CHƯƠNG 2. MỘNG TƯỞNG - XÓM VŨNG NĂM 2028



Chứng kiến những mảnh đời vật vờ, khổ đau, thừa thãi ở xóm nghèo nơi tôi sinh ra và lớn lên như thế, điều tôi đau đáu khôn nguôi, ước mong mãnh liệt đó là sự “đổi đời”, là giấc mơ về những cuộc đời khấm khá và tốt đẹp hơn.

I. ANH TUẤT - SỰ THỨC TỈNH KỊP THỜI


Đứa con gái đầu của anh Tuất vừa đạt giải Nhất trong kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ Văn. Một tin chấn động chưa từng có xưa nay ở vùng quê nghèo ấy. Vì lớp lớp những đứa trẻ lớn lên đa phần đều bỏ học giữa chừng, hoặc chỉ đi học nửa vời, chẳng đứa nào chịu tiếp nhận kiến thức một cách tử tế cả. 

Ấy thế mà, một đứa nhỏ 15 tuổi, sống trong gia đình nghèo khổ và bị bó hẹp bởi tư tưởng cổ hủ, có một người bố nghiện rượu và bạo lực như vậy, lại có thể lội ngược dòng và trở thành tấm gương sáng chưa từng thấy trong học tập như vậy. 

Làng trên xóm dưới ca tụng, truyền tai nhau: “Nhà ông Tuất có đứa con thần đồng, học giỏi lắm, thi huyện thi tỉnh cơ mà…”, “Cái thằng cha Tuất nghiện rượu đó mà đẻ được đứa con gái giỏi thế cơ à?”... 

Bất đắc dĩ và bất thình lình, người bố vô trách nhiệm ấy lại có được đứa con gái làm mình vẻ vang, có thể ưỡn ngực tự hào.

Đêm nghe tin con đạt giải cao ấy, nghe bà con lối xóm khen không ngớt, anh Tuất không uống rượu nữa. Anh ta ăn mặc chỉnh tề, đi từng nhà trong xóm để khoe, kể con gái tôi được giải Nhất đấy với cái giọng tự hào, hạnh phúc lắm. 

Cũng kể từ ngày hôm ấy, người ta không còn thấy anh Tuất lướt khướt nữa, mấy quán rượu bán quen cho anh ta cũng mất đi một vị khách ruột. 

Anh Tuất bắt đầu đi làm, anh ta nhận thầu xây nhà xung quanh xóm, anh ta bắt đầu chăm chỉ hẳn lên. 

Ồ! Hoá ra, sức mạnh của tri thức và sự nỗ lực từ một đứa nhóc có thể làm thay đổi cả một đời người. Buổi sáng, anh ta chở con đi học, buổi chiều chờ đón con về. Anh ta làm lụng chăm chỉ, tích góp tiền mua đồ ăn thức uống, đóng học, mua sách vở cho con. Một gia đình êm ấm trở lại, anh ta cũng chẳng đòi đẻ thêm con trai nữa. Anh ta tự hào đi khoe khắp nơi: “Con gái mà học giỏi, thành tài, còn hơn vạn đứa con trai.” 

Từ ngày thôi uống rượu, anh Tuất không còn ngồi lê với mấy gã thất bại, nghiện rượu và chuyên khích bác trong xóm nữa. Mấy lời khó nghe cũng chẳng còn văng vẳng bên tai. Anh ta chỉ tập trung vào con cái và làm lụng. 

Ngừng uống rượu, anh ta thức tỉnh hẳn rồi. Sức mạnh tri thức mà đứa con gái anh ta đem lại đã gọi anh đứng dậy, thoát khỏi bùn nhơ của cái xóm nghèo cổ hủ ấy.

II. NIỀM HẠNH PHÚC CỦA CHỊ MÙI


Chị Mùi chính là vợ anh Tuất. Và hẳn rồi, khi anh Tuất đã thức tỉnh, chị Mùi cũng thoát khỏi cuộc sống khổ sở vì tên chồng tệ bạc. Chị cũng hạnh phúc, tự hào vì đứa con gái của mình nhiều lắm.

Chị không còn phải khóc vì bị người ta cướp lúa trừ nợ cho chồng nữa. Sau hơn 17 năm lấy chồng, lần đầu tiên, chị được cầm những đồng tiền chồng cho, lần đầu tiên, chị thấy chồng chị cho con tiền đóng học và sắm sang ở trong nhà.

Gương mặt chị toát lên nét hạnh phúc và tươi sáng vô cùng. Những bữa tối trước kia là tiếng cãi vã, giờ đây thay vào đó là tiếng nói cười vui vẻ của một gia đình 5 người hạnh phúc.

Chị Mùi không còn phải một mình gồng gánh tài chính nuôi con nữa. Chị Mùi không còn phải một mình đèo thùng hàng to gấp rưỡi người, chạy nhong nhong ngoài đường trưa hè nắng gắt hay những ngày đông buốt cắt da cắt thịt nữa. Giờ chị đi chợ nhàn tênh, chồng chị là người chịu trách nhiệm đèo mấy thùng hàng, chị chỉ cần ngồi ở chợ bán. Con gái của chị đã dành dụm tiền thưởng đạt được trong những cuộc thi các cấp mua cho chị một chiếc điện thoại thông minh, quay chụp ảnh được, lên mạng được. Rồi nó hướng dẫn chị đăng bán tôm cá trên Facebook, nhiều người biết đến hơn, buôn bán cũng khấm khá hơn.

Người ta thấy chị cười nhiều hơn, không còn cau có, khó tính như xưa. Chị bán hàng xởi lởi hơn, với người già, chị toàn cho thêm con cá, con tôm.

Sự hạnh phúc khiến người ta tốt bụng và hiền hậu hơn. Bởi lúc khổ cực, người ta chỉ đủ và chỉ kịp nghĩ cho bản thân mình, chỗ đâu dành tình thương cho những người khác.

Chị Mùi đã có thêm thời gian chăm sóc bản thân, những hôm mùa đông lạnh buốt, chị đã có thể ra tiệm gội đầu thay vì tự chổng mông, dội nước, vừa gội vừa rét run ở cái nhà tắm chẳng có mái che. Những đứa con của chị cũng hạnh phúc theo, chúng không còn lo sợ và ám ảnh bởi những trận cãi vã, đánh đập nhau của bố mẹ nữa. Một gia đình hoà thuận là tiền đề, cội rễ vững chắc tiếp sức mạnh và sự tự tin cho con cái. Dáng vẻ hạnh phúc bắt nguồn từ một gia đình êm ấm là thứ mà chẳng bão giông hay thế lực nào có thể đạp đổ.


III. LÃO BÁCH VÀ NGÔI NHÀ TÌNH THƯƠNG


Mùa đông năm 2024, nhà nước có chính sách xây dựng ngôi nhà tình thương cho những người không nơi nương tựa ở các xóm nghèo. Xóm Vũng được chọn làm nơi xây dựng ngôi nhà tình thương đầu tiên vì đó là vùng có nhiều hộ nghèo và nhiều đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nhất. Ngôi nhà tình thương ấy đã được khánh thành và xây dựng hoàn tất vào mùa hè năm 2025, nằm bên cạnh nhà văn hoá thôn và khu ruộng đồng. Ngôi nhà tình thương có 20 phòng, mỗi phòng có 4 giường tầng, xây dựng theo dạng ký túc xá, là nơi các cụ già đơn độc, những người lang thang, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không nơi nương tựa có thể đến ở. 

Mỗi giường, mỗi phòng đều được trang bị đầy đủ chăn gối, quạt, đồ dùng cơ bản. Và cứ cách độ 2-3 ngày sẽ có người đến dọn dẹp vệ sinh sạch sẽ. Ở đây, còn có người phụ bếp, nấu các bữa ăn miễn phí mỗi ngày cho những ông cụ, bà lão có hoàn cảnh tội nghiệp này.

Lão Bách đã được chính quyền mời về đó ở, lão đã có một ngôi nhà chung sau bao nhiêu năm lang thang nay đây mai đó, ngủ với sương, nằm với gió. Lão ở cùng phòng với 3 ông cụ già ở xã trên, có người bầu bạn.

Những đợt hè đến, đội sinh viên ở thủ đô cũng về ngôi nhà tình thương tổ chức các chương trình văn hoá, bầu bạn cùng mấy cụ già. Có một đợt, hội tình nguyện viên tổ chức chương trình “Lời chưa kể”, dưới ánh lửa trại bập bùng, những lời chưa kể của các cụ được bộc bạch. Cụ Bách cũng đủ bình thản để kể lại câu chuyện về di chứng cái chân tật của lão. À, thì ra, cái chân ấy là tàn tích của chiến tranh để lại, là sự hi sinh cho độc lập của đất nước ngày nay. Lão kể đợt đó bị đạn bắn vào chân, nhiễm trùng, liệt bàn chân, nên lão đi cà nhắc. Cũng may, không mất hẳn cái chân và không chết. Rồi ánh mắt lão vừa đượm buồn vừa tự hào kể về thời kỳ chiến đấu. Thanh niên tình nguyện viên ngồi nghe say sưa, mấy người quanh xóm cũng rủ nhau đến nghe kể chuyện.

Cứ thế, ngày qua ngày, những nụ cười hằn nếp nhăn trên mặt mấy cụ già ở ngôi nhà tình thương xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Các cụ cất tiếng hát, các cụ cùng trồng rau, nuôi gà ở trang trại nhỏ trước ngôi nhà tình thương. Lúc rảnh rỗi, các cụ tổ chức dọn dẹp vệ sinh làng xã. Rồi vào mấy vụ lúa, người trong xóm hay đem thóc ra sân làng văn hoá phơi, các cụ giúp người ta sũn lúa, gạt lúa, chạy lúa mỗi khi cơn mưa rào ập tới.

Buổi tối, mấy cụ hay tập trung ra sân nhà ngồi, đan lát mấy cái rổ tre, chậu nứa phát cho bà con xung quanh. Lớp trung niên trong xóm, có con mọn cháu thơ, lúc bận bịu đều đem ra nhờ các cụ trông nom. Các cụ thích lắm, cứ có tiếng trẻ con là vui cửa vui nhà. Một ngôi nhà tình thương xuất hiện không chỉ là nơi che mưa, che nắng cho những mảnh đời cô quạnh, mà còn là nơi gắn kết tình thương yêu giữa người với người, giữa hàng xóm láng giềng, giữa nhiều thế hệ với nhau. 

Nghe đâu, đến năm 2038, ở Hoằng Hoá đã có hơn 20 ngôi nhà tình thương được xây dựng rồi. Và trong tương lai, thay cho những dự án nghìn tỷ, chọc trời, thô ráp, hiện đại, sang trọng ở các thủ đô, thành phố lớn; những ngôi nhà tình thương không quá xa hoa, tráng lệ, chỉ vừa đủ gói ghém tình thương ở những vùng quê yên bình sẽ ngày càng được dựng xây nhiều hơn nữa. Và sẽ chẳng còn những người già lang thang như lão Bách nữa. 


IV. BÀ KHÁI - HẾT ĐIÊN RỒI 


Ở mấy vùng quê nghèo, trạm xá thường tạm bợ, giường bệnh đâu đó được cỡ vài cái, một gian thuốc sơ sài, trang thiết bị khám bệnh chẳng đủ đầy. 

Người ta ra trạm xá cũng chỉ khám và khâu vá được những vết thương da thịt, chẳng ai biết đến cái gọi là “thăm khám thần kinh, tâm thần” cả. 

Mùa hè năm 2024, trạm y tế xã Hoằng Phong, nằm ở rìa xóm Vũng có một đội bác sĩ tâm lý về. Hỏi ra mới biết, Bộ Y tế đang đẩy mạnh việc điều trị, chăm lo cho sức khỏe tinh thần của người dân, đặc biệt đào tạo một lớp bác sĩ tâm lý số lượng lớn, khởi đầu là việc quan tâm và điều trị cho người dân ở những vùng quê nghèo trước. Và xóm Vũng, xã Hoằng Phong là nơi được lựa chọn phát triển dự án đầu tiên. 

Từ ngày đội y bác sĩ mới về, trạm xá như có hồn trở lại. Hầu hết đội y bác sĩ đều là người khá trẻ, chỉ có đôi ba người lớn tuổi có thâm niên về chỉ đạo và hỗ trợ chủ chốt. Các cô các cậu ấy bắt đầu dọn dẹp, trang trí, tu sửa trạm xá. Trước kia, trạm xá vắng tanh, lạnh ngắt với gam màu mà nếu nhìn vào ban đêm, người ta sẽ cảm thấy ớn lạnh và sởn gai ốc. Thế nhưng, giờ đây, một luồng sinh khí mới đã về. 

Lối vào trạm xá, có hai hàng hoa hướng dương đã trổ bông tươi tắn, nhìn kỹ, chúng như đang nhoẻn miệng cười. Mỗi dịp lễ tết, trạm xá cũng được trang trí tỉ mỉ, giáng sinh sẽ có cây thông Noel lắp đèn sáng lấp lánh, Tết đến, trước cửa phòng khám sẽ có một chậu đào tươi tắn khoe sắc. 

Và bà Khái trở thành bệnh nhân đầu tiên được đội ngũ y bác sĩ ấy điều trị tâm thần. Cuộc điều trị diễn ra trong vòng 2 năm, từ mùa xuân năm 2024 đến mùa xuân năm 2026. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, bà Khái đã hết điên rồi!

Từ một mụ nửa điên nửa tỉnh vì tình, bà Khái đã tỉnh hẳn, bà ta trở thành một người mẹ, một người phụ nữ bình thường.

Trong lúc bà Khái được triều trị, đứa con của bà cũng được chính quyền quan tâm, tạo điều kiện cho đi học và ở cùng ngôi nhà tình thương với mấy ông bà cụ. Nó được đào tạo nghề làm bếp và được hỗ trợ xin việc làm thêm ở khu nhà ăn bệnh viện huyện. Thỉnh thoảng, ngày nghỉ, nó cũng thường lui tới ngôi nhà tình thương trong xóm để nấu ăn cho các cụ già.

Ngày bà Khái khỏi hẳn và trở về nhà, bà được con nấu một bữa ăn thịnh soạn, đó cũng là những món ăn ngon nhất mà bà từng được thử trong cuộc đời mình. Cứ thế, hai mẹ con có cuộc sống khấm khá hơn. Bà Khái tiếp tục làm ruộng, đi gặt, đi cấy thuê, ai có việc cũng gọi bà làm. Đứa con vẫn làm việc ở khu bếp bệnh viện, ngày nghỉ phụ giúp mẹ làm vườn, nấu nướng. Đợt vừa rồi, nó tham dự cuộc thi nấu ăn ỏ huyện và giành giải Nhì. Kỳ diệu biết bao nhiêu! Từ một người đàn bà điên, từ một đứa trẻ lêu lổng, nay đã có nghề nghiệp. Khi được cả xã hội và nhà nước quan tâm tường tận, thì dù cuộc đời khốn khó đến bao nhiêu vẫn có thể trở nên tươi sáng!

V. CỬA TIỆM TẠP HÓA LEN CỦA CON CÒNG CUA VÀ BÀ CỤ


Con Còng Cua đã về ở hẳn với bà cụ già sống trong căn nhà nhỏ cuối xóm Vũng. Người ta không còn thấy nó đi lang thang nữa. Nó cũng nhuần tính hơn, không còn sửng cồ ném gạch, ném đá, dọa nạt người khác. 

Hỏi ra mới biết, đợt đầu nó ngủ ở mái hiên nhà bà cụ nhiều, bà thấy thương, gọi nó vào nhà ngủ cùng, rồi bữa bữa hai bà cháu ăn cơm chung. Mỗi đêm trước khi ngủ, bà cụ lại kể cho nó nghe một câu chuyện từ hồi còn xa xưa. Bà kể truyện cổ tích, truyện dân gian và kể về cuộc đời của bà. Những câu chuyện nhỏ trong căn nhà bé xíu xiu chính là sợi dây gắn kết những trái tim xa lạ và trở thành sức mạnh “hiền hoá” tính cách của một đứa trẻ lang thang, không nơi nương tựa. Con Còng cua lớn xác lắm rồi, nó cũng đã ngót 30 tuổi rồi nhưng tâm hồn vẫn chỉ là một đứa trẻ bơ vơ, chưa từng được giáo dưỡng tử tế.

Mưa dầm thấm lâu, ngày này qua ngày khác, bà cụ đã cảm hoá được nó. Bà cụ dạy nó từ những điều nhỏ tí như nhặt mớ rau, rửa cái bát, nhóm cái bếp củi. Bà dạy nó cách nói năng với mọi người, cách đi đứng làm sao cho ra dáng con gái. Bà chải chuốt, gội đầu cho nó, bà sắm sang quần áo mới cho nó. Và con Còng Cua đã trở lại thành thiếu nữ xinh đẹp, dịu hiền, sống cùng bà cụ cũng đã 10 năm rồi.

Nó chăm chỉ hơn, tử tế hơn, nền nã hơn. Sáng sáng nó dậy sớm phụ bà dọn dẹp hàng hoá ra bán, đến bữa cùng bà nấu cơm. Con Còng Cua cũng khéo tay lắm, nó đã đan tặng bà chiếc áo len gile màu xám vào mùa đông đầu tiên về ở hẳn cùng bà. Xung quanh xóm ai thấy cũng khen cái áo đẹp, khen nó khéo tay. Thế là, người ta bắt đầu đặt nó đan áo, đan mũ, đan khăn. Nó bắt đầu tập thành đan lát nhiều hơn, sáng tạo thêm nhiều mẫu mã khác biệt. Nó bày bán những chiếc áo len đủ sắc màu, kích cỡ, những chiếc mũ đa dạng kiểu cách ở hiên nhà cùng với mớ rau, mớ bánh của bà cụ. Rồi nó tự chế thêm mấy cái móc gỗ treo tường, tủ kệ để bày len. Nó trồng thêm mấy cái cây trước hiên nhà. Chà! Nom cửa tiệm tạp hoá nhỏ nhỏ ấy, người ta lại luyến lưu và nhớ nhung về thời xưa cũ, hoài niệm đến lạ thường. Nhất là vào độ đông sang, gió bấc lạnh buốt, đứng trước cửa tiệm tạp hoá len của con Còng Cua và bà cụ, ai cũng phải dừng chân lặng nhìn mấy cuộn len cuộn tròn trong từng hốc tủ. Nhất là vào buổi chiều muộn, khi khói bếp của bà cụ vương lên mái ngói, tiếng loa phát thanh bật lên “Đây là đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội thủ đô nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam…” một cảm giác vừa man mác buồn vừa yên bình len lỏi trái tim mỗi người. Ở thời công nghệ hiện đại, một mái nhà nhỏ cổ xưa, nơi những trái tim yêu thương chân thành bao bọc lấy nhau ấy chính là kỷ vật vô giá, chiến thắng mọi “định luật băng hoại của thời gian” (mượn lời của nhà văn Xantưkôp Sêđrin). 

Cửa tiệm tạp hoá len của con Còng Cua và bà cụ nổi lắm, có một dạo báo chí còn đưa tin về bà cháu nó. Người ta đưa tin ca tụng tình yêu thương và viết về sự thay đổi cuộc đời tưởng chừng không thể của con Còng Cua. Một nhà báo đã lặn lội từ Sài Gòn về thăm cửa tiệm tạp hoá ấy để phỏng vấn con Còng Cua. Hôm ấy, cuộc phỏng vấn diễn ra vào buổi sáng đầu đông, câu hỏi của nhà báo đặt ra: Cô có dự định gì cho tương lai phía trước? 

Nó nhìn và cụ trong chiếc áo len mà nó đan tặng và những chiếc mũ len đang lung lay trước gió rồi đáp: “Bên cạnh bà và bán những chiếc mũ, chiếc áo len mà tôi đan.”

Bài báo đăng lên và nhận được sự quan tâm của độc giả. Có một mạnh thường quân trên huyện đã biết đến và giúp đỡ, ông giúp con Còng Cua đăng những chiếc mũ, áo, bao tay, tất len lên các trang mạng xã hội để bán. Thế là, rất nhiều đơn đặt hàng đổ về. Giờ đây, nó đã có thể mua nhiều món ngon, may cho bà bộ áo dài lụa, và trong bữa cơm ngày Tết có nồi thịt nấu đông toàn thịt, ít mộc nhĩ và hành rồi! 

Tình thương yêu chính là sức mạnh có khả năng cảm hoá con người. Giữa xã hội nhiều sự lợi dụng, đố kị như hiện nay, thứ tình thương chân thành của bà cụ và con Còng Cua lại càng đáng trân trọng.


VI. TIỆM MAY NHỎ CỦA CÁI LAN


Trong xóm có tiệm may nhỏ, tên là Tiệm may của Lan. Chà! Cái Lan đã làm cô chủ nhỏ rồi đấy. Nó đã học được một cái nghề thật rồi. Nghe đâu, năm 2020 có công ty may mặc về trên huyện hoạt động. Bên cạnh việc tuyển dụng nhân sự làm việc, công ty đó còn mở lớp đào tạo tay nghề may mặc, học phí rẻ lắm. Cái Lan bàn bạc với chồng, rồi nó đăng ký đi học, thế là sau 2 năm, nó có tay nghề. 

Cửa tiệm may nhỏ của nó chẳng cầu kỳ, sang trọng, hiện đại gì khất. Nhưng quanh xóm Vũng và cả mấy xóm lân cận có cái áo rách, cái quần bị giãn chun đều đem tới đó. Thế mà, lượng khách ổn ra phết. Nó bảo may tàng tàng vậy mà đủ tiền ăn cho con nó cả tháng đấy.

Con nó cũng lớn cả rồi, đều đã vào cấp 1, cấp 2 hết. Từ đợt năm 2020, đã có các đội tuyên truyền và hướng dẫn kế hoạch hoá gia đình, vợ chồng cái Lan cũng được làm tư tưởng, nên không đẻ sòn sòn nữa.

Buổi sáng, cho con cái đi học xong, nó ngồi may, cắt vải, đo đạc… Nhìn dáng vẻ nó ngồi chăm chú, cái chân thoăn thoắt đạp bàn đạp may, cái tay liên tục tì vào vải… mới say mê và chuyên tâm làm sao. Nó cũng đã biết chăm chút hơn cho bản thân. Nó tự may quần áo cho nó, cho con cái, cho chồng. Gu thời trang ăn mặc của nó trẻ trung hẳn ra, không ai dám bảo phong cách của nó lạc hậu như 50 năm về trước nữa.

Cái Lan khéo tay lắm. Nó tự cắt, tự vẽ, tự làm ra mấy mẫu mã quần áo cho đông hè, gái trai, già trẻ đủ cả. Người ta không chỉ đến may sửa đồ mà còn mua đồ của nó may sẵn nữa.

Mùa đông, cái Lan hay may áo len sợi to, cổ lọ đem đi tặng mấy người già trong xóm và mấy ông bà cụ ở ngôi nhà tình thương.

Khi người ta biết bản thân nên làm gì và có gì đó ý nghĩa để làm, cuộc đời cũng theo đó mà thay đổi theo hướng tích cực hơn.


VII. CÁI BỐNG - TRỞ LẠI LÀNG


Cái Bống đã có bằng thạc sĩ, nó không chọn ở lại thành phố xa hoa mà về lại xóm mở lớp sáng tác văn học cho trẻ con - một lớp học miễn phí đầy ắp tình thương và mong ước đem giá trị tri thức reo vào thế hệ thiếu nhi ở vùng quê nghèo.

Cái Bống vào Sài Gòn đi làm được 3 năm, rồi nó quyết tâm tự làm thủ tục, hồ sơ thi vào một trường trung học phổ thông trong đó. Ban ngày nó đi học, buổi tối và cuối tuần nó tranh thủ làm thêm kiếm tiền trang trải cuộc sống. Giờ học trên lớp, nó chưa từng dám sao nhãng 1 giây phút nào. Giờ ra chơi, nó tranh thủ tự học thêm, đọc sách, tìm thêm tài liệu tham khảo. Trong lúc đi làm thêm, nó luôn lẩm bẩm ghi nhớ kiến thức. Sáng dậy từ 4-5 giờ để tranh thủ học và soạn bài vở trước.

Kết thúc 3 năm trung học phổ thông, nó thi vào Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, chuyên ngành Văn học. Nó đạt thủ khoa đầu vào và trong suốt 4 năm đại học, nó luôn giữ thành tích cao, giành học bổng, thế nên, chẳng mất một đồng học phí nào cả.

Năm 2028, nó tốt nghiệp và xin được việc làm ở một trung tâm dạy sáng tác văn học tại quận Gò Vấp. Nó tiếp tục vừa học thạc sĩ, vừa đi làm thêm 2 năm. Sau đó, miệt mài viết lách tự to, sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết, đăng tải lên các trang mạng xã hội trong 3 năm, nhận được lượng độc giả hâm mộ tương đối lớn. Và rồi nó được nhà xuất bản liên hệ mua bản quyền những tác phẩm ấy. Nhà xuất bản còn đề nghị ký hợp đồng làm việc lâu dài với nó cho đến khi nó muốn kết thúc. Nó đồng ý và trở thành nhà văn ruột của nhà xuất bản với mức nhuận bút và quyền lợi khá khẩm.


Chẳng ai ngờ được, một đứa trẻ bị bố ép bỏ học khi đang là học sinh lớp 9, ở một vùng quê nghèo, một thân một mình lên thành phố bươn chải, sau đằng đẵng hơn 10 năm trời, lại có được tấm bằng thạc sĩ trên tay và trở thành một nhà văn nổi tiếng đến vậy. Sự quyết tâm, niềm tin vào sức mạnh của tri thức chính là nguồn năng lượng giúp cái Bống tự thay đổi cuộc đời của mình. Và đúng! Khi rơi vào hố sâu cùng cực, trong những khoảnh khắc tăm tối nhất của cuộc đời, chính bản thân ta là người duy nhất có thể tự kéo ta ra khỏi vực thẳm. Không có ai ở đó, không có ai hỗ trợ, chống đỡ, thì chính bản thân ta trở thành người đó.

Cái Lan đã quyết định trở về xóm Vũng vì nó có thể làm cộng sự với nhà xuất bản bằng hình thức online - có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu. Bên cạnh công việc sáng tác, nó mở một lớp học dạy sáng tác văn học miễn phí dành cho tất cả trẻ em trong xóm Vũng. Lớp học được dựng dưới gốc cây Bơ. Đó cũng chính là gốc cây mà nó và bà nội cùng trồng trước khi nó phải nghỉ học và vào Sài Gòn. Bà nội đã từng nói với nó: “Mong cây Bơ sẽ sống và ra thật nhiều quả, dù đất ở mình không hợp để cho cây Bơ phát triển.”

Cho tới giờ, cây Bơ ấy đã xanh tốt, cao vút và tới mùa, quả sum suê chi chít dù được trồng trên nền đất chẳng mấy phì nhiêu. Và cái Bống cũng đã vững vàng trưởng thành, theo đuổi con đường tri thức và trổ ra những thành tựu lớn lao, dù nó sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo và trong một gia đình cổ hủ như vậy. 

Lớp học dưới gốc cây Bơ ngày ngày ngân vang lời giảng của cái Bống. Tối nào bà nó cũng bắc cái chõng tre ra ngồi nghe nó giảng cùng mấy đứa con nít trong xóm. Lớp học được dựng bằng thanh tre vách nứa, trong lớp có một chiếc bảng đen, một chiếc tủ sách và mấy cái bàn gỗ với băng ghế dài. Nó muốn xây dựng một lớp học trông cổ xưa, hoài niệm, dễ tạo cảm hứng sáng tác hơn cho lũ trẻ. 

Dưới gốc cây Bơ ấy, ngày ngày cái Bống say sưa giảng, lũ trẻ con cũng thích thú, chăm chú lắng nghe. Cái Bống dạy về giá trị mà tri thức và sách vở đem lại, cái Bống kể về cuộc đời và những gì nó trải qua.

Những ánh nắng rọi chiếu qua thanh tre, ghé vào trong lớp học, cũng đang say sưa nghe cái Bống kể. Đó không chỉ là lớp học văn, đó còn là lớp học giangr dạy lũ trẻ con cách làm người tử tế, dạy lũ trẻ con ở một xóm nghèo về sức mạnh của tri thức, thắp sáng ước mơ, hoài bão, niềm tin cho lũ trẻ tiến bước trên con đường đến với tri thức.

Nhiều báo đài đưa tin về cái Bống và lớp học của nó lắm. Câu chuyện của cái Bống và lớp học dưới gốc cây Bơ đã truyền động lực cho rất nhiều người, nhiều thế hệ, nhiều nhà giáo… và trở thành một hiện tượng mạng năm 2038. 


VIII. CON CỦA ANH ĐỒNG


Sau ngày anh Đồng mất, bà con lối xóm thương tình hai bà cháu, ngày nào cũng có người ghé thăm, an ủi và giúp mẹ anh vơi đi nỗi buồn. Mấy người trong xóm lúc rảnh rỗi cũng nhận trông đứa nhỏ để bà nó làm ít ruộng vườn, kiếm cọng rau, con cá.

Năm 2020, hai bà cháu được chương trình “Cặp lá yêu thương” tìm đến và hỗ trợ. Họ trao tặng phần những phần quà ý nghĩa - sửa sang lại mái ấm và mua tặng hai bà cháu một cặp bò làm kế sinh nhai. Có một mạnh thường quân đã nhận nuôi con anh Đồng cho đến năm cháu 18 tuổi. Vậy là đứa nhỏ mồ côi cha và bị mẹ ruồng bỏ ấy vẫn được cắp sách tới trường. Hai bà cháu nương tựa vào nhau, sống cuộc đời bình dị ở vùng quê nghèo, trái tim đau xé lòng ngày con trai mất của bà cụ cũng đã dần được chữa lành bởi tình thương yêu và đùm bọc của hàng xóm láng giềng.

Những tưởng rằng sau khi anh Đồng mất, con của anh nay mai sẽ rơi vào cảnh lang thang, cô độc một mình. Nhưng ông trời vẫn còn thương người lắm! Và những người tốt thì vẫn luôn bên cạnh, sẵn sàng đưa bàn tay ra, dìu dắt những cuộc đời khổ cực.

Người trong xóm kể lại, con anh Đồng chăm ngoan, lễ phép lắm. Ngoài giờ học, nó còn đỡ đần bà nội việc nhà. Và chắc chắn rằng, đứa nhỏ dù thiếu vắng tình thương yêu và sự dưỡng dục của cha mẹ nhưng lại được lớn lên trong sự đùm bọc của những người tốt, chắc chắn sau này cũng sẽ trở thành một người tử tế.


IX. THẰNG TỚI VÀ BÀ NGOẠI


Mùa hè năm 2023, thằng Tới được ra tù. Nó chạy về nhà bà ngoại, bỗng dưng ôm bà khóc thút thít, nó khóc tu tu như một đứa trẻ con bị cướp mất kẹo. Rồi bà nó cũng khóc, hai bà cháu ôm nhau khóc. Bà nó bảo:”Thôi về với bà, có rau ăn rau, có cá ăn cá, chịu khó làm ăn tử tế, rồi cuộc đời sẽ khác cháu ạ…”

Vậy mà sau 5 năm ở tù, sau thời gian dài được giáo dưỡng, nó đã nhuần tính hơn và quyết tâm thay đổi cuộc đời.

Nó bắt đầu tự chặt tre, chẻ gỗ sửa sang lại ngôi nhà dột nóc của hai bà cháu. Nó làm vườn, làm ruộng. Người ta thấy nó khác hẳn, nên ai cũng sẵn sàng giúp đỡ. Nó vay được vốn mua đàn vịt, đàn gà về chăn nuôi rồi đem trứng đi bán. 

Sáng sáng dậy sớm tưới rau, nhổ cỏ. Chiều chiều đem rau, đem trứng ra chợ bán. Kể từ lúc nó về, bà nó cười nhiều hơn hẳn, không còn dáng dấp cô đơn, lủi thủi một mình, không còn phải khom lưng hái rau, dọn cỏ ngày nắng cũng như ngày mưa ngoài ruộng nữa. 

Mùa hè năm 2024, trại hè ở xã tổ chức cuộc thi “Bóng lưng của ông bà” - cuộc thi nhằm nhắc nhở những đứa trẻ về sự biết ơn và yêu thương ông bà nhiều hơn, thằng Tới gửi bức ảnh nó chụp trộm bà dự thi. Thế mà thắng giải Nhất. Bức ảnh nó chụp bà ngồi trên chiếc ghế tre bên cạnh bếp lửa vào lúc chập choạng tối, màu tóc của bà và màu khói lẫn vào nhau, dáng người khom lại sau một đời dài gánh con gánh cháu… Bức ảnh đó cũng chính là khơi nguồn cho ước mơ làm nhiếp ảnh gia của thằng Tới. 

Nó bắt đầu tự quay chụp lại cuộc sống thường nhật cùng bà, nó học làm Youtube, kênh Youtube của nó là: “Những tháng năm bên bà”.

Ghé thăm kênh của nó, người ta tìm lại được sự bình yên, xoa dịu trái tim. Những hình ảnh, thước phim quen thuộc mà hoài cổ: gác bếp, kho củi, chiếc kiềng ba chân, những làn khói, chiếc chum nước đất nung, cái cuốc, cái xẻng, cái vấn tóc của bà… Kênh Youtube của thằng Tới như một kho lưu giữ những kỷ niệm có lẽ là đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của nó. Thế rồi, nó được biết đến nhiều hơn. Báo đài cũng đưa tin về nó, người ta đưa tin về cuộc sống của một đứa trẻ ra từ sau 5 năm… Chẳng ai còn chú ý đến việc nó đã từng vào tù ra tội nữa, giờ đây, người ta chỉ thấy một đứa trẻ đã trưởng thành, giàu lòng yêu thương và có hiếu với bà. 

Ngôi nhà nhỏ của hai bà cháu thằng Tới nằm cạnh con sông nhỏ. Bây giờ, chiều nào cũng thấy hai bà cháu nó khiêng chiếc chõng tre ra bờ sông ngồi ăn cơm, giữa tiếng giun dế kêu, giữa làn gió quê nhè nhẹ, yên bình và thư thái…


X. BÀ CHÂU - CÂY TÁO VÀ MÙA TẾT SUM VẦY


- Bà ơi, cái rổ ở đâu ạ?- Bà ơi, cho cháu mượn cái que.

Tiếng ríu rít của mấy đứa trẻ con vang lên từ khu vườn nhà bà Châu. Thì ra, vợ chồng con cái anh con trai út của bà đã về thăm. Hôm nay là ngày 29 Tết, cả nhà bà Châu đang dọn dẹp, sửa soạn đón Tết. Cây táo của bà Châu năm nay sum suê quả nhưng không phải chờ rụng nữa vì đã có đàn cháu của bà lăng xăng tranh nhau hái. 

Không còn cảnh cụ già lủi thủi một mình ngồi trong gian bếp củi, lầm lũi ăn cơm một mình nữa.

Gian nhà dột nước của bà, đứa con trai đã lợp mái, sửa sang lại tinh tươm. Đàn cháu thơ cũng đang quây quần xung quanh bà, chúng nó tíu tít kể về cuộc sống ở thủ đô cho bà nghe. Chúng nó bảo: “Ở thành phố chán lắm, chẳng có cây táo để trèo hái như này đâu, cũng chẳng có chỗ rộng như ruộng sau nhà bà cho chúng con thả diều…”

Bà Châu tập trung lắng nghe lời mấy đứa cháu thủ thỉ, mắt say sưa ngắm nhìn chúng, ánh mắt toát lên sự hạnh phúc rạng ngời của một cụ bà “gần đất xa trời” đang được tận hưởng trọn vẹn từng khoảnh khắc bên cạnh cháu chắt. Đó là thứ cảm giác bao nhiêu năm nay bà khao khát, ước mong cháy bỏng có được.

Người già rồi, còn cần gì đâu ngoài việc được gần bên con cháu, nhất là vào mỗi độ Tết đến xuân về. Cái tuổi xế chiều nghiêng bóng, thứ người ta khát khao có được là tiếng cháu gọi “Bà ơi”, là tiếng con hỏi “Mẹ có đau ốm chỗ nào không?”

Hỏi ra mới biết, đứa con trai của bà Châu suốt bao năm âm thầm làm công tác tư tưởng cho cô vợ trái tính, và rồi, anh cũng đã thuyết phục được vợ vui vẻ đón nhận và cùng anh chăm sóc mẹ già. Đợt này, ăn Tết xong, cả nhà anh con trai út sẽ đưa bà Châu ra sống cùng ở thủ đô để tiện chăm sóc. Thế là, xóm Vũng lại bớt đi được một cảnh người già neo đơn, cô độc. Vui biết bao nhiêu…

3

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout