Sáng hôm ấy, trời Verninstad không nắng cũng chẳng mưa. Lớp sương mỏng phủ lên mái nhà và những tán cây cao dọc đại lộ khiến cả thành phố như chìm trong màn sương buốt lạnh. Tôi đứng trước ngôi nhà mình đã sống mười bảy năm. Bậc thềm đá quen thuộc mà tôi hay vấp ngã mỗi khi lén lút về nhà lúc đêm muộn, khung cửa sổ nơi mẹ Carla vẫn thường ngồi thêu những buổi chiều mùa đông, tất cả đều yên tĩnh đến lạ như thể chính nó cũng đang từ biệt tôi.
Mẹ không tiễn tôi ra sân bay, chỉ ôm tôi thật lâu ngay trước cửa. “Mẹ không giận con điều gì.” Mẹ nói với đôi mắt đỏ hoe. Tôi chỉ cúi đầu không đáp. Tôi sợ mình sẽ không kìm được mà rơi nước mắt trước mặt mẹ. Dù tôi đã làm điều này cả trăm ngàn lần khi còn bé nhưng giờ đây nó lại khiến tôi cảm thấy ngượng ngùng. Tôi không biết vì sao nhưng tôi đã lớn lên với một thứ sĩ diện kỳ quặc. Tôi luôn nhắc nhở mình phải tỏ ra cứng cỏi dù trong lòng chỉ muốn òa lên như một đứa trẻ. Mẹ thì vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt quen thuộc ấy hệt như bà biết rõ bên dưới lớp vỏ nổi loạn kia, tôi chỉ là một thằng nhóc nhút nhát hay thể hiện mình đáng sợ.
Cả thành phố Verninstad như dần trôi sau lớp cửa kính. Những khu phố cũ kỹ, những cây cầu sắt bắc qua dòng sông và cả những góc đường tôi từng trốn học ngồi lì đến tối đều hằn rõ trong trí nhớ của tôi. Tôi không biết điều gì đang chờ mình ở Lindes. Cái tên ấy nghe xa lạ đến bực mình. Tôi chẳng biết nó nằm giữa vùng núi tuyết phủ quanh năm hay sát bên bờ biển sóng xám mịt mù. Tôi cũng không rõ người dân ở đó có nói cùng một ngữ điệu với tôi không, có cười khi chào nhau hay chỉ nhìn nhau bằng ánh mắt hờ hững. Nhưng tôi biết rõ một điều là gia đình trông đợi tôi sẽ thay đổi ở thành phố đó. Không ai nói ra điều ấy nhưng tôi cảm nhận được từ ánh mắt bố, từ cách mẹ khẽ siết tay tôi trước khi rút lại và bước vào nhà. Tôi được gửi đến đất nước khác không phải vì người ta nghĩ tôi có thể thay đổi mà vì họ hy vọng nơi xa lạ ấy có thể dạy cho tôi những điều mà tình thương gia đình gần như đã bất lực.
Bố đã nhắc nhở tôi rằng: “Ở đó đừng cố chứng minh gì cả. Chỉ cần con gắng sống cho ra một con người là được.”
Tôi không biết nên cảm ơn hay trách móc nhưng có lẽ cả hai đều không đúng. Dường như tôi nghe được sự mỏi mệt lẫn hy vọng hệt như bố không còn đòi hỏi gì nơi tôi nữa, chỉ mong tôi đừng tiếp tục trượt dài thêm. Tôi muốn bật lại, muốn hét lên rằng tôi không biết phải làm sao để trở thành người tốt nhưng rồi lại tiếp tục im lặng. Người lớn vốn không cần câu trả lời từ một đứa trẻ rối ren, họ chỉ cần một sự thay đổi.
Tôi nghe loa thông báo rằng máy bay sắp sửa rời khỏi Verninstad và chỉ tầm hai mươi phút tới là sẽ bay vào địa phận của đất nước láng giềng. Bên ngoài, thành phố Verninstad đang dần thu nhỏ lại, những nóc nhà màu xám nhạt và các con đường đan nhau như mạch máu dần trở nên cách xa. Tôi nhìn mãi mà không thể dứt khỏi cảnh tượng đó, giống như một đứa trẻ còn đứng nấn ná trước sân nhà không muốn bước qua ngưỡng cửa.
Phải mất tầm tám tiếng đồng hồ để đến được Arkenhall và thêm mười lăm phút để hạ cánh xuống sân bay thuộc thủ đô Lindes. Thời gian dài trên không làm tôi có nhiều thời gian suy nghĩ nhưng cũng càng khiến nỗi bồn chồn trong lòng ngày một lớn hơn. Tôi không ngủ được trên máy bay. Có lẽ vì những tiếng động cơ gầm lên đều đều hoặc cũng có thể vì đầu óc tôi chẳng chịu yên ổn. Mỗi khi nhắm mắt lại, tôi lại thấy gương mặt mẹ hiện lên với đôi mắt đỏ hoe và vòng tay ôm thật chặt nơi hiên nhà. Điều này với tôi chẳng khác nào một nỗi ám ảnh.
Ánh đèn trong khoang máy bay nhợt nhạt, những người xung quanh hoặc đang ngủ gật, hoặc đeo tai nghe nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi cũng quay đầu nhìn ra ngoài. Không còn thấy gì rõ ràng nữa ngoài một khoảng tối mênh mông và vài ánh sao le lói. Bầu trời của Arkenhall không giống Verninstad. Âm thanh thông báo lại lần nữa vang lên, máy bay rung nhẹ khi bắt đầu hạ độ cao. Tôi bỗng thấy lạnh sống lưng nhưng không phải vì sợ sự thay đổi bất chợt mà vì sợ cái cảm giác bản thân sắp sửa bị thả xuống một thế giới hoàn toàn xa lạ.
Tôi tựa đầu ra ghế, nhắm mắt lại và tự nhủ mình phải làm gì đó. Hoặc ít nhất thì bản thân nên học cách thay đổi ngay bây giờ.
Sân bay Lindes không quá lớn nhưng sạch sẽ và tĩnh lặng đến kỳ lạ, khác hẳn sự ồn ã quen thuộc ở Verninstad. Gã đàn ông đứng cách đó chỉ vài mét, mặc áo khoác dạ màu đen, đeo kính râm dù không còn nắng. Tôi biết đó là người nhà Campbell. Thần thái của những kẻ phục vụ cho đám người quyền lực luôn có một vẻ gì đó rất đặc trưng mà không nhầm lẫn với ai khác được. Tôi dừng lại trước mặt ông ta. Người đàn ông chỉ gật đầu khẽ, giọng nói ngắn gọn và khô khốc. “Ông chủ Campbell yêu cầu tôi đến để đón cậu.”
Tôi khựng lại nửa giây. Danh xưng “ông chủ Campbell” đầy uy quyền vang lên khiến tôi như sực tỉnh. Vì cứ mãi hoài niệm về vùng đất cũ khiến tôi quên béng cả việc bản thân sắp phải sống cùng với một gia đình mà bố tôi luôn cúi đầu mỗi khi gặp mặt. Tôi đi lững thững phía sau vệ sĩ. Ánh nắng ở Lindes nhạt màu, không gay gắt như Verninstad. Trời có vẻ lạnh hơn nhưng cái lạnh ấy lại khô và sạch, không có mùi đất ẩm hay gió biển quen thuộc như nơi mà tôi đã lớn lên cùng. Chiếc sedan đen bóng loáng đỗ gọn gàng ngay cạnh lề đường với cửa sau mở sẵn, tôi nhanh chóng ngồi vào mà không hỏi gì thêm.
Xe chúng tôi lướt qua những con phố sạch sẽ và tĩnh lặng của Lindes, có những ngôi nhà kiểu bán cổ điển nằm khuất sau hàng rào trắng cùng những vườn cây được cắt tỉa cẩn thận. Khu nhà Campbell nằm tách biệt, gần như biệt lập với phần còn lại của thành phố. Khi chiếc xe chạy qua cánh cổng sắt đen cao lớn, tôi thoáng rùng mình. Ngôi nhà chính hiện ra phía sau một hàng cây cổ thụ uy nghi và đầy vẻ áp đặt. Tường sơn màu ngà, mái ngói đá xanh cùng những ô cửa sổ cao vút. Tôi đã từng nghĩ nhà mình là to nhưng nơi này thậm chí còn giống như một khu nghỉ dưỡng. Không có tiếng chó sủa, cũng không có tiếng trẻ con nô đùa chạy nhảy quanh sân, chỉ có tiếng gió xào xạc quét qua đám lá khô cùng tiếng bánh xe nghiến nhẹ lên lối sỏi.
Chiếc xe vừa dừng lại hoàn toàn thì từ phía hành lang dài cạnh khu vườn cũng truyền đến tiếng bước chân nhỏ dồn dập. Người vệ sĩ mở cửa xe cho tôi. Tôi bước xuống, cố giữ vẻ mặt bình thản nhưng lòng thì cứ thắt lại từng nhịp. Tôi chưa kịp bước tới bậc tam cấp thì một nhóm trẻ con đã xuất hiện ở đầu hiên nhà. Có tổng cộng ba đứa, tất cả đều mặc loại áo dệt len cùng màu, trông có vẻ là ba anh em. Đứa nhỏ nhất tầm chín, mười tuổi há hốc miệng nhìn tôi như thể tôi vừa từ hành tinh khác đáp xuống. Nó nghiêng đầu, hai mắt mở to rồi bất ngờ thì thầm gì đó với cô bé bên cạnh, trông có vẻ lớn tuổi hơn nó một chút. Cả hai cùng cười khúc khích khiến đứa còn lại phải khều tay nhắc nhở. Nó là đứa lớn nhất trong bọn, cao ngang tầm tôi, dáng người mảnh khảnh. Nó chỉ đứng đó khều tay lũ trẻ, quan sát tôi một lượt từ trên xuống bằng ánh mắt hiếu kỳ xen lẫn khó chịu. Tôi không quen với những cặp mắt nhỏ tuổi đánh giá mình như thế, càng không quen khi nhận ra mình là người bị đánh giá chứ không phải là kẻ đánh giá người khác như ở trường cũ. Tôi vừa định bước tiếp thì thằng nhóc nhỏ tuổi nhất cất tiếng:
“Tên gì?”
Tôi thoáng khựng lại. Trong một khoảnh khắc, tôi còn tưởng như mình nghe nhầm. Thằng nhóc hỏi tên tôi bằng tiếng Trieley[1], loại ngôn ngữ phổ thông được phát triển như một công cụ ngoại giao và thương mại giữa các quốc gia vùng Aureax. Tôi không ngạc nhiên vì hiểu được bởi thứ tiếng ấy đã được dạy ở trường từ năm tôi mười tuổi. Những đứa trẻ như chúng tôi buộc phải sử dụng nó khi viết thư tay cho giáo viên người nước ngoài hay đọc tài liệu kinh tế từ các nước láng giềng. Nhưng điều khiến tôi chững lại là cách thằng nhóc dùng nó với tôi.
Tôi nhìn chằm chằm vào nó, hơi nheo mắt lại theo phản xạ, không rõ là vì tức giận hay chỉ vì bối rối. Ở Verninstad, trẻ con không hỏi người lạ theo kiểu trống không, bất kỳ đứa trẻ nào nói kiểu đó với tôi chắc chắn sẽ ăn ngay một cái tát, không thì ít nhất cũng bị kéo tai. Nhưng ở đây, giữa căn biệt thự lạ hoắc, trong cái sân gạch lát phẳng lì và những tán bách dày đặc bao quanh, tôi chỉ có thể im lặng nuốt cú sốc đó vào lòng.
Thằng nhóc vẫn nhìn tôi, không có vẻ gì là ngại ngùng hay hối lỗi. Nó nghiêng đầu hệt như đang đánh giá phản ứng của tôi xem có đáng để nó cười tiếp không.
“Henry,” Tôi đáp lại cộc lốc. Và tất nhiên là cũng chẳng thèm nhìn mặt nó.
Thằng nhóc lặp lại tên tôi một cách chậm rãi, kéo dài chữ “r” cuối cùng như đang thử cảm giác vị âm nơi đầu lưỡi. Rồi nó gật gù, chẳng thèm nói thêm lời nào, cứ thế quay người chạy vụt đi.
Hai đứa còn lại vẫn chưa rời mắt khỏi tôi. Đứa lớn nhất tầm tuổi tôi khoanh tay dựa hờ vào trụ hành lang, khóe môi nhếch nhẹ như đang khinh bỉ. Trông mặt nó lúc này chẳng khác nào ngầm nói với tôi rằng: “Chào mừng đến nơi mà mày chẳng là cái đinh gì cả.” Tôi cắn chặt răng tức giận, không phải vì lòng tự trọng vừa bị chạm đáy, cũng chẳng phải vì sĩ diện, mà vì tôi có cảm giác như cái thứ bản năng trần trụi nhất của một thằng con trai luôn sống giữa ánh mắt kiêng dè của người khác đang dần mai một.
Ở Verninstad, dù tôi có là đứa phá phách đến đâu thì cái tên Henry vẫn luôn khiến người ta phải dè chừng. Nhưng cái nhìn của nó như dội thẳng một gáo nước lạnh vào mặt tôi, nhắc tôi nhớ rằng mọi thứ tôi từng có ở quê nhà sẽ không còn giá trị gì ở Lindes. Tôi tự nhủ mình không được để lộ ra chút dao động nào nhưng lạ thay lồng ngực vẫn nhoi nhói một cách lạ lùng. Có lẽ vì tôi biết nó khinh bỉ đúng. Tôi thật sự chẳng là cái đinh gì cả.
[1] Trieley: Ngôn ngữ dùng chung cho các quốc gia vùng Aureax - khu vực hành chính với 20 quốc gia thành viên, bao gồm Valdoria và Arkenhall.
Bình luận
Chưa có bình luận