Cô Ba Lành vốn con nhà quyền quý, cũng có đi học chữ nghĩa như ai, nên cũng biết cái gì gọi là đạo đức nhơn nghĩa. Hồi mới được giới thiệu quen biết, còn chưa về làm vợ ông Hai, cổ đã thấy nhà ổng nhiều sự bất thường, cha cổ ban đầu cũng không ưng lắm mối này nhưng chẳng hiểu sao sau này lại đổi ý, một hai bắt cổ phải cố ý đụng mặt thường xuyên, sau cùng là gả cổ tới làm vợ kế, e là đã dòm ngó gia sản nhà Hai Tính từ lâu.
Từ hồi về ở tới giờ, Hai Tính đối với cổ không có chỗ nào khác lạ nhưng không hiểu sao từ lúc bước qua cửa, đứng lạy trước bàn thờ bà Hai, Ba Lành đã thấy chộn rộn không yên, nhiều lúc giữa trưa hè cũng thấy hơi lạnh quấn thân, gai ốc nổi cùng mình.
Tiếng tăm ông Hai bên ngoài rất tốt nhưng kẻ ăn người ở trong nhà lại ít nói, ít cười. Đối với người chồng hơn mình giáp rưỡi này, Ba Lành không dám nói là thương hay ghét, chỉ thấy sợ nhiều hơn, hay nói đúng hơn là khiếp đảm, còn về tại sao thì cổ không tài nào nói rõ được.
Đánh tiếng về cho cha hay, chỉ nhận lại một câu:
- Cao môn đại hộ, có người chết bất minh cũng là chuyện thường, có cái chi mà phải làm lớn chuyện. Chưa kể trong nhà không có vợ bé con hầu, không cần đề trước phòng sau. Chỉ cần qua ít năm nữa nó chết, hết thảy do mày, bộ không tốt hơn ha? Nuôi mày bao năm, có mỗi chuyện như vậy thôi mà cũng khóc lên khóc xuống.
Ba Lành đành phải thôi, không dám nhắc tới nữa. Thỉnh thoảng trong giấc mơ, cổ gặp một người nhìn không rõ mặt, cũng không biết đàn ông hay đàn bà, dặn cổ tuyệt đối không được để có con, cộng thêm việc Ba Lành vốn không muốn sanh nên thành ra cổ lén uống thuốc tránh thai rồi chờ thêm hai năm, lấy cớ mình không sanh được con, xúi ông Hai lấy thêm người khác về để sớm có người nối dõi.
Ông Hai nhìn cô vợ trẻ, vẻ mặt không giấu nổi ngạc nhiên:
- Mình nói thiệt hay giỡn chơi? Xứ này tui chưa thấy người đờn bà nào khuyên chồng như mình hết. Huống chi là mới có hai năm, mình còn trẻ, cũng không có gì phải gấp.
Cũng không phải Hai Tính thương yêu gì bà Ba, cũng đã có ý định kiếm thêm bà nữa cho vui cửa vui nhà từ lâu, chẳng qua ngại ông cha vợ nên chưa nói.
Ba Lành vỗ vai chồng, ân cần thỏ thẻ:
- Em nói thiệt chớ nào có giỡn thây? Họ là họ, em là em chớ sao mà như nhau được? Dù sao em cũng là con nhà gia giáo, được cha mẹ dạy dỗ đường hoàng, mấy chuyện vậy em phải tự hiểu. Hơn nữa, hồi trước lúc cưới em mình cũng nói với thiên hạ “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” rồi còn gì? Chị Hai thì mất đã lâu, đám con ở trong nhà thì dơ dáy hôi hám, em thì… mấy năm nay rồi bụng dạ không có động tĩnh gì hết trọi, để người ta nói ra nói vô quài, em nghe không có được. Thôi thì mình thương em, mình kiếm người khác sanh dùm, coi như cho em có đứa con sau này dưỡng già. Em với mình từ lúc quen nhau tới giờ cũng năm sáu năm trời rồi, em còn không hiểu được mình sao?
Bà Lành khéo léo nói tránh chuyện Hai Tính đã già, nhận hết lỗi về mình khiến ổng khoái chí cười, đúng là hai người mới cưới nhau chưa tới ba năm, nhưng thời gian qua lại phải tính gấp đôi lên mới được. Phải nói, Ba Lành cũng là một trong những nguyên nhân khiến ổng sớm cạn tàu ráo máng với bà Hai.
Một bên già nua hốc hác, miệng lưỡi cay nghiệt, đi ra đi vô vật vờ như hồn ma bóng quế làm mỗi lần ổng nhìn tới đã thấy đã mắc ói, đã vậy còn hay càm ràm, một bên lại mơn mởn, căng mẩy như bưởi vừa chín tới, ăn nói ngọt ngào, lời lẽ từ tốn, còn rộng lượng biết điều, gia thế lại cao. Lựa chọn bên nào, khỏi nghĩ cũng biết.
Ông ngả ngớn ôm vai rồi trượt tay xuống cổ áo bà Ba, mắt cong cong đầy khoái ý. Miệng lảm nhảm mấy câu ngọt ngào sáo rỗng mà bà Ba đã nghe tới chán ngấy lỗ tai.
Bả không đáp, chỉ mỉm cười. Trong bụng thầm chửi tám đời thằng cha già mất nết. Nhưng nghĩ chuyện lớn phải làm, cổ nhịn xuống cơn mắc ói, ngoan ngoãn ngã đầu vào lồng ngực xẹp lép của ông Hai.
Sau mấy vòng thương lượng, cô Ba thay mặt chồng rước thêm cô Tư Mến con ông Sáu Chài ở xóm trên về làm vợ lẽ.
Cô này vô cửa chưa lâu thì có mang, trái với vẻ mong chờ của vợ, sắc mặt ông Hai càng lúc càng khó coi. Bụng Tư Mến càng ngày càng lớn, ông Hai càng ghét cổ ra mặt, dòm cũng không muốn dòm.
Ngày Tư Mến lâm bồn, trời không mưa lớn nhưng kéo dài từ mờ sáng tới tận nửa đêm, chớp lật sáng trời. Chân trước bà Sáu Mụ vừa vô phòng, chân sau ông Hai đã thỉnh đâu một ông thầy pháp về giữ ngay trước cửa. Bà Ba khó hiểu, nheo mắt nhìn ông già râu tóc bạc phơ, mặc bộ áo bào màu xám đang hí hoáy vẽ bùa dán bốn phương tám hướng xong lại nhìn chồng, hỏi nhỏ:
- Nhà có đờn bà sanh, mình mời ông đây về nhà làm chi?
Hai Tính phất vạt áo, hiếm khi nổi cơn thịnh nộ lớn tiếng với cô vợ trẻ.
- Đờn bà thì biết cái gì, đi ra ngoài đợi, đừng đứng đây chàng ràng.
Ba Lành đang muốn giải thích thì có tiếng con nít khóc lên lanh lảnh, chưa tới nửa khắc, bà Sáu đã nhắm mắt nhắm mũi cúi đầu đi ra ngoài, không dám ngừng lại dù chỉ một giây. Hai Tính không nói gì với Ba Lành nữa, lập tức quay ngoắc, đẩy ông thầy pháp vào trong.
Bà Ba bị đuổi ra ngoài, trơ mắt nhìn cánh cửa phòng sanh đóng sầm trước mắt. Nước mưa va lộp độp trên mái ngói, hai người đàn ông trong phòng nhìn đứa con nít thiếu chân hụt tay vừa mới được sanh ra đang nằm chỏng chơ trên bàn gỗ lim đặt ở giữa phòng.
Tư Mến đã bị chuốc thuốc ngủ say nên hai người không sợ cổ nửa chừng tỉnh giấc.
Đã sớm đoán biết nên Hai Tính không còn kinh ngạc và khiếp đảm như những lần trước, ông ta cùng lão thầy pháp già dửng dưng nhìn đứa con nít dị dạng đương khóc nghẹn vì đói sữa, bình thản đánh giá như đang ngắm nghía một món hàng:
- Tui tưởng là nó chỉ lộn đầu vào bụng con đàn bà đó, không ngờ con của tui với người khác nó cũng không tha, lần này... Thầy nói coi, tui phải làm sao mới dứt điểm được?
Lão thầy pháp này là người năm xưa đã chủ động tìm tới nhà, nói thần nói quý xong gợi ý cho ông Hai cách chặt ngón tay con để làm dấu xem có phải gặp quỷ lộn hay không nên ông rất mực tin tưởng, trước khi Tư Mến trở dạ đã đích thân bí mật mời về, mục đích là để lão ta được mục sở thị những đứa con dị hình dị dạng do quỷ đầu thai của mình, từ đó đưa ra cách giải quyết triệt để.
Thầy pháp ngắm nghía “đứa con” của Hai Tính hồi lâu, gật gù vuốt râu, trong sự trông đợi của ông ta, ổng từ từ lên tiếng:
- Quỷ lộn đầu là thứ quỷ sanh ra khi người quá cố có quá nhiều oan khuất hận thù, người nhà không muốn kẻ thù sống yên nên mới tìm người làm thuật hồi hồn, thứ dùng để làm vật dẫn cho phép này là nửa cái lưỡi người chết, cắt đúng vào thời điểm chí âm, ngâm trong máu rắn đen suốt bốn mươi chín ngày. Nếu phép thành, người dưới mồ sẽ hóa quỷ hồn, chui vào bụng đàn bà có mang trong nhà kẻ thù, từ từ cắn nuốt hồn phách của bào thai rồi chiếm đoạt thân xác, đứa nhỏ ra đời không phải người, mà là quỷ đội lốt người, khi nó được sanh ra sẽ dẫn sấm sét, mưa gió rền trời. Và dễ thấy nhứt là, nó sẽ mang đặc điểm tử trạng của thân xác trước đây để lộn đầu. Nên mới xảy ra chuyện như ông thấy. Lần gần nhứt ông đã chặt đứt cả tứ chi của nó, nên giờ thứ này chỉ có mỗi cái thân trùng trục uốn éo như mối chúa vậy.
Hai Tính xám mặt, tỏ rõ căm ghét, lấy một đỉnh vàng đưa cho thầy pháp, gặng hỏi cách xử lí triệt để. Thầy pháp cất vàng vào tay áo, cây phất trần phất qua phất lại ba bốn lần, ra vẻ thâm sâu hồi lâu, mới hạ giọng tiết lộ:
- Cách tốt nhứt là không sanh con. Theo tình hình trước mắt thì người nó hận là ông, chứ không phải bà Hai đâu.
Ông Hai nghe mà tức phát cười.
- Nói thừa, nếu đã như dậy tui còn tìm thầy làm gì? Tui không thể tuyệt hậu được, không con không cái thì cái cơ ngơi này làm ra cho ai hưởng? Hơn nữa… cái thứ đó càng muốn ám, tui càng muốn nó hồn phi phách diệt, không được siêu sanh. Thầy mà làm không được, ha, nhận tiền rồi, không phải cứ nói “lực bất tòng tâm” là phủi sạch trách nhiệm, tui nói… phải không thầy?
Câu cuối ổng nhấn mạnh, mang đầy sát khí làm thầy pháp run giò, trời lạnh mà mồ hôi vã ra như tắm. Nhưng vì mạng sống , ngoài mặt ổng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, khách khí trả lời ông Hai:
- Ông đã nói dậy thì lão đây sẽ cố, về phần được hay không, còn phải chờ coi số trời.
- Có là ý trời cũng phải cãi.
Ông Hai nói xong, lạnh lùng ném đứa con mới sanh vào chậu lửa đang cháy hừng hực, đứa nhỏ yếu ớt khóc mấy tiếng rồi tắt thở. Mùi thịt cháy len lỏi qua khe cửa sổ, lan trong không khí.
Ba Lành núp ngoài cửa nghe lén nãy giờ, cố nén cảm giác mắc ói, khỏ trách lí do tại sao mà từ khi Tư Mến mang thai, Hai Tính không bao giờ nhìn tới. Bả âm thầm quay về buồng mình, cả một đêm không ngủ, thầm thấy may mắn vì mình đã không sanh con cho lão chồng già.
Tư Mến hay tin con chết yểu cũng không lấy làm buồn, ở cử một tháng lại xuất hiện trước mặt ông Hai như thường.
Một năm sau, cô ta lại chuyển dạ, lần này sanh ra một đứa bé đen như than, bị Hai Tính đem đi đâu đó mà không ai biết. Tư Mến ngày một hốc hác phờ phạc, mới về nhà này hai năm mà cổ như già đi mười tuổi, càng ngày càng không muốn gặp người, ít nói cũng không cười, ngơ ngơ ngẩn ngẩn như mất hồn.
Bẵng đi hai năm, Tư Mến lại có mang, lần này chắc phép của thầy pháp nọ linh nghiệm nên cổ đã sanh được một đứa con trai bình thường trong sự vui mừng và nhẹ nhõm của hết thảy người trong nhà.
Cũng là cái ngày mà ông cháu Năm Cô Hồn tới gõ cửa xin ở nhờ.
Bình luận
Chưa có bình luận