Sau đó, đứa con thứ hai ra đời. Bây giờ… là đứa thứ ba. Ông đã có thể chắt chắn, nó chưa bao giờ buông tha ông.
Đóm lửa trên đèn dầu lắc lư, lúc tỏ lúc mờ, cái bóng cao lớn của ông Hai hắt lên trên vách, lay lắt bao phủ bóng dáng nhỏ yếu mềm mại của bà Hai. Ông Hai ngồi bên giường, cố gắng tỏ ra bình thường.
- Mình! Cho tui ẵm con một lát.
Nghe tiếng chồng, bà Hai ngẩng đầu nhìn ông, chần chừ hồi lâu, nhưng cuối cùng không chịu nổi chồng nài nỉ, bà vẫn đưa đứa con còn bọc trong chăn cho chồng. Nhìn ông Hai nhẹ nhàng đón lấy, một tay bồng, một tay chạm lướt trên gương mặt bé con, bả nở nụ cười mãn nguyện, ngã người nằm xuống cái giường êm đã được đám tôi tớ dọn dẹp sạch sẽ, ánh mắt trông đợi nhìn chồng:
- Dù tay chân có khuyết một chút nhưng cũng là con mình, lúc sanh ra nó khóc khỏe dữ lắm, mình nghĩ phụ tui thử coi, … nên đặt tên con là…
Câu hỏi còn chưa dứt, ông Hai đã bồng đứa nhỏ ra ngoài. Bà Hai thấy chồng hành xử kì lạ, không yên lòng, lớn tiếng gọi nhưng ông Hai vẫn thản nhiên như không, đi càng lúc càng nhanh, đến trước cửa phòng thì ngừng lại, đạp tung cửa để mưa gió tạt thẳng vào người.
Hai Thiện hấp tấp xuống giường, bất chấp người mới sanh không được bị nhiễm lạnh, chỉ một mực muốn ôm con trở vô.
- Mình, gió lạnh, mình muốn hóng gió thì trả con cho em.
Ông Hai nghe vậy chợt mỉm cười, quay qua nhìn vợ, thản nhiên nói một câu:
- Con… nó chết rồi mình.
Trong đêm mưa gió, sấm chớp rân trời, giọng ông Hai rất nhỏ nhưng bà Hai lại nghe hết sức rõ ràng. Con bà… lại chết.
Không để vợ có thời gian gào khóc, vừa dứt lời, Hai Tính đã vô tình liệng đứa nhỏ ra sân.
Bà Hai run rẩy chạy ra ngoài mưa, chỉ được mấy bước thì khuỵu xuống, mặc mưa nặng hạt nện từng hồi trên thân, bà vẫn kéo lê thân trên đất, hai tay khổ sở ôm đứa con vừa tắt thở, ánh mắt nhìn chồng mang theo nỗi đau đớn, kinh hãi và căm hận tột cùng, tơ máu giăng mạng nhện, con ngươi trợn trừng như muốn nứt ra.
Mặt trắng bệch vì lạnh, bà run rẩy quay đầu, từ thất khiếu ọc ra búng máu, không phải đỏ tươi mà là đen đặc, tanh hôi như hắc ín, tất cả những thứ đó trong chớp mắt đã hòa vào nước mưa, loang ra như một cái ao nhỏ mọc lên ở giữa sân. Bà Hai Thiện ngồi đó, chết lặng như pho tượng quỷ giữ của.
Ông Hai chăm điếu thuốc, hút một hơi dài, ánh mắt lim dim nhìn làn khói mờ ảo chầm chậm loang trong màn mưa. Điếu tàn non nửa, ổng quay người ngồi xuống ghế, thong thả rót một ly trà ấm, dường như không mấy để tâm tới sống chết của người đầu ấp tay gối suốt mấy chục năm trời. Chờ tới khi bả gục xuống, ổng mới khẩy nhẹ tàn thuốc, thủng thẳng nói:
- Nó không phải con tui. Nó là quỷ. Còn bà. Là người sinh ra quỷ. Là thứ uế tạp dơ bẩn, không được tồn trại trên đời. Nể tình chồng vợ bao năm, tui mới để cho bà ra đi thanh thản, chớ không… có róc thịt lột da, cũng không hết tội.
Bà Hai Thiện không còn sức để nói, chỉ có ánh mắt căm phẫn cho thấy bà vẫn không thể nào chấp nhận nổi những lời vô căn cứ của chồng. Trước cái nhìn sắc như đao của vợ, Hai Tính vẫn giữ tư thái ung dung, cười châm chọc:
- Bà không hiểu? Hay giả bộ không hiểu? Không phải là tui không cho bà cơ hội, nhưng đây, đã là lần thứ ba rồi, nó tìm về giết tui đó, bà biết không? Bà đừng trách tui, cái này là do bà, tự làm tự chịu.
Bà Hai Thiện càng thêm chết lặng, dù đã sớm nghi ngờ, nhưng lại bị sự giả tạo của Hai Tính lừa gạt, trước nay bà luôn nghĩ do mình đa nghi, còn hai thằng con trước của mình vắn số là do mệnh trời. Nhưng hóa ra…
- Chuyện đến cớ sự này, không phải do bà mà ra hay sao? Nể tình mười năm vợ chồng, hôm nay tui nói cho bà hay. Bà vẫn còn nhớ thằng Năm Chí chứ hả? Cái thằng đáng lẽ là chồng bà nhưng chưa kịp cưới thì bị cướp giết đó?
Bà Hai vừa nghe nhắc tới Năm Chí đã rùng mình, vô thức co chặt người. Cái tên này, có đến chết bà cũng không thể nào quên được.
Ông Hai chậm rãi quấn thêm điếu thuốc, châm lửa kéo một hơi, ánh mắt mơ màng nhìn làn khói la đà lan trong mưa. Chậm rãi nhắc chuyện xưa:
- Nhớ hồi đó, tui với nó lên đường mần ăn. Nó còn nói kiếm nhiều tiền về để cưới bà. Nhưng dù cha mẹ đã hứa gả bà cho nó, bụng bà vẫn không ưng, tại bà chê nó xấu. Bà ngấm ngầm đưa đẩy với tui. Mới sanh ra cớ sự sau này. Là bà hại chết nó, bây giờ nó đầu thai làm con bà đó, nó oán, nó hận, nó thù bà. Nên nó mới quay dề để giết tui, giết bà, giết hết cái nhà này. Tui không giết nó thì tui sẽ chết, bà cũng sẽ chết, bà hiểu hôn? Người gây nghiệt là bà đó. Chính bà biến nó thành quỷ, rồi bây giờ bà đẻ ra quỷ.
Ông Hai bất ngờ hét lên, xông ra giữa sân, nắm tóc, ấn đầu vợ vào ngực đứa bé đã chết.
- Nhìn đi, nhìn cho kĩ, có phải trên ngực nó có vết bớt son ở ngay tim không? Cái chỗ đó đó, chắc bà chưa quên, là cái chỗ mà bà đâm chết nó đó. Một dao duy nhất, nó chết không nhắm mắt, cũng không kịp trăn trối. - Hai Tính bất ngờ hạ giọng - Chỉ có con ngươi nhìn bà đăm đăm, tim nó nát bét. Đau lắm, bà biết hôn. Xưa nay người ta nói… độc nhứt là lòng dạ đàn bà. Đâu có sai. Thằng Năm Chí chết do bà, ba đứa con chết cũng do bà, còn trách ai, oán ai?
Ổng dùng thứ thanh âm thều thào nhẹ hẫng nhưng lại như kim đâm vào da thịt bà Hai, đau không thể tả. Bà Hai không dám ngẩng đầu, bi ai kêu thảm, không biết là khóc con hay khóc mình. Tiếng mưa vỗ bốn bề đã che dấu tất thảy, ngoài hai người trong sân, không một ai hay biết.
Ông Hai nắm tóc bả giật ngược lên, bắt bả phải nhìn thẳng. Nói như hét.
- Là bà đó! Không bà thì còn ai? Là bà mê tui, bà mê muội thằng bạn thân của chồng chưa cưới, bà giết nó để lấy tui, bà sợ người ta tra ra, nên bà lôi xác một thằng ất ơ nào đó tới, bà cắt nát mặt người ta, bà giả làm tui đó, rồi bà bắt tui lấy hết vàng bạc trốn theo bà, bỏ xứ mà đi. Bà nghĩ lại đi, có sai không?
Tiếng hét thê lương của người đàn bà mất con không át nổi tiếng sấm, Hai Tính lôi vợ ngược vô buồng, đóng chặt cửa rồi quay về chỗ của mình, bỏ mặc bả ướt mèm, vừa khóc vừa cười trong căn phòng tanh tưởi, tối tăm u ám. Chưa đến một khắc sau, bốn bề chỉ còn tiếng mưa đêm mờ mịt.
Mưa vừa ngớt hạt, gà còn chưa gáy sáng, giọng con ở la hoảng chói tai đã dựng hết kẻ ăn người ở trong nhà dậy, nó run đến mức đứng không vững, phải bò tới đập cửa phòng ông Hai, vừa khóc vừa nói ông phải cho người ra huyện mời đốc-tờ về gấp. Rồi nó ngồi bệt xuống đất, ôm mặt nức nở như đưa đám, ai hỏi gì cũng không nói được.
Hai Tính bóp trán, vờ như không hiểu chuyện gì đang xảy ra, ổng đẩy nó qua một bên rồi bước nhanh tới buồng vợ. Ông đứng sững ở cửa, mặt mày xám đen, không vào mà lại quay gót trở ra, đi như bay tới chỗ để xe. Sáu Nên lật đật đốt đuốc chạy theo, hỏi trong hơi khói:
- Ông đi đâu giờ này hở ông?
- Tao lên huyện mời đốc-tờ.
- Sao vậy ông? Sao không mời thầy lang cho gần?
- Không được! Nguy lắm rồi, bà bây đã không xong, bây giờ phải đi gấp, không là không kịp nữa.
Nhà ông Hai Tính loạn suốt nửa ngày nhưng người ngoài không biết đã xảy ra chuyện gì. Sau khi đốc-tờ ra về, mới hay là đêm qua bà Hai sanh xong, thấy con khiếm khuyết, trong lúc xúc động lên cơn điên, bóp mũi đứa con vừa mới lọt lòng cho chết rồi quẳng cho chó gặm, rồi uống thuốc độc tự vận, nằm ngửa trên giường thòng đầu xuống đất, thất khiếu đổ máu đen. Con hầu phát hiện ra chuyện này không biết do đau buồn hay kinh sợ quá độ mà cũng điên điên khùng khùng bị ông Hai thả đi đâu không ai biết.
Bà Hai chết, ông Hai thương xót khôn nguôi, suốt mấy hôm đám ma ôm quan tài khóc một trận linh đình giống như hết muốn sống, chôn cất xong thì đóng cửa không ra, ở mãi trong nhà suốt ba tháng trời, không gặp mặt người ngoài. Ai cũng thương cho số phận hẩm hiu của Hai Tính, đã tang con còn chồng thêm tang vợ.
Trong dân chúng thoáng có lời đồn đoán ông Hai giết vợ hại con, họ chết oan nhất định sẽ tìm báo thù nhưng một khoảng thời gian rất dài trôi qua cũng không có gì khác lạ xảy ra, cộng thêm Hai Tính vung tiền làm phước nhiều nên lời đồn đãi của dân chúng cũng dần dần chìm xuống, cuộc sống lại quay về guồng.
Nhiều người quên đi sợ hãi, ngó thấy Hai Tính trên không cha mẹ, dưới không vợ không con, chỉ có một thân một mình, gia sản lại nhiều nên cũng có ý tác hợp cho con em trong nhà. Bà Hai vừa mất nửa năm, khách khứa đã ra vô nườm nượp. Ông Hai ban đầu còn từ chối, nhưng bà con làm quá, đâm ra ổng cũng chỉ đành ngồi chịu trận chứ không biết phải làm sao.
Sau cùng, qua một năm mãn tang vợ, ổng được mai mối cưới cô Ba Lành, con gái một của ông Chánh Lý trên huyện về làm vợ kế, cổ vừa trẻ, vừa đẹp, gia thế lại cao nên người ta hay đùa ông Hai hốt được hũ vàng. Nghe người ta tiếng xa tiếng gần bĩ bôi mình, ổng chỉ cười buồn, trả lời:
- Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Nhà Hai Tính này nhiều đời độc đinh, không thể để tới đây tuyệt hậu được. Thêm phần tui với cô Ba cũng coi như có duyên nợ nên mới dề dới nhau, thành vợ thành chồng chớ không phải toan tính chi ráo trội. Đừng ai nghĩ bậy bạ. Mất phước hết.
Ổng nói cũng có lí, thành ra không ai dám bàn tán gì nữa. Còn sự thực làm sao, đương nhiên chỉ có người trong nhà biết rõ.
Bình luận
Chưa có bình luận