tốn công tìm kiếm như thế này. Nó là một sợi dây bọc vải bên ngoài và bên trong có độn thêm một lớp vải nữa để tạo cảm giác dày dặn hơn, tối giản và nỗ lực để trông nam tính hết mức có thể. Một sợi dây buộc tóc thì khó để mà trở nên nam tính, nhưng sợi dây ấy đã tự nó làm được, cảm giác như những sợi dây buộc tóc trong phim cổ trang của các diễn viên nam vậy. Đó là một nỗ lực tuân theo định kiến, nếu đã là con trai thì dù có cột tóc cũng phải chọn dây cột tóc dành cho nam, giống như nếu muốn mặc váy thì vẫn phải chọn những kiểu váy được thiết kế để dù nó có là váy thì vẫn trông thật nam tính, hoặc khi gội đầu cũng phải dùng những loại dầu gội được quảng cáo là dành riêng cho nam giới, hoặc cho cả hai giới, tất cả như bị kéo vào một bùng binh toàn những thứ người khác tự tạo ra và tự định nghĩa, để những người còn lại chỉ việc làm theo, tin tưởng mà không chất vấn ngược lại. Không tìm thấy ở trên giường. Tôi lại dịch người xuống cuối giường để tìm một lần nữa. Có thể nó đã bị lẫn trong chiếc chăn quá rộng và quá dày của tôi. Hoặc có thể nó đã rơi xuống sàn, hay kẹt ở đâu đó, nó đủ nhỏ để biến mất. Đủ nhỏ để biến mất? Tôi tự hỏi câu nói này có nghĩa là gì. Mắt dần dần quen với bóng tối, tôi bắt đầu nhìn thấy được những đồ vật mà khi nãy chỉ là những đường nét nhạt nhoà. Có thể nhìn thấy những cuốn sách đang nằm ngổn ngang dưới sàn mà tôi vừa để rơi: Nhập môn Lý thuyết văn học của Jonathan Culler, Bên phía nhà Swann của Marcel Proust, những cuốn truyện tranh – dạo này bỗng dưng cơn cuồng truyện tranh trong tôi lại trỗi dậy mạnh mẽ, tôi đã mua chúng một cách gần như là say mê. Tôi thường chọn những bộ truyện ít tập, tôi không thích những bộ truyện quá dài, cảm giác chúng giống như cuộc đời này vậy – quá dài. Một bộ truyện quá nhiều tập khiến tôi thấy rất bất an, cảm giác cuộc đời của mình không dài bằng nó, không đủ dài. Không, chỉ một Marcel Proust là quá đủ! Nên tôi chỉ chọn những bộ có số tập ít, và cảm thấy như bị mê lú khi đứng trước những bộ truyện ấy, chỉ dưới mười tập là vừa đẹp, khi nghe đến một bộ truyện tranh nào có số tập trên dưới con số mười, trong lòng tôi bỗng nổi lên cảm giác phải bỏ tiền ra để mua hết cả bộ trong một lần, không biết nó có xuất phát từ một thứ bản năng nguyên thuỷ nào không, hay liệu phân tâm học có giải thích gì về những vấn đề tương tự thế này hay không, nhưng không thể chối cãi rằng tôi phát nghiện những bộ truyện tranh như thế – đã kết thúc và hãy thật ngắn. Ngoài sách ra, còn có một cây bút chì ngòi bấm, khi nãy tôi không nghe thấy tiếng rơi của nó, chỉ nghe được tiếng rơi của sách, chắc là nó đã bị át đi. Nhưng tạm quên cây bút chì bấm một lát, sự chú tâm của tôi dán vào những cuốn truyện tranh hơn. Đã từng một thời gian rất dài tôi đi mướn truyện ở một chỗ cho thuê mướn truyện tranh, vì quá lâu rồi nên không nhớ rõ giá mỗi cuốn thuê là bao nhiêu, hình như là ba ngàn đồng một quyển. Chỗ cho thuê truyện tranh đó ở rất xa, rất xa nhà tôi. Xa đến mức bây giờ nghĩ lại, khó mà tin được tôi đã từng đi quãng đường đó hai lượt, cả đi cả về, mỗi ngày. Hai cây số hoặc hơn, hình như phải hơn thế, mà lúc đó tôi hãy còn là một đứa trẻ. Đối với một đứa trẻ thì đoạn đường ấy là quá dài. Thật ra có những lần tôi còn đi những chuyến dài hơn thế, tất nhiên vẫn là đi bộ và đi một mình, có thể kể đến những chuyến đi đến tận trường cấp một. Hồi ấy trường cấp một chỉ vừa mới xây, đối với tôi nó là một thứ lộng lẫy, và đúng là nó lộng lẫy hơn rất nhiều nếu so với ngôi trường cấp một cũ. Ngôi trường cấp một cũ, nếu còn tồn tại đến bây giờ, thì không thể gọi nó là một ngôi trường được. Chỉ có sáu phòng học, cho năm khối, tôi không thể nhớ làm sao người ta có thể sắp xếp được thời gian để đặt bao nhiêu đó lớp vào chừng ấy căn phòng, tất cả vật tư đều hạn chế và đều thiếu thốn, nhưng bởi vì khi ấy còn quá nhỏ nên tôi chưa bao giờ ý thức về việc này. Khi còn nhỏ, mọi thứ trước mắt chỉ gói gọn trong chừng đó thứ, tôi chỉ biết mỗi một ngôi trường duy nhất trên đời, vì thế mà không thể có sự so sánh đối chiếu nào với những đối tượng khác, tôi được chỉ cho nơi này là trường học thì chỉ biết là như thế. Ngôi trường mới thì lại khang trang hơn nhiều, tuy không thể nói là đủ tuyệt vời để khoe khoang nhưng đã có thể gọi là tốt – với một ngôi trường thuộc điểm phụ của thị trấn. Khi còn học ở ngôi trường cũ, mỗi khi tổng kết năm học mẹ tôi phải đạp xe chở tôi đến một địa điểm khác, cũng là ngôi trường thuộc điểm phụ khác nhưng khá hơn, đủ chỗ để làm một buổi lễ cuối năm, tôi đã luôn tự thắc mắc tại sao mình lại đến một nơi quá xa lạ, không biết là nơi nào, không biết là mọc từ đâu ra, để dự lễ Tổng kết. Song tôi đã không hỏi, tôi chỉ tự thắc mắc với chính mình. Nói chung, tôi đến ngôi trường vừa mới xây ấy, một thân một mình và cuốc bộ cả chặng đường dài như thế để làm gì? Tôi đi gặp một cô gái, chẳng thể gọi là tình đầu, chỉ là thứ cảm xúc gần gũi kỳ quặc, và bây giờ nhớ lại, tôi nhận ra cô nàng cũng không quá xinh đẹp. Chúng tôi hồi đó chỉ là một đám con trai lóc chóc, luẩn quẩn với những đứa con gái trông rất bình thường, vì thế nếu xuất hiện một cô bạn hơi nổi bật chút chút thì cô ta liền trở thành tâm điểm. Một cô bạn gái chuyển đến học chỉ một năm, được rất nhiều đứa con trai trong lớp thích, ai cũng nói thích cô ấy, tôi không nhớ rõ con số nhưng đó là một con số đáng kinh ngạc. Tôi không nằm trong đám con trai kia, hay ít nhất tôi đã cố tỏ ra mình không phải là một phần của bọn nó. Bây giờ nhớ lại, ba cô bạn gái đầu tiên mà tôi thích và thích tôi đều là những cô gái nổi bật, nghĩa là tôi thích chạy theo những thứ người khác thích và cố vượt hơn người khác ở chỗ tôi biết cách để chinh phục thứ ấy trước họ. Nhưng đó là lúc nhỏ, lúc tôi vẫn luôn được khen là một đứa trẻ xinh xắn, một đứa trẻ ưa nhìn hơn khi đứng cạnh những đứa trẻ khác, và tôi còn có cả tự tin, giống như khi những người xung quanh yêu quý mình đến một mức nào đó thì mình sẽ trở nên tự tin hơn rất nhiều. Tình yêu thương quan trọng như thế đấy! Dù sao, tôi chưa thể khẳng định đó là thích hay là thứ cảm xúc gần gũi đơn thuần, nhưng có một khoảng thời gian, mỗi ngày tôi đều cuốc bộ một quãng đường rất xa đến nhà cô gái nọ, chỉ để đi lòng vòng với cô, nói những chuyện mà bây giờ hẳn cả hai đã quên mất là những chuyện gì. Ngôi trường mới xây là nơi chúng tôi dành cho việc khám phá. Tôi nhớ chúng tôi đã lẻn vào bên trong để xem các phòng học mới, những ô cửa sắt chỉ vừa được phết sơn, chạm vào vẫn còn cảm giác dinh dính. Tôi thắc mắc tại sao tay gạt cửa sổ lại có hình như một chiếc micro, với phần tay cầm thuôn thuôn và đầu là một khối cầu được gắn vào thân, cô ấy trả lời có khi đó là micro thật, có thể ở ngôi trường này, giáo viên sẽ giảng bài bằng cách nói vào micro. Tất nhiên suy đoán này đã đi sai hướng, nhưng tôi vẫn không quên được cảm giác khi lần đầu nhìn vào những lớp học ấy. Có một thứ gì đó mới mẻ lấp đầy tâm trí tôi, như thể kể từ giây phút đó tôi biết rằng trên đời này có nhiều trường học – thật ra tôi đã biết từ sớm, qua sách giáo khoa và qua những lần đến trường khác để dự lễ Tổng kết, nhưng phải từ giây phút cùng cô nàng đến xem ngôi trường mới thì tôi mới thật sự nghiêm túc nghĩ về chuyện đó. Tại sao bây giờ tôi lại thành ra thế này, chẳng buồn đi ra khỏi căn phòng của mình, chẳng muốn làm gì khác ngoài nằm một chỗ và gặm nhấm những chuyện đã xảy ra, suy nghĩ những điều chẳng đến được đâu và cũng không mang lại một ý nghĩa gì? Tại sao việc trưởng thành lại buồn bã như thế? Cô gái tôi thích có một mái tóc ngắn ngang vai, miệng hơi vẩu, da ngăm, mắt một mí, đúng là chẳng có gì để gọi là đẹp, có thể một điểm nào đó ở cô đã thu hút tất cả mọi người mà bây giờ tôi đã quên mất nó, có thể là tính cách hay cách cô bạn ấy nói chuyện, có thể là một sự khác biệt nào đó ở cô, có lẽ tôi đã lãng quên nhiều điểm mà đôi khi chúng là những chi tiết mang tính quyết định trong tổng thể, giống như một chi tiết bị lãng quên trên bức tranh, ai ai cũng chú tâm vào những chi tiết khác mà vô thức bỏ qua nó, nhưng chính nó lại hàm chứa tất cả những ý đồ của người hoạ sĩ tạo nên bức tranh ấy. Có thể tôi đã quên mất một đặc điểm quan trọng mang tính cốt lõi ở cô bạn mà mình từng cảm mến, dù sao cô cũng chỉ xuất hiện vỏn vẹn trong một năm học rồi sau đó chúng tôi đã xa nhau đến tận bây giờ, chẳng bao giờ còn gặp lại nữa và tương lai hẳn cũng sẽ không. Khi chia tay, hình như tôi đã có linh cảm đó là vĩnh viễn, có những cuộc tạm biệt không bao giờ có viễn cảnh tái ngộ, và đó là chuyện hết sức bình thường. Nhà cô bạn còn xa hơn chỗ cho thuê truyện tranh, thế mà tôi vẫn tự mình đi đến đó nhiều lần, vì thế cũng không lạ gì nếu tôi có khả năng đi đến chỗ thuê truyện mỗi ngày. Tôi thuê truyện từ một người phụ nữ, tên là Dung, hồi tôi còn tới lui thì cô Dung hãy còn độc thân, và tôi nghĩ một người ở tuổi ấy vẫn còn độc thân thì có thể đã lựa chọn cả đời không lập gia đình. Tôi không biết sau này cô Dung thế nào, nhưng tôi chỉ nhớ mỗi khi tôi đến nhà cô để trả truyện và thuê cuốn mới, tôi đều cảm thấy một sự trống trải kỳ lạ. Đó là một ngôi nhà nhỏ nhắn, nếu một người ở thì hẳn cũng không quá lạnh lẽo, nhưng không tránh khỏi cô độc. Ngoài cho thuê truyện tranh ra, cô Dung còn làm bánh flan, tôi biết đến sự tồn tại của món bánh flan là từ ngôi nhà ấy. Đến tận bây giờ tôi vẫn không tài nào tìm ra những chỗ bán bánh flan ngon như cô Dung làm, có thể là vì chúng ngon thật, bởi không chỉ có tôi mà những người khác cũng khen, tôi đã có lần nghe được một chị gái vào mướn truyện cùng lúc với mình khen tay nghề của cô Dung. Nhưng câu chuyện ngon hay dở hẳn không chỉ dừng lại ở đó. Có thể là do cả tuổi thơ mình tôi chỉ ăn duy nhất món bánh flan của ngôi nhà nhỏ đó làm ra, mà thứ gì đầu tiên cũng đều có một vị trí quan trọng, lại còn suốt bao nhiêu năm tháng tôi chỉ ăn bánh flan của duy nhất một thợ, nên có thể vì thế mà hương vị ấy dần dần trở thành chuẩn mực trong tôi, một thứ bánh flan “chuẩn mực” khó lòng kiếm lại được nữa. Trong nhà cô Dung có một bàn thờ lớn, đặt những di ảnh mà tôi chưa bao giờ được biết là của ai, có thể là của cha mẹ cô. Một vài lần tôi đến ngay lúc cô đang cúng nên phải đợi một lúc, khung cảnh cúng kiếng của cô lại càng khiến cho ngôi nhà càng thêm vắng vẻ hơn. Cô Dung thường bỏ tiền trong một chiếc hộp bánh bích quy bằng thiết, loại thùng khối vuông cao màu đỏ. Tôi không nghĩ rằng đống tiền vụn vặt đó là tất cả số tiền mà cô có, chắc là vẫn còn một khoản lớn hơn nhiều được để riêng và cất ở một chỗ khác. Ngôi nhà cho thuê truyện sở hữu nhiều truyện đến mức không thể tin được, khi còn nhỏ tôi đã từng đặt mục tiêu mình sẽ đọc hết toàn bộ số truyện ấy, đối với tôi khi còn bé thơ thì nhà cô Dung là một kiểu thiên đường. Tôi khám phá và lôi ra trong những ngõ ngách xó xỉnh những cuốn truyện cũ mốc, những cuốn mà có lẽ chính cô Dung cũng đã quên mất sự tồn tại của chúng, tôi đọc Chú Thoòng, Ô Long Viện, Nhóc Maruko, những bộ truyện tranh Việt Nam, những bộ truyện tranh mà kết thúc làm cho tôi vô cùng xúc động, những bộ mà tôi tin rằng chúng đã chuyển hoá thành một phần nào đó trong tôi, chúng mãi mãi ở trong tôi dù tôi đã quên toàn bộ nội dung về chúng. Những gì chúng ta tiếp xúc sẽ trở lại đâu đó trong cuộc đời chúng ta một vài lần nữa. Sau này tôi có đến một số nơi cho thuê truyện khác, nhưng cũng giống như vụ bánh flan, những chỗ khác không bằng ngôi nhà của cô Dung, số lượng truyện không bằng, chắc chắn không bằng. Truyện tranh ở nhà cô Dung nhiều đến mức chúng bày la liệt khắp mọi nơi mọi chỗ, từ trước ra sau, đến nhà bếp rồi cả nhà sau nữa. Chính những bộ truyện ấy, đa số chỉ được in một lần và không còn tái bản, khiến tôi có cảm giác mạnh mẽ về sự lãng quên. Nếu một cuốn sách không bao giờ được tái bản, không được độc giả đoái hoài, nó sẽ bị lãng quên. Nhưng tại sao việc này lại đáng buồn? Không, tôi không nghĩ là nó đáng buồn, tôi chỉ thấy đáng tiếc. Một con người chưa làm được gì phi thường, chỉ sống và chết lặng lẽ, thì dường như cuộc đời có hơi đáng tiếc. Nếu nói thế thì có quá đáng không, khi phần lớn chúng ta đều sống như vậy? Sau này, tôi có vài dịp quay lại thị trấn cũ, cũng có một lần hiếm hoi tôi đi ngang ngôi nhà cho thuê truyện của cô Dung, nhưng tôi đã không bước vào. Tôi, trong giây phút đó, đã chọn cứ vậy mà đi qua. Có thể tôi thấy không cần thiết, tôi không có mục đích nào cho việc đó, nếu tôi bước vào và gặp lại cô Dung, đấy là tôi đang thoả mãn chính mình, tạo điều kiện cho mình đắm chìm vào cảm giác u hoài từ những chuyện đã qua, chứ không có mục đích nào khác. Tất cả chúng tôi đều như vậy: không làm gì thừa thãi, nếu trong lòng nghĩ rằng không cần thiết thì không cần làm. Hay là vì, tôi cũng có những ký ức không tốt về cô Dung? Chuyện là có một hôm nọ, tôi cảm nhận được sự bắt chẹt, vòi thêm tiền ở cô. Hồi ấy, hồi học cấp hai, tôi dần ý thức được một con người có thể cần tiền đến mức nào, và đối với một ngôi nhà cho thuê truyện như nhà cô Dung, chắc hẳn đồng ra đồng vô không thể khá khẩm được, càng lúc tôi nhận ra cô Dung càng cần tiền. Thế là cô bắt đầu soi mói những cuốn sách được trả về, để tìm ra một lỗi nào đó và tính thêm tiền phạt, gần như bằng cả giá bìa sách. Tôi nhìn ra nhưng tôi đã không nói, bởi vì khi ấy tất cả chỉ đơn thuần là cảm giác, một sự ngờ vực len lỏi, hay một ý nghĩ mà có lẽ tôi cho rằng vì bản thân mình xấu tính nên mới nghĩ không tốt cho đối phương. Sau này, cô Dung bắt đầu chuyển qua bán những món đồ gia dụng xinh xắn, mọi thứ được chất trong một cái tủ kính lớn, trưng trước cửa nhà. Cái tủ như cách để cô kiếm thêm thu nhập. Mỗi lần nhìn thấy nó, tôi luôn tự hỏi ai sẽ mua những thứ được trưng trong đó? Có lẽ cô chỉ bán cho những hàng xóm xung quanh, nhưng hẳn không nhiều khách hạng đến mức đủ để nuôi sống cô, một chiếc lược nếu giữ kỹ có thể dùng được rất lâu, các món khác cũng vậy, sao cái tủ ấy có thể nuôi được cô? Một hôm, tôi đến thuê truyện và dẫn Phát theo, hồi xưa anh em tôi vẫn còn thân thiết với nhau, tôi luôn dẫn em trai đi chơi đây đó. Cô Dung đã mời chào thằng bé, Phát khi đó chỉ là một đứa bé nhỏ xíu, năm sáu tuổi gì đấy. Cô đưa cho Phát một cái muỗng múc sơm xinh xắn, hỏi nó rằng có thích không, nếu thích thì hãy kêu anh mình (là tôi) mua cho. Một đứa trẻ tuổi Phát khi đó sao lại cần một cái muỗng múc cơm làm gì, nhưng cô Dung vẫn đem ra, đưa trước mặt thằng bé, dụ dỗ để nó thích, có lẽ cô nghĩ nếu dụ được nó, nó đòi và khóc lóc muốn mua bằng được, thì tôi buộc phải bỏ tiền ra để mua cho nó, dù món đồ chẳng có nghĩa lý gì. Song kế hoạch của cô Dung đã thất bại, Phát bàng quan, không quan tâm gì đến chiếc muỗng múc cơm xinh xắn và màu sắc bắt mắt. Cô Dung bẽ bàng, thất bại trong vũng ao tù của những thèm muốn kiếm từng đồng bạc lẻ để sống qua ngày, có lẽ khi ấy cô thật sự không còn bao nhiêu tiền dành dụm nữa, mà cái tủ ấy lại chẳng bán được thứ gì cho ai. Mọi thứ trong tôi sụp đổ chỉ đơn giản như thế, thật tiếc làm sao khi hình ảnh cô Dung để lại trong tôi chỉ là mấy ấn tượng về một con người quá mức tầm thường, bị sự thiếu tiền ssắp nặn ra một dáng vẻ khác. Bao nhiêu cuộc nói chuyện, bao nhiêu chuyến thăm hỏi, bao nhiêu lần tâm sự với nhau, có đáng không khi rốt cuộc những ấn tượng còn lại trong nhau chỉ mỗi bấy nhiêu đó, lại còn là những điều xấu xí nhất, cô Dung có đáng phải chịu như thế không, trong một bước có lẽ là sa cơ lỡ vận của mình, tại sao tôi không nhớ những chuyện tốt hơn, không nhận định về cô tốt hơn. Suốt cả thời thơ ấu, rốt cuộc người ta chỉ đổi lại được một hình ảnh buồn bã như thế thôi sao? Cô Dung làm tôi nhớ đến những nhân vật trong truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn, tôi chợt nhận ra cuộc đời này đúng là thế, mọi điều tốt đẹp quá mong manh trước sự tàn bạo bủa vây xung quanh, ập vào chúng ta thật đau đớn và phá huỷ những thứ ngọt ngào, như con bướm sa vào lưới điện, bị giật, nướng thành than và xộc lên mùi khét thoang thoảng, thứ còn lại cho đời chỉ là một ánh chớp loé lên trong giây phút ngắn ngủi, như một ngôi sao lệch quỹ đạo sa xuống trần gian tăm tối. Chúng ta thật thấm thía làm sao nỗi đau của Lỗ Tấn, chúng ta đều là Lỗ Tấn và đều có một cố hương của mình, và những người ở đó đã bị thời gian, cả cuộc sống, làm cho méo mó và trượt trên triền dốc của mất mát, trở thành những con người khác so với họ đã từng. Hồi học đến tác phẩm này trong sách giáo khoa Ngữ văn, tôi đã mơ hồ cảm nhận được một điều gì đó, một điều vụt biến, hoang mang, một nỗi buồn không thể đong đếm, tôi mơ hồ nhìn thấy chính mình của tương lai trong tác phẩm, nó là điềm báo của tất cả chúng ta, rằng hơn cả diễn ngôn về “người nông dân bị tha hoá”, đó là sự trượt đi của cuộc đời trên con dốc thời gian, mọi thứ cứ vỡ ra và mất mát từng chút một, tôi ghê sợ và hãi hùng khi phát hiện nhân vật của Lỗ Tấn chính là tương lai của chính mình. Tôi đã kiếm khắp giường nhưng vẫn không thấy mảnh dây buộc tóc của mình đâu, có thể nó không ở trên giường thật rồi, nhưng tôi, với một quán tính bởi vì trong đầu bận rộn nghĩ những điều khác và phó mặc hết cho chân tay tự mò mẫm làm việc, tôi tìm suốt mấy lượt, từ đầu giường đến giữa giường rồi đến cuối giường. Nhiệt độ của máy điều hoà thật dịu dàng, may mắn khi có thể tỉnh dậy và cảm nhận mọi thứ đều ở mức vừa phải: nhiệt độ vừa phải, giường gối vừa phải, đủ tối và không gian đủ im lặng. Dường như tôi có thể mãi mãi ở đây, một điều gì đó thuyết phục tôi là tôi có thể mãi mãi sống trong trạng thái như thế này, không bị phiền nhiễu, không ai có thể chạm vào tôi, không rầy rà đến cuộc sống của tôi, tôi có thể tự giam mình trong khoảnh khắc này đến khi thế giới chết đi, cứ tìm dây cột tóc mãi mãi, cứ tìm nó cho đến tận cùng thời gian, bị lãng quên giữa cuộc sống. Tôi cũng sẽ không chạm vào ai, không gây ra bất kỳ hành động nào. Đáng lẽ tôi phải đi đến sự lãng quên này mới đúng. Tôi lại nằm xuống, trải cả người trên giường, mi mắt sau một đêm ngủ vùi giờ có hơi đau, cổ họng khát khô, mọi thứ đều phủ kín một tầng sương đau đớn bảng lảng, như thể nỗi đau tôi đang trải nghiệm không hề có thật mà tất cả chỉ là do tôi tưởng tượng ra, là những tín hiệu giả mà vì một lý do nào đó cơ thể phải làm giả để cảnh báo với tôi về những vấn đề khác hẳn. Không biết có nên gọi chúng là đau đớn không, hay tất cả chỉ dừng ở mức “khó chịu”, phải, có lẽ chỉ là những khó chịu. Tôi nằm một lát nữa, hít sâu và lấy chăn phủ kín người, chiếc chăn đủ nặng khiến tôi có cảm giác như đang bị thứ gì đó đè lên, nhưng đủ nhẹ để tạo ra sự thoải mái của một căn hầm tối. Mọi thứ không còn mùi nữa, chiếc giường của tôi sẽ có mùi thơm ngát mỗi khi tôi mang ga gối đến tiệm giặt ủi và lấy về rồi trải ra. Vài ngày sau thì chúng sẽ không còn mùi hương ấy nữa, chỉ còn mùi của chính tôi, mùi mang dấu ấn của tôi, tất nhiên đối với tôi, đây cũng là mùi thân thuộc nhất trên đời. Tôi chìm trong chính mình, bóng tối im ắng nghe ra tiếng thở. Không biết đã mấy giờ rồi. Tôi dùng cả cơ thể mình để tìm dây cột tóc trên giường, bằng cách lăn qua lăn lại, len lỏi tay chân đến khắp nơi và dang rộng hết mức mọi bộ phận để xem có thể vô tình quơ quào trúng nó không. Vẫn không có. Đêm qua tôi có đeo nó lên tận giường không? Hay tôi đã cởi ra và bỏ nó ở chỗ khác trong phòng? Hay nó đã bị rơi xuống hốc kẹt nào rồi, hoặc dưới gầm giường. Tôi chầm chậm nhất người dậy trong tấm mền phủ kín, mọi chuyển động đều chậm đến mức bất thường, như chính tôi đang cố lắng nghe cơ thể tôi khi nó chuyển động, cố cảm nhận động tác của nó giữa không gian, tìm ra cái bất biến và ý nghĩa trong mỗi cái nhấc tay, di chuyển các ngón. Cơ thể của tôi. Chưa bao giờ tôi thật sự nghĩ mình có cơ thể, tôi được dạy rằng bộ não là bộ phận quan trọng nhất và tôi đã đồng nhất nó với chính mình: tôi chỉ là một cái não bé tí đang cố vận hành cả một bộ máy phức tạp, với bao nhiêu đường dây mối nối, tồn tại chính là thế này đây… Tôi vén các sợi tóc loà xoà ra sau vai, mái tóc đủ dài và đủ ngắn, không quá dài như những mái tóc của “con gái”, nó chỉ dài hơn mái tóc của một người con trai để tóc dài một chút, song vẫn đủ để chấp nhận được. Tôi tránh những phong cách “phong trần”, “nghệ sĩ”, “cá tính” gì đó mà một mái tóc dài có thể mang lại cho một đứa con trai, vì tôi nuôi tóc dài không nhằm những mục đích khiến mình thành một biểu tượng, mái tóc không và sẽ không bao giờ là một bản tuyên ngôn cho con người tôi. Khi nãy nằm úp mặt xuống trong chăn, tôi cảm nhận việc những sợi tóc phủ hết lên tôi, phủ qua tai, trùm kín mọi thứ. Những sợi tóc mát lạnh khiến tôi thấy thoải mái. Hồi còn nhỏ, tôi có một cái đuôi tóc phía sau gáy, người ở vùng tôi gọi đó là “đuôi rùa”. Không hiểu vì sao tôi lại có nó, không ai cố ý, tôi cũng không cố ý, chỉ đơn giản là bỗng nhiên những sợi tóc ở vùng ấy mọc dài hơn những sợi tóc ở vùng khác trên đầu. Tôi nuôi cái đuôi tóc của mình cho nó dài ra, dài ra, tôi sẽ ra tiệm cắt ngắn những phần còn lại riêng cái đuôi vẫn để nguyên như thế. Nó từng là một đặc điểm để phân biệt tôi với những đứa trẻ khác, khiến tôi trở nên đặc biệt và ấn tượng. Song, nó cũng mang đến cho tôi lắm phiền phức, đặc biệt ở lứa tuổi ấy, những đứa trẻ rất thích trêu nhau và tôi hay bị chúng giật đuôi tóc. Đến một ngày, khi mọi người đã thấy tôi đủ lớn, không nên nuôi cái đuôi ấy nữa, thế là quyết định ban ra bảo tôi cần phải cắt nó đi trong lần cắt tóc sắp tới. Ban đầu, tôi cũng thấy là nên như vậy, tôi có lẽ đã mừng rỡ khi biết từ nay mình sẽ không bị người khác trêu bằng cách giật tóc nữa. Nhưng đến hôm bước vào tiệm cắt tóc – đó là một tiệm cắt tóc bình dân nhỏ trong xóm, thợ chỉ thuộc được vài ba kiểu tóc cơ bản, không hề có bất kỳ dụng cụ uốn nhuộm sấy gì cả, không biết giờ chú thợ cắt tóc ấy đã ra sao rồi, chú ấy có còn làm công việc với cái tiệm nhỏ xíu của mình nữa hay không, trong thế giới biến đổi ghê gớm của những mẫu hình thời thượng hiện nay – ngay khoảnh khắc cây kéo nhấp bỏ đoạn đuôi tóc thừa ra, tôi ngỡ như mình đã đánh mất điều gì đó. Tôi bật khóc trên đường về nhà và thậm chí ở tuổi đó, tôi đã biết rõ việc khóc lóc này vô cùng ngu ngốc, điên khùng. Nhưng tôi không dừng được, nước mắt rơi lã chã, có lẽ đó là lần đầu tiên tôi biết trên đời có một tình huống mà ta sẽ khóc khi không hề muốn khóc hay chẳng có gì để khóc, song nước mắt thì cứ chảy mãi chảy mãi. Tôi không còn nhớ rõ vì sao lại thế, dường như tôi nhận ra mình đã đánh mất điều gì đó, một điều gì đã trôi qua, biến mất cùng với đoạn tóc ấy? Rốt cuộc việc cắt đi cái đuôi tóc mang đến ý nghĩa gì, nó nhắc tôi về điều gì? Có thể nào, ngay từ khi còn nhỏ xíu tôi đã biết sợ thời gian. Hoặc có lẽ tôi đã không thể tin được rằng mình có thể mất một thứ theo cách quá mức dễ dàng như vậy: một cái nhấp kéo. Sự thật là chẳng có một kết nối linh thiêng nào cả, chẳng có biểu trưng nào cả, chẳng có sự nuối tiếc nào cả, có lẽ do hành động nhấp kéo ấy quá tàn nhẫn, quá đơn giản, khiến tôi như kẻ hụt chân rơi xuống vách đá. Tôi nhận ra mình cũng có thể chết dễ dàng như một cái nhấp kéo, cuộc đời quá mong manh, quá dễ đánh mất, quá dễ bị cắt đứt, quá dễ tiêu tan và hoá thành con số không tròn trĩnh. Sau này, tôi hoàn toàn quên mình từng có một cái “đuôi rùa”, dù một khoảng thời gian dài sự hiện hữu của nó ảnh hưởng rất lớn lên cuộc đời tôi, nhưng khi lớn lên tôi đã quên, thậm chí trong những cảnh tượng hoài niệm kí ức mà tôi tái tạo, tôi cũng không hề có một cái đuôi tóc nào cả, tôi chỉ là chính mình với phiên bản bé bỏng hơn – vậy là tôi đã loại một chi tiết điển hình ra khỏi kí ức của mình một cách hoàn toàn vô thức. Tôi không ngại gì việc mình từng nuôi đuôi tóc hồi còn nhỏ, không ngại gì khi nhớ về nó, thế nên chắc chắn lý do không phải vì tôi không muốn nhớ, mà là đã không ai nhắc cho tôi nhớ, sau này nó đã không lặp lại đủ nhiều và đủ ấn tượng để tôi nhớ, dù lúc nó còn thì lại rất ấn tượng. Giờ đây, tôi đã đánh mất nó rồi, cái đuôi ấy không còn xuất hiện nữa, tóc tôi mọc đồng đều ở tất cả mọi nơi trên đầu và khi tôi để tóc dài thì tất cả đều dài bằng nhau, một mái tóc dài bình thường. Để đuôi tóc không giống với việc để tóc dài. Nó chỉ có mỗi một cái đuôi, mái tóc dài hiện tại của tôi thì khác, nó như một căn lều phủ trùm lên tôi, che chắn và giấu giếm tôi, để rồi mỗi khi tôi cần lộ diện hoặc muốn gọn gàng thì lại vén nó lên và cột lại bằng dây cột tóc. Lâu lâu tôi vẫn nhớ về người thợ cắt tóc ở cửa tiệm ấy, câu cửa miệng của chú mỗi khi gặp tôi là “thời gian mau quá ta!”, câu cảm thán này lặp đi lặp lại đủ nhiều để tôi có thể nhớ mãi. Bởi vì mỗi năm chú ấy lại hỏi, rằng tôi đã học lớp mấy rồi, đã mấy tuổi rồi, và khi tôi trả lời chú lại cảm thán “thời gian mau quá ta!”, tôi phải đồng ý là thời gian mau thật, nói đúng hơn là mau đến khủng khiếp, đến mức bất an. Giờ tôi đã ở đây rồi, cách quá xa tiệm cắt tóc đó, cách quá xa mọi thứ, không thể đoán được chuyện gì đã xảy ra ở cái nơi mà mình đã sống cho đến tận năm lớp bảy mới chuyển đi. Tôi luôn có cảm giác mình đã bỏ lại họ: thôn xóm ấy, những người quen ấy, cửa tiệm cắt tóc ấy, trong một góc thế giới quá nhỏ bé. Sao chúng ta lại nhỏ bé thế này? Chúng ta làm được gì chỉ bằng sự nhỏ bé của bản thân, khi tôi ở đây, trong căn phòng mịt mùng tối tăm và khuất lấp trong một kỷ nguyên vừa to lớn vừa lao đi vùn vụt xung quanh? Như một sợi dây cột tóc mỏng nằm ở đây đó mà vì quá nhỏ nên có lẽ tôi sẽ khó mà tìm thấy, thế giới bé mọn kia cũng khó mà được tìm thấy. Điều tôi ấn tượng nhất khi nhắc đến việc cắt tóc chính là chú thợ cắt tóc của tôi. Đó là một người đàn ông điển trai đến mức kỳ lạ, chẳng khác nào một minh tinh, một ngôi sao. Nhưng không phải vì kiểu tóc, kiểu tóc của chú cũng bình thường thôi, là một trong những kiểu phổ biến chú thường hay cắt, kiểu chia ngôi bảy-ba và vuốt ra sau. Vẻ điển trai ở chú nằm ở đường nét khuôn mặt, với sống mũi cao kỳ lạ, tôi luôn tự hỏi một người Việt Nam sao lại có cái mũi như thế, một cái mũi bất thường, kỳ quái và rất đẹp. Những chi tiết khác cũng đều đẹp. Chú có thể là người đàn ông đầu tiên tạo ra cái ấn tượng về một “vẻ đẹp đàn ông” trong suy nghĩ của tôi, nhưng đó là mãi về sau này, khi tôi nhớ đến chú, còn lúc nhỏ tôi chỉ đơn giản bị vẻ đẹp của chú làm cho hoang mang. Hồi ấy, tôi chưa bao giờ biết đến một vẻ đẹp như thế, một người đàn ông đẹp và một người phụ nữ đẹp trong thang đo của tôi đều lấy cha mẹ tôi làm chuẩn mực, cha mẹ tôi luôn đẹp, còn chú thợ cắt tóc thì đẹp một cách dị thường, khác xa cái tiêu chuẩn ấy của tôi, xa đến mức làm tôi bối rối hơn là xác nhận đấy là một vẻ đẹp. Về sau khi đã có cái nhìn rộng hơn, tiếp cận với nhiều quan niệm cái đẹp hơn, tôi mới dám xác nhận đánh giá ấy là đúng. Chú thợ từng bảo tôi ngoan hiền hơn những đứa trẻ khác, vì thế cắt tóc cho tôi rất dễ, cạo để tạo hình hai bên tai cũng rất dễ, chú bảo với những đứa trẻ khác thì chú không dám dùng dao lam, nhưng vì tôi ngồi rất ngoan mỗi khi được cắt tóc nên chú mới dùng nó. Hồi nhỏ tôi nghĩ đó chỉ là một lời nịnh cho tôi vui, để tôi tiếp tục phát huy tư thế bất động thoải mái, không quấy khóc hay lí lắc của mình, nhưng giờ nhớ lại, tôi có cảm giác đó là lời khen thật lòng. Từ nhỏ tôi đã có nỗi sợ lớn với dao lam, tôi luôn ngồi cứng như đá để chú không bị chệch lưỡi dao làm tôi bị thương. Nhắc đến dao làm thì có câu chuyện về sau này, tôi có đến một chỗ cắt tóc khác. Đó là giai đoạn tôi chuyển nhà cùng với gia đình đến một nơi khác: trong hai năm lớp tám và gần hết năm lớp 9. Hồi đó, tôi đã thử nhiều tiệm cắt tóc ở chỗ sống mới, nhưng cái tiệm liên quan đến lưỡi dao lam đang đề cập thì tôi chỉ đến một lần duy nhất rồi về sau xin chừa. Hồi đó, trong lớp tôi chuyển đến có một bạn tên Giang, bạn ấy có một kiểu tóc tôi rất thích, bây giờ nhớ lại tôi chẳng biết mình thích kiểu tóc của Giang ở điểm nào nữa, không phải vì nó dị hợm khiến tôi xấu hổ khi nhớ lại và chỉ thích nó hồi còn con nít choai choai, ngược lại nó vô cùng bình thường. Sau khi thử qua nhiều kiểu tóc mà không thấy hợp, tôi quyết định mình sẽ cắt cái kiểu tóc bình thường như Giang, bình thường hết mức nhưng đủ an toàn, có lẽ tôi chẳng thích nó đến vậy, tôi thích sự an toàn và bình thường của nó thì đúng hơn. Tôi hỏi Giang chỗ cậu cắt tóc và cậu dẫn tôi đến, chỉ cho tôi cửa hiệu. Đó là một chỗ cắt tóc bình dân giống như tiệm cũ có người thợ cắt tóc đẹp trai của tôi, cũng chỉ có một chiếc ghế đệm lớn, một chiếc gương và vài tấm ảnh kiểu tóc của những tài tử nổi tiếng dán trên vách tường. Giang đã bảo hay tôi cứ vào cắt luôn, bởi vì tôi sợ tôi sẽ quên tên kiểu tóc ấy (bây giờ tôi đang cố nhớ lại song cũng chẳng nhớ nổi), đó là một cái tên rất đơn giản nhưng lại mang tính vùng miền, chỉ có người ở vùng đó người ta mới dùng tên này, tôi sợ lần sau mình đến sẽ không thể nhớ được, cũng không thể miêu tả được cho chủ tiệm hiểu. Giang bảo tôi cứ vào rồi chỉ lên đầu cậu, nói với chủ tiệm rằng “con muốn cắt kiểu giống bạn ấy” là được, cậu sẽ vào với tôi và mọi thứ sẽ nhanh thôi. Nhưng chẳng hiểu sao tôi lại chần chừ, bởi vì đó là một tiệm cắt tóc mới với tôi và tôi không thể chắc về bất cứ điều gì. Tôi không thể hiểu được vì sao hồi ấy một mái tóc lại quan trọng đến thế. Với tôi bây giờ, chẳng có gì quan trọng nữa: đuôi tóc không, kiểu tóc không, tiệm cắt tóc không, đẹp trai hay xí trai cũng không. Tôi đến vào lần sau, nhờ cha chở. Cha tôi hỏi kỹ lại rằng tôi đã chắc chắn chưa, bởi vì cửa tiệm này cạo tóc rất tệ và hay làm xước da khách lắm, tôi không biết ông đã thử cắt ở đó chưa hay chỉ nghe người ta nói thế, nhưng đã tới tận chỗ rồi tôi cũng chẳng muốn lần lữa nữa. Vả lại, khi ấy tôi nghĩ, có lẽ ông thợ trong tiệm cắt tóc kia chỉ lỡ tay làm xước da ai đó một lần, có lẽ ông ta không tệ đến thế, tôi còn thấy nhiều người khác đang đứng ngồi trong tiệm đợi đến lượt, nếu đó là một thợ cắt tóc yếu nghề, hay làm rách da người khác bằng dao lam, thì sao có thể có nhiều khách hàng thế được. Tôi cứ vậy mà bước vào, đợi đến lượt mình. Mọi thứ diễn ra tệ hơn tôi nghĩ và những điều cha đã lo lắng là đúng, tôi còn không nghĩ là tay nghề thợ cắt tóc nọ lại tệ đến như vậy và cũng không hiểu sao nhiều khách hàng vẫn đến tiệm để cho ông cạo tóc. Ông ta đã gây ra không biết bao nhiêu vết thương phía sau gáy tôi, chắc chắn có rướm máu và ông cố lấp chúng bằng phấn rôm, để khi cha tôi đến hy vọng rằng sẽ không phát hiện ra và làm ầm lên. Tôi đã nhận ra có gì đó sai sai bở những cơn đau rát nho nhỏ sau gáy, nhưng tôi không thể biết tình hình tệ đến mức nào vì không thể xem được. Nhưng từ những cơn đau lan đến, tôi chỉ biết là nó rất tệ. Phấn rôm phủ khắp sau gáy tôi, tuy nhiên chúng không che giấu được gì cả. Cha tôi không phải người sẽ làm ầm lên, ông vẫn nhận ra hết nhưng chỉ im lặng chở tôi về. Trên đường về cha bảo là biết ngay sẽ thế này mà. Tôi chỉ biết ngán ngẩm, những cơn đau từ dao lam miết trúng da không làm tôi phát khóc, chỉ đau thôi, và nỗi thất vọng còn đau đớn hơn. Chúng tôi không quay lại tiệm cắt tóc ấy một lần nào nữa, mà chỗ ấy cắt cũng chẳng đẹp như tôi đã kỳ vọng, có lẽ Giang để kiểu tóc nọ nhìn đẹp chỉ vì cậu ta đã đẹp sẵn, đẹp hơn tôi sẵn, tôi thì không đẹp – có lẽ vậy chăng? Hồi ấy tôi nổi mụn rất nhiều và sau gáy cũng đầy lốm đốm, có thể chúng đã gây khó khăn cho lưỡi dao lam của ông thợ, nhưng dù sao thì việc tay nghề tệ vẫn quá rõ ràng. Tôi đã từng nghĩ là Giang thích con trai, điều này không thể trách tôi mà ngược lại, mọi người xung quanh gần như đều chắc mẩm điều đó và trêu cậu, giống như tôi cũng từng bị trêu như thế. Minh, trong một lần gặp nhau rất gần đây, đã kể với tôi rằng Giang bây giờ đã có bạn gái. Minh thông báo cái tin ấy với vẻ trông đợi sự bất ngờ nào đó, một phản ứng lớn lao nào đó từ tôi, còn hỏi “Mày bất ngờ đúng không? Tao bất ngờ lắm, Giang vậy mà có bạn gái chứ không phải bạn trai!” nhưng rồi tôi trả lời Minh là tôi bình thường, tôi không nghĩ gì cả. Minh cũng không thất vọng gì lắm, Minh không xấu tính đến thế, nhưng có vẻ với nó thì chuyện này cũng gây bất ngờ theo một nghĩa nào đó mà cũng không có gì bất ngờ nếu chiếu theo một nghĩa khác. Tôi thì nằm ở phía không bất ngờ! Nhưng tôi lo lắng, mặc dù không phải chuyện của tôi, không có chuyện nào là của tôi cả, nhưng tôi lo lắng rằng liệu có điều gì ở đấy không, một điều gì đã nảy mầm bên trong những chọn lựa của chúng tôi? Tôi muốn tin rằng Giang có bạn gái là vì cậu vốn luôn thích con gái chứ không phải vì bất kỳ lý do nào khác, tựu trung thì đây là lựa chọn của cậu ấy thôi, tôi mới đáng nói hơn đây này! Tôi nhớ có một lần, một cô giáo trong trường chúng tôi đã nhận nhầm tôi thành Giang, cô nhìn tôi ngồi trong lớp và gọi tên Giang, rồi nói gì đó, xong mới nhìn kỹ lại và chợt nhận ra là tôi chứ không phải Giang. Cô bảo chúng tôi giống nhau quá, thật ra tôi giống khá nhiều người, nhưng việc trông giống Giang làm tôi suy nghĩ nhiều hơn. Giống cậu bạn ấy là một điều tốt, tôi nghĩ vậy. Giang điển trai hơn tôi, một chàng trai đầy đặn, khoẻ mạnh, không gầy gò ốm yếu và có vẻ hèn kém như tôi. Tôi phải hạnh phúc vì điều đó: nghĩa rằng nếu tôi giống Giang thì tôi cũng không đến mức xí trai. Nhưng đấy chỉ là lúc chúng tôi học cấp hai thôi, càng lớn tôi và Giang càng khác nhau rất nhiều, tôi trượt đi trong rệu rã, mơ hồ, cuồng loạn và suy sụp, vì chuyện gì tôi cũng không biết nữa. Còn Giang thì tuyệt vời hơn, trông vẫn vô cùng khoẻ mạnh và ngày càng đẹp hơn, đẹp hơn. Còn tôi ở đây, trong đám tóc phủ bù xù của mình, mò mẫm tìm sợi dây buộc tóc chẳng biết đã rơi ở đâu rồi. Đôi lần, tôi nhìn thấy ảnh Giang cập nhật trên mạng xã hội, cậu ấy không còn để kiểu tóc hồi xưa nữa, bây giờ là kiểu chẻ bảy-ba, nam tính và tôi nghe phong thanh cậu được rất nhiều cô gái theo đuổi. Còn tôi ở đây, với kiểu tóc này, bóng đêm này, sự lần mò quanh quẩn này. Chúng tôi, từ khi nào chẳng biết nhưng chắc chắn là lâu lắm rồi, đã tách ra thành hai nhánh rẽ, và hãy nhìn xem ai đã lựa chọn đúng, ai đã lựa chọn sai, hãy nhìn xem trong hai con đường của chúng tôi thì ai đã thành công hơn, hạnh phúc hơn. Có gì mà phải chối bỏ sự thật ấy chứ! Tôi quyết định cúi người để nhặt đống sách và đồ đạc rơi vãi, không có sợi dây trong đó, tôi tin chắc nó chỉ ở trong cái mềm khổng lồ này thôi, chỉ là tôi không thể soát hết được. Tôi cầm quyển Bên phía nhà Swann lên, sờ phần bìa nham nhám và phần gáy dày dặn, một tác phẩm thật lớn, cầm chắc nịch, đồ sộ đến mức sẽ khiến một người thích đọc phát điên phát cuồng. Cách dàn trang của nó lại càng là điểm tôi đánh giá cao, ngay từ khi mở sách ra và nhìn thấy cách dàn trang, tôi đã biết mình sẽ hoàn thành tác phẩm này rất dễ dàng. Cỡ chữ nhỏ, phông chữ có chân – kiểu phông tôi ưng ý, khổ giấy to nhưng chữ lại nhỏ, rất nhiều chữ trải lên một trang giấy. Tất cả chúng tạo nên sự hứng thú muốn lần mò từng chút một trong tôi. Thật hiếm khi có một cuốn sách mà cách dàn trang lại hợp ý tôi đến như thế. Thực ra cơ duyên nó đến với tôi là từ việc tôi mua cuốn Dưới bóng những cô gái đương hoa, ở một hội sách giảm giá và đấy là cuốn cuối cùng được bày trên sạp, giảm rất sâu. Tôi mua vì tên sách, lúc đó tôi chẳng biết gì về Marcel Proust hay Đi tìm thời gian đã mất cả. Khi về nhà tra cứu thử thì mới biết đây là tập hai của một bộ nhiều tập, mà vẫn còn chưa ra hết ở Việt Nam – khả năng là sẽ không thể ra hết nổi vì hiện nay chẳng có ai dám dịch. Thế là tôi xếp nó lại, đi tìm cuốn tập một là Bên phía nhà Swann để đọc. Cần cả một quá trình dài để tôi tìm thấy tập một, nó đã tuyệt bản, ngay cả tập hai cũng chỉ còn lại vài cuốn cuối cùng và tôi may mắn mua được. Nhưng nếu không có tập một thì sở hữu tập hai cũng chẳng có ý nghĩa gì. Một hôm nọ, tôi lên một diễn đàn sách để chia sẻ rằng mình muốn đọc Marcel Proust nhưng không thể tìm được Bên phía nhà Swann, một chị gái đã nhắn cho tôi, bảo chị có một cuốn muốn bán lại, tất nhiên giá sẽ mắc hơn giá niêm yết trên bìa đây vì là sách hiếm. Tôi cảm thấy giá dù mắc hơn một chút nhưng vẫn ở mức có thể chấp nhận được nên đã chốt mua luôn. Thế là tôi có được cuốn sách đang nằm trên tay tôi hiện giờ. Ngày hôm đó tôi đã đạp xe một quãng đường hơn 7 km để lấy cuốn sách này, rồi lại đạp xe về. Tôi không biết chạy xe máy, chuyện này tôi không muốn kể rõ ra vì sao, tôi không có lý do gì để bao biện cho nó. Tôi xếp những cuốn sách và cây bút chì bấm lại ngay ngắn trên đầu giường. Mắt tôi đã hoàn toàn quen với bóng tối, thậm chí tôi đã thấy rõ từng dòng chữ trên bìa sách. Một cuốn truyện tranh Nhóc Maruko, tập một. Tôi chỉ mua mỗi tập một. Khi nghe thông báo có đơn vị xuất bản ở Việt Nam đã mua được bản quyền bộ truyện, tôi dự định sẽ mua lại cả bộ, bởi vì với tôi Nhóc Maruko không đơn thuần là một bộ truyện tranh, nó là mọi thứ. Có vẻ hơi kỳ lạ, tôi không mấy ấn tượng với những câu chuyện về cô nhóc Maruko mà ấn tượng những chương ngoại truyện khi tác giả kể về chính cuộc sống của bà ấy (tôi nghĩ vậy). Với tôi thì những chương này là hay nhất, giàu cảm xúc nhất trong cả bộ. Không biết vì sao một đứa trẻ như tôi hồi cấp một, cấp hai lại cảm nhận như vậy, có phải hơi kỳ lạ không? Những chương ngoại truyện kia quá chân thật, có một điều gì trong sạch, giản dị, dịu dàng trong chúng. Có thể vì tôi luôn xem chúng là những câu chuyện có thật từ cuộc đời tác giả (một lần nữa, tôi không chắc về điều này) nên tôi mới có nhiều cảm xúc đến thế, hay bởi vì tự thân nó đã là những câu chuyện giàu cảm xúc. Đến bây giờ, tôi vẫn tin cái hay của Nhóc Maruko là nó quá chân thật, quá giản dị và tại sao chúng ta lại không yêu một điều giống mình đến thế cho được? Nhưng, như đã thấy ở đây, tôi chỉ mua một tập duy nhất, đọc xong rồi thôi, đến giờ vẫn chưa mua tập thứ hai chứ nói gì đến cả bộ. Dù chúng vẫn tuyệt vời như trong trí nhớ của tôi. Có lẽ lỗi nằm ở tôi, tôi đã hy vọng có thể tìm lại một điều gì đó thông qua chúng, nhưng rồi khi đọc xong tập đầu tiên, nó đã nhắc tôi rằng tôi sẽ thất bại, tôi sẽ không tìm lại được những thứ đang muốn tìm đâu, đây chỉ là một cơn vẫy vùng trong vô vọng mà thôi, và càng cố gắng tôi sẽ càng lãnh nhiều thất vọng. Nên tôi đã không mua những tập tiếp theo nữa. Tôi đã mất đi điều ấy rồi, hoặc điều ấy đã rời bỏ tôi mà đi, chúng tôi sẽ không gặp nhau nữa dù tôi vẫn đang mải miết tìm kiếm lại nó, tại sao lại khó khăn thế nhỉ? Tôi không biết, nhưng tôi không muốn biến thành con người kia: người cố tìm lại những hạnh phúc thuần khiết xưa cũ song không bao giờ tìm được. Nay tôi chỉ tìm một sợi dây buộc tóc thôi mà còn khó khăn đến mức này cơ mà. Phải, chúng như một sợi dây buộc tóc mà tôi lục mãi vẫn không kiếm ra…
Bình luận
Chưa có bình luận