I. ANH TUẤT
Gia đình anh Tuất nằm ở xóm Vũng. Cái tên xóm Vũng không biết bắt nguồn từ đâu, chỉ biết tên gọi như thế từ xa xưa cho tới ngày nay. Xóm Vũng nằm tách biệt ở một vùng đất nhỏ, nối với khu đông dân bằng một cung đường đi qua bãi tha ma và ruộng đồng thênh thang. Ở đó, vài ba mảnh đời dặt dẹo, khổ ải, thừa thãi vẫn tồn tại.
Những năm 70 - 80, chiến tranh đã qua đi, nhưng đời sống của người dân vẫn chưa cải thiện. Cái đói, cái khát, cái vô học vẫn còn lại. Và đương nhiên, nó chẳng bỏ sót ai, kể cả gia đình anh Tuất. Nhà anh Tuất có tổng cộng 12 người. Bố anh lấy 2 vợ, bà cả sinh được 6 nụm con, bà 2 sinh được 4 nụm con. Bố anh chia rõ ràng, bà cả sống ở nhà to với bố anh và 6 người con, bà hai cùng 4 đứa con sống ở nhà ngoài - nói là nhà nhưng thực chất là chiếc lều lụp xụp, mỗi khi trời mưa không có chỗ ráo mà nằm.
Anh Tuất là con út của bà cả, trước đó, bà sinh được 5 người con gái, đẻ rốn thêm tới anh Tuất là con trai duy nhất, thế nên cưng chiều hết mực. Anh lại được đẻ vào đúng ngày mùng 1 tháng 1 năm 1974 - ngày đầu năm, thế nên ông bà có nói: “Của ni lớn lên phá phải biết!” Y như rằng, anh ta phá thật!
Sự chiều chuộng quá mức sẽ tạo nên một con người vô trách nhiệm là vậy!
Hồi đó, anh Tuất đi học, học đâu đó, lên lớp 6 (tương đương với trình độ lớp 9 bây giờ). Đêm anh thức đi man cá với mấy cô chú trong xóm, lên lớp ngủ gật, bị cô giáo gọi.
Cô giáo hỏi: “em là con chi hả Tuất”. Anh đáp lại câu cụt lủn rồi rời khỏi lớp: “Em là con chó”. Từ đó, anh Tuất nghỉ học, đi man cá, đi chăn trâu.
Anh được chiều, chiều hết mực, man cá hay chăn trâu chỉ vì anh thích, thích đi phá, không ai bắt ép anh làm việc cả. Cả nhà ăn cơm trộn rau, trộn khoai, đói rét. Còn anh luôn được nhường phần cơm trắng ngon lành, nằm chỗ ấm chỗ ráo. Cứ thế anh ta lớn lên, dưới sự chiều chuộng và bao bọc của cả nhà, đặc biệt là của bố mẹ, sự chiều chuộng giữa cái đói, cái khổ.
Không học hành, lớn lên, tầm 18-20, anh Tuất vào Sài Gòn đi bốc vác. Lương lậu ba cọc ba đồng, đủ để anh lướt khướt với những cơn nhậu cuối tuần. Anh ta sống một cuộc đời tệ hại và nát bét.
Nhưng hồi ấy, điện thoại, mọi phương thức liên lạc hạn chế, không như bây giờ. Thế nên ở quê, cả gia đình đều nghĩ, anh ta lập nghiệp, sống tốt, làm giàu và hoành tráng. Ở Sài Gòn vài năm, anh ta về quê, với mục đích lấy vợ, lấy vợ với đôi bàn tay trắng nhưng ai cũng nghĩ anh đã có cả cơ ngơi.
Hồi anh ta về làng, cũng có nhiều cô theo đuổi. Nhưng anh lại mê chị Mùi - con gái của 1 nhà bán thịt lợn bình thường, nhà có 7 anh chị em. Ban đầu, anh Tuất và chị Mùi còn ngỡ là anh em họ hàng xa, nên anh chỉ lên nhà nhờ chị dẫn đi tán gái.
Hồi đó, chị Mùi có người yêu rồi, mối tình kéo dài 4 năm. Nhưng có một biến cố xảy ra, nên chị chia tay, mới chia tay đâu đó 1 tuần, anh Tuất đem trầu cau tới hỏi cưới. Chị Mùi vì vừa chia tay, giận người yêu cũ mà đồng ý lấy anh Tuất. Thế là một đời khốn khổ mở ra bởi cái vội vàng ấy!
Thật ra, ít ai biết, trước ngày cưới anh Tuất, chị Mùi có xin bố trả trầu cau, nhưng bố chị không cho vì làng trên xóm dưới, trả trầu là cái chuyện xấu mặt, bố chị bảo không biết nhìn họ hàng, láng giềng ra sao. Chị đành tặc lưỡi, sớm muộn cũng lấy chồng, thôi thì lấy ai cũng được!
Chị sống khổ, sống sở với nhà anh Tuất đằng đẵng kể từ ấy!
Bố mẹ chồng tệ, chị em chồng tệ, chồng lại càng tệ! Cưới đâu đó được 1 năm, anh Tuất vào lại Sài Gòn đi làm, mang cái tiếng đi làm kiếm tiền nuôi vợ con, nhưng ít ai biết, từ lúc cưới, chị Mùi chưa được cầm một đồng mua nước mắm cho con húp. 5 bà chị gái của anh Tuất ngày ngày đay nghiến, nói xấu, bịa chuyện cho chị Mùi khắp làng trên xóm dưới. Họ bảo, anh Tuất gửi tiền về cho chị tiêu xài hoang phí, không đưa cho ông bà lấy một đồng. Hỡi ơi! Nào có lấy một đồng mà đưa! Họ nghĩ em trai họ, đứa con cưng của họ tài giỏi, kiếm nhiều tiền lắm đặng?
Anh Tuất ở trong Sài Gòn, có cặp kè với một cô nào đó, hai người đã có dự định sang nước ngoài, - Lào, Campuchia gì đó. Anh ta có bồ trong lúc vợ mang bầu, sống khổ, sống sở với cả gia đình dòng họ nhà anh ta. Lúc con được 3 tháng tuổi, chị Mùi có gửi cho anh Tuất một bức hình của con vào Sài Gòn. À, thì ra, anh ta vẫn còn ít tình người, vẫn ham con, nên bỏ bồ, về với vợ con!
Anh Tuất tệ, bố anh ta còn tệ hơn!
Chị Mùi đẻ đứa con đầu lòng năm 2003, vào mùa đông, rét, buốt vài chiếc khăn mỏng dính quấn thay chăn. Không ai trông nom, cả nhà chồng ngó lơ, thậm chí còn đối xử tệ bạc! Có lần, bố anh vác gậy đuổi chị Mùi ra khỏi nhà, nhưng bắt chị phải để đứa con lại. Con chị Mùi lúc ấy 4 tuổi, trốn chui, trốn lủi ở cổng sau nhà, lén lút chạy ra đi trốn với mẹ! Nó biết ông đuổi mẹ đi, giữ nó ở lại, nó muốn đi cùng mẹ, nó biết mình phải trốn. Một đứa bé 4 tuổi, không dám chơi bời thoải mái với mấy đứa bạn trong xóm, nó dành phần nhiều thời gian để đề phòng ông bà, đề phòng nhà bố, để kiếm tìm lỗ hổng, để bỏ chạy, bỏ trốn cùng mẹ!
Thế rồi, anh Tuất về, nói ngọt, nói bùi với chị Mùi, rồi 2 vợ chồng vào Sài Gòn sinh sống, để đứa con đầu lòng ở nhà cho ông bà nuôi. Nhưng 1 năm sau, chị Mùi nhớ con quá nên về đem nó theo cùng vào Sài Gòn bươn chải. Hai vợ chồng và đứa con nhỏ thuê một căn phòng trọ nhỏ xíu khoảng độ 15m2, đủ kê một cái sạp bé bé cho 3 người nằm và một góc nhỏ để chiếc xe đạp cũ chị Mùi đi buôn sắt vụn mỗi ngày.
Anh Tuất làm ở xưởng gỗ, nhưng dăm bữa nửa tháng lại nhậu nhẹt đến say mèm, về nhà đá bát, đánh con. Tháng 30 ngày, anh ta nhậu say 29 ngày, đi làm chẳng đủ tiền ăn nhậu. Một mình chị Mùi buôn sắt vụn mỗi ngày trên chiếc xe đạp cà tàng, một mình lầm lũi nuôi ba miệng ăn. Tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền ăn uống, tất cả một tay chị Mùi lo hết. Chẳng kể, ngày nào cũng phải giặt chăn giặt ga giường vì chồng say xỉn nôn oẹ mỗi ngày. Có lần, chị Mùi chẳng chịu nổi nữa, chị dẫn con đi trốn, xuống Đồng Nai - ở nhờ nhà người quen. Thế mà anh Tuất tìm được tận nơi, anh ta thuê cả người đi tìm mẹ con chị Mùi. Anh ta nói, nếu gặp mẹ con chị ở đâu, thì đánh què chân chị, rồi dẫn đứa con về. Khốn khổ và mệt mỏi!
Cuộc sống của gia đình anh Tuất cứ thế kéo dài 5 năm trong Sài Gòn. Đứa con cũng đã đủ hằn sâu những ám ảnh tâm lý trong tuổi thơ của mình.
Cuộc sống tha hương khốn khổ, thế nên anh Tuất chị Mùi lại đèo bòng con về quê, dù sao có khổ sở thì ở quê nhà vẫn hơn. Lúc sắp về quê, chị Mùi có bầu đứa con thứ 2 - là con gái, vào năm 2010. Anh chị về quê được nửa năm thì chị Mùi sinh. Anh chị vay mượn thầu được một cái đồng ao nhỏ để bắt đầu làm ăn.
Khổ một nỗi, về quê, anh Tuất vẫn chứng nào tật nấy. Thêm cái ở quê nhiều bạn nhậu, anh lại bắt đầu những tháng ngày say xỉn thướt khướt không lo làm ăn. Chị Mùi lại một mình lo toan mọi điều. 2 đứa con xách nách, vừa trông con vừa cấy hái trồng trọt, chăn nuôi quanh năm ngày tháng nhưng cũng chỉ đủ nuôi bốn miệng ăn trong nhà.
Anh Tuất chẳng đỡ đần được việc, lại thêm gia đình nhà anh ta chì chiết, ngồi hết làng trên xóm dưới nói xấu chị Mùi. Chao ôi! Con người ta nhàn rỗi lại kiếm cớ để bêu rếu người khác, cái thói xấu muôn đời của những người dân ở quê!
Chị Mùi sáng dậy từ ba giờ sáng, khi gà còn chưa gáy để ra đê lấy cá chạy chợ mỗi ngày. Trưa trật, mặt trời lên giữa đỉnh đầu chị mới về đến nhà, ăn vội ăn vàng bát cơm, lại tất bật ra đồng đi cấy, đi hái. May thay ở quê, chị còn nhờ được bà ngoại trông con để còn lao ra kiếm tiền.
Anh Tuất sáng nhậu làng trên, chiều nhậu xóm dưới, có hôm anh ta đi cả đêm chẳng về nhà. Hoặc nếu có về cũng sinh sự ngồi chửi bới thâu đêm. Chẳng dừng lại ở đó, anh Tuất lại thêm thói xấu đó là vũ phu, đánh vợ. Anh ta hễ cứ uống say lại về đánh vợ, như một thói quen. Đứa con lớn của chị Mùi hình như trải qua nhiều khó khăn, khốn khổ quá nên nó hiểu chuyện từ sớm. Nó đỡ đần, giúp chị Mùi chăm sóc em, nó chạy ra đỡ đòn roi cho mẹ mỗi ngày.
Năm 2014, đứa con thứ hai lên lớp một, chị Mùi lại có bầu đứa thứ ba - vẫn là con gái. Anh Tuất vẫn tiếp tục tháng ngày ăn nhậu bê tha làng trên xóm dưới và chẳng đoái hoài gì đến ba đứa con gái. Điều duy nhất anh ta cần đó là một đứa con trai để mát mày mát mặt với hội bạn chuyên đi khích bác rằng anh Tuất không sinh được con trai, mất nòi, mất giống.
Một tay nuôi ba đứa con nhỏ, chị Mùi làm đủ nghề, góp nhặt từng đồng. Chị mua sắt vụn, chị buôn tôm cá, chị đan lưới, đan tre, chị bán hàng ăn sáng… Trưa nắng 40 độ, người ta ở trong nhà nghỉ ngơi, bóng lưng chị vẫn miệt mài chạy phăng phăng ngoài đường, đèo thùng hàng cồng kềnh. Mùa đông lạnh buốt cắt da cắt thịt, chị vẫn dậy từ 3 giờ sáng để kịp lấy tôm lấy cá đi bán. Tối đến, chị thắp đèn, lủi thủi ngồi đan lát kiếm thêm vài đồng đóng học cho con.
Chẳng nói ngoa ngoắt gì, gần 20 năm lấy nhau, anh Tuất chưa từng đưa cho chị một đồng mua đồ ăn thức uống hay đóng học cho ba đứa con. Anh ta làm chẳng đủ tiêu, anh ta chơi lô đề, cờ bạc, rượu chè rồi nợ nần. Có lần, chị Mùi làm cả vụ mùa được 5 tạ thóc, vì anh Tuất nợ tiền lô đề mà người ta kéo xuống cứ thế vác từng bao thóc chở đi để trừ nợ. Chị Mùi chỉ biết khóc, kêu ai bây giờ, kêu trời, trời chẳng thương.
Ở cái thời đại phát triển, phố xá hoa lệ, văn minh, tư tưởng con người hiện đại. Ấy vậy mà, dưới bóng tre làng, ở một vùng quê, vẫn còn những cuộc đời khổ ải và đau thương. Vẫn còn những con người sống một đời thừa - vô tích sự.
Ba đứa con của anh Tuất cứ thế lớn lên, cho đến giờ, đứa lớn đã học xong đại học, đứa thứ hai đã lên cấp 3 và đứa nhỏ cũng đã học gần xong tiểu học. Thế mà, anh Tuất vẫn đòi chị Mùi đẻ thêm để cố lấy một đứa con trai. Suốt bao nhiêu năm, anh ta vẫn dày vò vợ con vì chưa đẻ được con trai nối nòi nối giống.
Chị Mùi khổ quá rồi, chị không đẻ nữa, mặc kệ anh ta dày vò mỗi ngày. Nhóm bạn nhậu của anh Tuất vẫn ngày ngày khích bác anh chưa có con trai. Ngoài 50 tuổi, anh ta vẫn lất ngất với chai rượu trên tay, anh ta chẳng biết mấy đứa con của mình ăn gì để lớn lên, lấy gì để đóng tiền học hành đàng hoàng, anh ta vẫn chửi rủa chị Mùi mỗi lần say xỉn, tư tưởng của anh ta vẫn dừng lại sau luỹ tre làng, cổ hủ, lạc hậu và nát bét.
“Đời thừa" của anh ta bắt đầu từ năm 1974 cho tới nay - năm 2023 và mãi về sau chắc hẳn vẫn còn kéo dài lê thê như thế!
Dưới bóng trăng lờ mờ, dưới mặt nước ao tĩnh lặng trong đêm, anh Tuất cầm chai rượu trên tay, lẩm bẩm chửi bới vợ con, hết ngày này đến ngày khác. Ở cái thời đại 4.0, sau luỹ tre làng, một đời thừa vẫn còn tồn tại…
II. CHỊ MÙI
- Ô cái Mùi còn ngồi đây à? Chúng nó sắp khiêng hết cái nhà cô đi rồi kìa! - tiếng bà Dung (hàng xóm nhà chị Mùi) lanh lảnh ngoài chợ nói với đến chỗ chị Mùi.
Rồi bà ta quay ra kể với mấy người trong chợ:
- Mấy đứa chủ nợ của chồng cô Mùi đang ra nhà cổ kéo đồ đạc đi trừ nợ đấy!
Chị Mùi tức tốc bỏ cả mớ cá mớ tôm đang bán dở, lao lên xe về nhà.
Giữa trưa, cái nắng hè đổ lửa hừng hực rải khắp con đường chạy dài ra tận con đê ngút ngàn. Chị Mùi phi như bay về nhà với con xe máy cà tàng mà chị xoay sở vay mượn họ hàng mua lại được ở một tiệm bán xe máy cũ. Cái giỏ xe đang cố bấu víu lấy đầu xe bằng sợi dây thép mà chị tự chế ra để cột tạm lại. Yên sau xe là một chiếc thùng đựng cá tôm to gấp rưỡi người chị. Con xe cà tàng và chiếc thùng đựng tôm cá đã đồng hành cùng chị ngót chục năm rồi. Chị chạy chợ bán tôm buôn cá sáng tối, ngày không có hàng bán thì chị đi cấy, đi gặt thuê.
Chị Mùi lấy chồng năm 20 tuổi. Đến giờ, chị đã có 3 mặt con. Lão chồng chị là một kẻ nghiện rượu chè, cờ bạc, lại thêm cả thói vũ phu, gia trưởng. Tưởng chừng bao nhiêu cái thói xấu, cái tệ nạn trên đời này, lão ta hội tụ đủ cả. Có chồng mà cũng như không. Một tay chị nuôi 3 đứa con khôn lớn, nuôi thêm cả lão chồng và đống nợ đời mà lão gây ra.
Nhà chị Mùi ở ngoài đồng - khu đồng nuôi thuỷ sản, xung quanh toàn là ao chuôm và ruộng lúa. Chị vay mượn dựng một gian nhà nhỏ và cái bếp lợp ngói tạm bợ, chẳng có nổi cái nhà vệ sinh. Trước sân là bể đựng nước mưa để sinh hoạt. Lúc trước, nhà chị còn có một gian nhỏ để nuôi lợn, nhưng có lần lão chồng chị say rượu về, cầm búa đập nát đi rồi.
Khu ngoài đồng tách biệt hẳn so với dân cư trong làng, ngoài đó, người ta vẫn chưa dẫn điện ra. Thế nên, nhà chị vẫn còn dùng bình ắc quy để thắp. Căn nhà tạm bợ, không có tủ lạnh, không có ti vi, chiếc bình ắc quy nạp đầy chỉ dành để thắp lên khi mấy đứa con chị học bài.
Sáng chị dậy từ 3 giờ, lượn khắp đê để gom tôm, gom cá kịp giờ ra chợ bán. Bán hết buổi sáng, chị lại lấy hàng cho buổi họp chợ chiều. Tối về đan lát kiếm 5 nghìn mỗi mành đan. Vào vụ mùa, chị nhận đi gặt thuê, cấy thuê suốt đêm. Chị tích góp từng đồng, từng xu để nuôi con.
Ấy thế mà, dăm bữa nửa tháng, lão chồng chị lại chửi bới đòi tiền mua rượu, tiền đánh lô đánh đề. Chị không đưa, lão chửi rủa suốt đêm ngày, thậm chí còn đánh đập chị.
Chị cùng 3 đứa con sống giữa đồng không mông quạnh đã hơn 10 năm nay. Những ngày yên bình nhất của 4 mẹ con chị Mùi là những ngày chồng chị không về nhà.
Trưa nay, chị Mùi phi như bay về nhà vì đang bán dở mớ cá ngoài chợ thì bà hàng xóm ra báo tin có lũ nào kéo nhau ra đồng nhà chị phá cửa, kéo lúa đi. Chị vừa về tới đầu ao, thấy bọn chúng đang khiêng từng bì lúa lên xe. Chị bổ nhào tới, ôm lấy mấy bì lúa, vừa gào vừa khóc: “Có mấy bì lúa cho con tôi ăn thôi, mấy người định ăn mất phần của con tôi luôn hay sao? Tôi xin các người… Ai nợ thì người đó trả, mẹ con tôi có nợ chi các người… Chồng tôi vay tiền đánh lô đánh đề, chứ mẹ con tôi có được một đồng mua nước mắm mà húp?”
À, thì ra, lão chồng chị nợ tiền người ta không trả được, nên họ kéo ra đồng nhà chị đòi, mà cả nhà cả cửa có gì giá trị ngoài mấy bì lúa chị vừa hong khô để dành cho con ăn dần đâu. Mấy đứa nhỏ cũng sợ hãi, vừa hét vừa khóc, chạy lại giúp mẹ kéo trệt, ôm chặt lấy mấy bì lúa còn lại trong kho. Thế mà lũ người kia vẫn tán tận lương tâm kéo được ba bì lúa đi, mặc kệ chị Mùi và mấy đứa con gào khóc…
Giữa trưa hè, tiếng chị Mùi khóc trong uất nghẹn ngày càng to, dồn nén bao nhiêu khổ nhục, bao nhiêu uất ức: Trời ơi, sao số tôi khổ thế này… Ông trời không có mắt…
III. LÃO BÁCH
- Lão Bách lại tới xin ăn đấy!
- Lại mất bò gạo xấu cho lão rồi!
- Lâu lắm mới thấy lão Bách!
Tiếng của mấy người đang lom khom cúi nhổ cỏ dưới đồng văng vẳng lên.
Trên con đường chính dẫn vào xóm Vũng, lão Bách đang lọm khọm đi chân trần, mặc chiếc áo cộc tay sờn rách, cổ áo đã rão ra, trên vai vắt ngược một chiếc bì nhỏ đựng đồ đi ăn xin được, đang khập khiễng bước đi trên con đường bỏng rát. Cái nắng gay gắt, tưởng chừng như gom góp hết tất thảy sự nóng bức của mùa hè trên thế giới này dồn lại, đổ xuống con đường trong xóm. Nắng đến nỗi chỉ cần tiếp xúc da với bề mặt đường cũng đủ để khiến người ta bỏng rộp. Ấy thế mà, đôi chân trần của lão chai lì, mất cảm giác, lão đã bước đi với đôi chân trần suốt bao năm qua, chẳng hề hấn gì.
Lão Bách là một kẻ ăn xin thường lui tới xóm Vũng đâu đó cũng ngót 10 năm rồi. Người ta cũng từng bàn tán nhiều về lão. Có người bảo, lão cũng có gia đình, con cái nhưng vì bị tâm thần nên hay đi lang thang xin ăn như thế. Có người bảo lão giả khờ, không muốn lao động, nên đi xin ăn. Có người lại bảo lão sống đơn độc, không anh em, họ hàng, không công ăn việc làm, chân lão bị tật, nên đi xin khắp làng trên xóm dưới để kiếm ăn mỗi ngày. Ai cho gì, lão ăn nấy.
Có người tốt, thấy lão vào xin ăn, rộng lượng cho bánh, cho gạo, cho tiền. Có người thì khó chịu ra mặt khi thấy lão, chẳng những không cho, còn đánh đuổi đi rồi chửi rủa: “Lão già xui xẻo", “Nhà không có mà ăn, ai dư thừa cho ông!”
Ở xóm Vũng, có mấy đứa trẻ con hay đi theo trêu chọc lão. Có lần, lão bị tụi trẻ con cầm gạch ném chảy cả máu đầu. Thế mà chẳng ai đoái hoài đến.
Người ta chỉ thấy một lão già ăn xin phiền phức, bẩn thỉu, hôi hám. Nhưng mấy ai hiểu rằng, có những người không có cách nào thay đổi cuộc sống của bản thân mình. Đi ăn xin là con đường cùng để có thể kiếm sống.
Thấy lão đi lại vật vờ nhiều, cán bộ thôn xóm cũng tìm hiểu về gia cảnh của lão. Hoá ra lão có con cái, nhưng ngặt nỗi, mấy đứa con chẳng đoái hoài gì tới. Chúng nó lớn lên, đi đến nơi khác lập nghiệp hết cả, bỏ lại mình lão đơn độc. Đôi chân tật, đầu óc đôi lúc không được tỉnh táo khiến lão chẳng kiếm được nghề ngỗng gì đàng hoàng để làm.
Ở vùng quê nghèo ấy, chẳng có viện dưỡng lão hay khu ở miễn phí dành cho người vô gia cư. Thế nên, lão Bách cứ ngủ vạ ngủ vật khi thì dưới mái hiên nhà, có lúc thì nằm tạm bợ ở góc chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, mùa đông cũng như mùa hè, lão Bách chỉ có một bộ quần áo vừa bẩn vừa rách. Thỉnh thoảng lão nhặt nhạnh được cái chiếu hay tấm chăn người ta vứt đi, mùa đông lạnh quá, lão trải ra nằm tạm bợ.
Nhưng sự tồn tại của lão Bách cũng thành thói quen ở xóm Vũng. Thỉnh thoảng, nếu không thấy lão, cũng có người nhớ đến mà nhắc: “Lâu nay không thấy ông Bách ghé nhà xin ăn.” Một cuộc đời lầm lũi, vật vờ vẫn tồn tại sau rặng tre làng giữa thời đại đang dần phát triển. Đến bao giờ, lão Bách mới thôi phải đi ăn xin từng bữa? Đến bao giờ, mới có một mái nhà tình thương cho những người như lão Bách có nơi nương tựa?
IV. BÀ KHÁI ĐIÊN
“Trời ơi cứu tôi, cứu tôi với…”
Âm thanh thảm thiết khiến lũ trẻ đang học cũng phải nhón người qua cửa sổ để hóng xuống sân trường. Bà Khái lại xuất hiện rồi, bà ta đang nằm ăn vạ dưới sân trường. Chẳng ai đánh đập gì, chỉ là cơn điên của bà ta tái phát. Bà Khái là một mụ đàn bà nửa điên dại nửa bình thường. Theo lời kể của mấy người ở xóm Vũng, hồi còn niên thiếu, bà ta là một người con gái xinh đẹp, có nhiều người mê mệt, tán tỉnh. Ở tuổi 16, bà ta phải lòng một người đàn ông, ăn nằm với hắn và có chửa. Nhưng hắn chối bỏ, không nhận con. Hắn tuyệt tình, bỏ đi nơi khác, cắt đứt mọi liên lạc. Thế là, kể từ đó, bà ta điên tình.
Bà ta không còn bố mẹ hay anh em gì cả, sống đơn độc một mình với đứa con trai bị người tình ruồng bỏ. Lạ kỳ thay, chẳng biết cho thiên chức làm mẹ thiêng liêng hay vì lý do bí ẩn nào đó, bà Khái điên nhưng vẫn có lúc tỉnh táo để làm lụng đủ tiền nuôi con lớn lên. Lúc tỉnh táo, bà Khái vẫn đi làm chăm chỉ, bà ta đi cấy thuê, gặt thuê, thu hoạch mùa màng thuê… Ai mướn gì, làm nấy. Nếu không gặp vào lúc bà ta lên cơn điên, chắc chẳng ai biết bà ta là một người đàn bà điên.
Nhưng nếu một ngày có 24 giờ, bà ta sẽ lên cơn điên 20 giờ. Lúc lên cơn, bà Khái thường tới những nơi đông người nằm vạ vật, la hét, ăn vạ, thậm chí có lúc còn đánh người. Bà ta hay đến sân trường, lớp học, đến cổng chợ, đến các ngã năm ngã bảy nằm đó khóc la cả mấy tiếng đồng hồ. Chẳng ai dám lại can ngăn, vì hình như ai cũng sợ người điên.
Lạ kỳ là bà ta có rất nhiều dáng vẻ khác nhau khi điên!
Có lúc, bà ta điên rồ dại, quấy phá, la hét, chửi rủa như thể đang bộc phá ra hết những tủi hờn, những đắng cay vì bị người tình ruồng bỏ. Đã mấy chục năm trôi qua, nhưng cái uất hận của một cô gái tuổi 16 bị bội tình vẫn âm ỉ, vẫn rỉ máu không thôi. Sự đơn độc khiến bà ta phải hét lên mới thoả mãn được.
Có lúc, bà ta điên trong thầm lặng. Bà ta cười ngờ nghệch, mắt đờ đẫn nhìn xa xăm, ngồi ôm gối thu mình lại một góc, không la lét, không chửi rủa. Bà ta cứ ngồi ngẩn ngơ như thế mấy tiếng đồng hồ, rồi bỗng dưng hết cơn điên loạn. Phải chăng, khi ấy, bà ta đang hoài niệm về người đã rời bỏ, đang nghĩ về những ký ức đẹp đẽ bên hắn ta?
Người ta đã quen dần với sự điên nửa vời của bà Khái. Chẳng ai đụng đến khi bà ta điên. Cũng chẳng ai muốn giúp đỡ đứa con của bà ta. Đứa trẻ có một người mẹ điên và một người cha đốn mạt ruồng bỏ ấy đã 17 tuổi, nhưng nó không được đi học. Nó bị mấy đứa trẻ con xóm cô lập, chẳng ai muốn làm bạn với một đứa trẻ có người mẹ điên. Lúc bà Khái ở trạng thái bình thường, nó cũng được sống cùng mẹ, ăn uống đầy đủ. Nhưng lúc bà Khái lên cơn điên, nó lại bị bỏ đói, vì lúc điên, bà ta đâu còn nhớ ra mình có một đứa con. Dần dần nó quen với cuộc sống đầu đường, xó chợ, không bạn, không bè.
Sự ruồng bỏ, sự vô trách nhiệm của một gã đàn ông đã để lại 2 cuộc đời bất hạnh: một người phụ nữ hoá điên, một đứa trẻ thất học.
Những câu hỏi lớn được đặt ra, bao giờ bà Khái hết điên? Bao giờ đứa con của bà Khái được tới trường học?
V. CON CÒNG CUA
Đám cưới, đám ma nào, con Còng Cua cũng có mặt. Còng Cua là một đứa trai không ra trai, gái không ra gái. Năm nay, nó độ hơn 20 tuổi thôi. Không gia đình. Không nhà cửa. Không người thân. Nó cứ lang thang khắp nơi, ăn ở đám cưới, đám ma, rồi cứ căn đúng giờ cơm, nó lại vào bừa một nhà nào đó, ngồi ăn trực. Không cho nó ăn, quát tháo chửi bới là nó vác gạch, vác dao ném, đánh lại. Thế nên ai cũng ngại đụng đến nó, cứ để nó mặc sức ngỗ ngược.
Có người kể lại rằng, con Còng Cua bị mẹ bỏ rơi. Chẳng ai biết gốc tích của nó ở đâu. Hồi bé tí nó ở cùng bà, sau khi bà nó mất, nó bắt đầu đi lang thang, trở thành đứa vô gia cư.
Con Còng Cua hay mặc chiếc quần bò cũ sì, bó chặt lấy đôi chân gầy tong teo và chiếc áo sơ mi cộc tay cũ, bẩn đến mức áo từ màu trắng chuyển sang màu nâu, vết mốc bám quanh cổ áo. Thêm chiếc mũ phớt màu xanh đen. Tóc nó cắt ngắn như đàn ông, bết dính, nhìn thôi cũng đã cảm nhận được cái bẩn và mùi hôi bốc ra. Nó có mỗi một bộ đồ đó, mặc quanh năm suốt tháng, chẳng biết nó có tắm giặt bao giờ không.
Ở xóm Vũng, hễ có đám cưới, đám ma, cần người dọn dẹp, người ta hay gọi con Còng Cua tới giúp, rồi trả công cho nó bằng mấy bữa ăn. Nếu người ta đối xử tốt với nó, nó cũng giúp đỡ nhiệt tình lắm. Chỉ khi bị trêu chọc, bị chửi bới, nó mới giở thói côn đồ, hâm dở lên mà thôi. Cái tên Còng Cua là do người trong xóm đặt cho nó, cái tên thể hiện sự đanh đá, ngang bướng. Dạo gần đây, con Còng Cua hay nằm ngủ ở mái hiên cửa hàng tạp hóa của một bà cụ già cuối xóm Vũng. Cửa tiệm tạp hóa đó nhỏ tí, bán mớ rau, mớ dưa cà, mấy cái bánh mì khô, mấy gói bim bim… Cuối xóm Vũng là con sông nhỏ và ruộng lúa. Bà cụ chủ tiệm sống 1 mình, không thấy con cháu của cụ đâu. Thế nên, con Còng Cua lui tới có khi lại giúp cụ có người bầu bạn, bớt cô đơn. Thỉnh thoảng, người ta thấy Còng Cua giúp cụ bó mớ rau, quét mái hiên. Chiều chiều, lại thấy Còng Cua ngồi ăn cơm cùng bà cụ ở cái chõng tre cũ ngoài hiên nhà. Con Còng Cua không tỉnh táo nhưng luôn dịu tính với những người già khổ sở và đơn độc…
VI. CÁI LAN
Ở xóm Vũng, hầu như lớp thanh thiếu niên mới lớn lên, chỉ học hết lớp 9 rồi đi làm công ty giày da, chẳng mấy ai học cấp 3 và Đại học. Cái Lan cũng không ngoại lệ, nó học hết lớp 9, sau đó đi làm. Đi làm được nửa năm thì lấy chồng. Ở độ tuổi 17, đáng nhẽ ra nó phải là học sinh cấp 3 mới đúng.
Lấy chồng 4 năm, Lan đẻ 3 đứa, 2 trai, 1 gái. 21 tuổi, bằng trang phải lứa, người ta đang sống cuộc sống sinh viên, học hành tử tế, thì cái Lan đã làm mẹ 3 con rồi.
Cuộc sống của Lan xoay quanh chồng con, bếp núc, chăn nuôi. Mới 21 tuổi, mà nhìn nó chẳng khác gì đã ngoài 30. Nó gầy nhom, xanh xao. Ngày này qua ngày khác chỉ có vài chiếc áo phông đã lỗi thời với chiếc quần bò bó sát đã bạc mông. Ở thế kỷ 21 rồi nhưng nhìn cái Lan ăn mặc, người ta tưởng đâu trở về 50 năm trước vậy. Cứ tầm chiều chiều, lại thấy 4 mẹ con Lan dắt nhau đi chăn bò ở bãi cỏ cạnh mảnh ruộng gần nhà. Nhìn dáng nó đi đến tội! Một nách bế con, 1 tay dắt con bò đi chăn, vẹo hông sang một bên, chân bước hai hàng khạng nạng. Chồng Lan làm xây dựng xung quanh xóm. May thay dù không giàu sang, nhưng chồng nó cũng chịu thương chịu khó làm lụng, không ăn chơi phá phách, rượu chè, cờ bạc như mấy gã đàn ông khác trong xóm.
Cái Lan chẳng có nghề ngỗng gì, chỉ ở nhà trông con thôi. Thỉnh thoảng, nó nhận tre nứa về đan lát, tháng kiếm thêm được vài trăm bạc, đủ tiền mua rau, mua cỏ.
Hồi đẻ đứa thứ 3, cái Lan suýt chết vì bị băng huyết. Do cơ thể nó ốm yếu, cộng thêm ăn uống thiếu chất, làm việc vất vả tới tận ngày sinh, thế nên cơ thể suy nhược, khiến nó bị băng huyết. Nó đẻ ở trạm y tế xã, hộ sinh chỉ có 2 người, cơ sở y tế cũ kỹ, thế nên việc xử lý các vấn đề nguy hiểm phát sinh rất kém. Nhưng vì tiết kiệm tiền, nó không dám lên bệnh viện phụ sản của huyện. May thay, nó vẫn thoát được bờ vực cửa tử.
Nó chỉ mới ngót 28 tuổi, ấy vậy mà trông già như U40. Nó thậm chí còn chẳng có lấy một thỏi son. Đôi môi lúc nào cũng nhợt nhạt, nhất là vào độ đông, còn nứt nẻ và tím tái, trông đến tội!
Dáng dấp mảnh khảnh, gầy nhom của nó ngày ngày ẵm con, quanh quẩn ở góc bếp, mảnh ruộng ngay trước nhà, cuốc đất làm vườn. Nó còn chưa đi ra khỏi cái huyện nghèo này một lần nào.
Nó bảo, bao giờ con nó lên cấp 1, nó sẽ đi học một cái nghề để ổn định hơn… Cũng chẳng biết, là tới bao giờ…
VII. CÁI BỐNG
Mẹ cái Bống mất lúc vừa sinh nó ra vì bị tiền sản giật. Hai năm sau đó, bố nó lấy vợ hai. Mà “mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”, sau khi bố nó lấy vợ, nó phải sang ở riêng với ông bà. Ông bà nội nuôi nó lớn lên từ khi mới lọt lòng. Ông bà đi xin sữa từng bữa để nuôi nó.
Bố nó là một người cổ hủ, bảo thủ, gia trưởng, nhất là cái thói trọng nam khinh nữ. Mà cái tư tưởng này tồn tại bấy lâu ở xóm Vũng, có chừa riêng nhà nào. Sau này, mẹ kế của nó đẻ được hai đứa con trai nên được cưng chiều hết mực. Còn cái Bống như con ghẻ trong nhà, miếng ăn, miếng uống thiếu thốn. Nhưng ông bà nội thương nó hết mực, có miếng ngon đều dành cho nó. Bống thiếu vắng tình yêu của mẹ, nhưng bù lại, nó lại được lớn lên trong sự bao bọc, chở che của ông bà.
Bố cái Bống không cho nó thi cấp 3. Mùa hè năm lớp 9, cả lớp tất bật ôn thi vào cấp 3. Còn cái Bống phải bỏ học ngang, phụ bố nó kéo xe vò lúa đi khắp xóm. Nó khóc, nó tủi, nó muốn đi học. Nhưng bố nó khư khư một tư tưởng rằng: con gái học nhiều cũng chẳng làm được gì. Cô giáo chủ nhiệm đã có lần xuống tận nhà cái Bống, nói chuyện với bố nó, xin cho nó đi học nhưng cũng chẳng thay đổi được gì. Cái Bống chăm học lắm, nó học rất giỏi môn Ngữ Văn, suốt mấy năm cấp 2, nó đều có mặt trong đội tuyển dự thi môn Ngữ Văn cấp huyện.
Ngày các bạn đồng trang lứa thi cấp 3, cái Bống cặm cụi phơi lưng giữa cái nắng giòn rụm của mùa hè chói chang đi gặt lúa. Tối đó, nó về ôm bà nội khóc nức nở. Nó bảo với bà, nó sẽ đi làm, nó sẽ đi khỏi cái xóm này, nó sẽ kiếm tiền và tiếp tục đi học dù là sau 5 năm hay 10 năm nữa.
Thế rồi, vào hè năm ấy, nó vào Sài Gòn, nó xin được vào một cửa hiệu bán linh kiện điện thoại. Sau 12 tiếng làm việc ở cửa hàng, buổi tối, nó xin bưng bê ở một quán ăn gần chỗ trọ. Nó chăm chỉ gom góp từng chút một để vun vén cho ước mơ tiếp tục đi học của mình. Thân con gái một mình bôn ba nơi xứ người, không nơi nương tựa, cái Bống miệt mài tự xây từng viên gạch nhỏ cho ước mơ của mình.
Cái Bống lầm lũi kiếm tiền cũng đã 5 năm rồi. Ngày ngày đi làm rồi lại trở về phòng trọ, lặp đi lặp lại chuỗi ngày nhàm chán. Chẳng biết nó còn ý định đi học lại nữa hay không? Hay những vụn vỡ, những áp lực, những chai sần kiếp culi đã làm nó thui chột ước mơ đi học rồi?
VIII. ANH ĐỒNG
Anh Đồng lấy vợ từ năm 20 tuổi. Vợ anh chỉ mới học đến lớp 8. Như bao lớp thanh niên khác trong làng vậy thôi, hơn phân nửa chẳng học cấp 3 và có khi còn chưa học hết lớp 9 đã bỏ học đi làm kiếm tiền.
Cái giới trẻ mà, bồng bột và non nớt, nếu không được giáo dưỡng tử tế, chẳng mấy đứa sống tốt và lành tính cả. Lấy nhau được 1 năm, anh Đồng và vợ có với nhau một mặt con. Anh Đồng bỏ học từ sớm, làm công nhân ở khu công nghiệp cách nhà 20km. Vợ anh cũng không học hành, nghề ngỗng gì nên chỉ ở nhà trông con. Hàng xóm bảo vợ anh lười chảy thây, cái sân bẩn, cái nhà đầy rác, chẳng bao giờ thấy chị ta cầm chổi lên quét. Thứ chị ta yêu thích nhất không phải là bồng bế con, cho con ăn, chăm sóc con mà là “chiếc điện thoại thông minh” mà chị ta đòi chồng mua trả góp với thời hạn 12 tháng. Anh Đồng yêu thương vợ, nên dù vẫn đang nợ nần, xoay từng bữa sữa cho con, vẫn phải tặc lưỡi mua cho vợ, trong khi chiếc điện thoại anh đang dùng là hàng cổ “cái cục gạch” mua từ 6 năm trước, chỉ có chức năng nghe gọi và nhắn tin, còn chẳng có chế độ nghe nhạc hay chụp ảnh.
Có một dạo, làng trên xóm dưới đồn vợ anh ta cặp bồ, yêu đương qua mạng, nghe đâu bồ chị ta ở tận trong Sài Gòn. Có người đồn đến tai anh Đồng, nhưng anh một mực chẳng tin, còn bênh chị vợ chằm chằm và chửi bới tất cả những ai nói lời độc địa, bịa đặt cho vợ mình.
Ấy thế nhưng thật ra trong lòng anh Đồng đã biết tỏng chuyện rồi. Anh ta chỉ tỏ vẻ không muốn tin vào hiện thực thôi. Anh ta biết từ những lần nửa đêm chị vợ vẫn nằm ôm điện thoại, gõ tin tanh tách rồi cười khúc khích, từ những lần thấy chị ta chụp ảnh hở hang trong điện thoại và từ những sự ghẻ lạnh, gắt gỏng, ghét bỏ anh và đứa con tội nghiệp. Nhưng anh Đồng thương con, nên chẳng dám hé lời trách móc, vẫn sống trong sự nhịn nhục của một kẻ đàn ông biết vợ ngoại tình mà không được phép vạch trần. Chỉ cần người vợ ấy vẫn chịu ở lại bên anh và con là quá đủ rồi.
Thế rồi, cho tới khi đứa con được 3 tuổi, chị ta bỏ đi biệt tăm, chẳng về nữa. Trước lúc đi còn không quên gom hết tiền bạc còn lại trong nhà theo cùng, để lại đứa con vừa dứt sữa mẹ cho chồng.
Nghe mấy người hàng xóm nhà anh Đồng kể lại. Buổi sáng sau cái hôm vợ anh bỏ đi, anh ôm đứa con tội nghiệp còn đang ốm sốt ngồi khóc giữa sân nhà. Tiếng khóc của một người đàn ông ôm hết tủi nhục, đau khổ nghe não nề, đau đớn làm sao. Sau hôm ấy, anh Đồng lao vào làm việc tưởng chừng như muốn làm tới mức kiệt sức.
Anh cố gắng nuôi con, bù đắp cho đứa trẻ có một người mẹ tồi, chẳng xứng làm mẹ. Ban ngày anh đi làm công nhân may mặc trên khu công nghiệp, tối đến anh đi man cá, đánh lồng. Mùa gặt, anh đi gặt, đi kéo lúa thuê, mùa cấy, anh nhận cấy cả vài mẩu ruộng. Đứa con anh gửi cho mẹ anh trông, may thay, mẹ anh vẫn còn khoẻ, đủ sức trông cháu và làm vườn lặt vặt ở nhà. Anh Đồng cần cù, chịu khó, cả xóm ai cũng thương. Mấy cô, mấy bà trong xóm có món ngon, hay đem sang cho con anh, thỉnh thoảng có mớ rau, nắm tép cũng dành phần cho bố con anh.
Rồi buổi sáng tinh mơ của vụ cấy tháng 5, người ta phát hiện anh Đồng đã chết trên khu ruộng trồng lúa nước cách nhà 5km. Hỡi ôi! Anh sống tốt, có tạo nghiệp với ai bao giờ đâu mà sao ông trời bắt tội anh tới vậy! Anh chết trong tư thế cúi đầu xuống ruộng, trên tay vẫn đang cầm nhánh mạ xanh, anh chết vì cơn đột tử bất chợt bóp nghẹt tim, cứ thế anh kết thúc cuộc đời của mình ở tuổi 27. Anh chết vì làm việc đến kiệt sức! Sáng hôm ấy, cả xóm khóc thương, mẹ anh thì chết lặng, bà chẳng còn thiết sống nữa. Bà ôm đứa cháu tội nghiệp khóc rưng rức, khóc đến mức hai mắt sưng húp chẳng mở nổi ra. Họ hàng, xóm giềng đến giúp mẹ anh lo an táng cho anh, chia buồn đôi lời rồi họ cũng lần lượt đi về.
Ở căn nhà lợp ngói cấp bốn nhỏ, xung quanh là mấy cây cau cao vút và rặng tre rậm rạp, hai bà cháu ôm nhau ngồi nhìn hương khói trên bàn thờ. Rồi đây, chỉ còn hai bà cháu nương tựa vào nhau… Chẳng biết, người bà có trụ nổi sau những khổ đau, mất mát này để nuôi cháu lớn khôn không…
IX. THẰNG TỚI
Thằng Tới đi tù rồi. Nó đi tù vì tội tàng trữ súng. Bố nó mất vì ung thư năm nó học lớp 5. Mẹ nó đi nước ngoài làm ô sin từ lúc nó học lớp 6. Nghe mấy “Việt Kiều” làm gần chỗ mẹ nó ở nước ngoài về kể, mẹ nó quen một ông già hơn 60 tuổi, được ông ta cho nhiều tiền lắm, nên không về Việt Nam nữa. Mỗi tháng mẹ nó chỉ gửi về cho nó 5 triệu tiền ăn, tiền học. Nhưng từ đợt nó bỏ học, mẹ nó chẳng gửi tiền cũng chẳng liên lạc về nhà nữa. Nó ở cùng bà ngoại và người cậu nghiện ngập. Cậu nó vào tù ra tội liên tục, nghiện ngập trộm cắp nên cậu nó bị đưa đi trại giáo dưỡng, đợt đi lâu nhất là 1 năm. Nó ở nhà chẳng học hành gì, lên lớp 8 là nó bỏ học hẳn rồi. Nó đi theo mấy đứa đầu trộm, đuôi cướp xăm trổ đầy mình, tóc tai xanh đỏ ở xã trên, gia nhập băng đảng côn đồ. Có đợt nó đi đâu biệt tăm chẳng thấy về. Và rồi, nó cũng nghiện ngập, trộm cắp. Nhưng trộm của người ngoài đã là cái tội lớn, nó còn trộm cả mấy con gà bà ngoại nó nuôi, quả thật bất hiếu!
Bà ngoại nó cũng khổ, con trai nghiện ngập đi tù, giờ đến thằng cháu trai cũng đi vào con đường cụt.
Trước khi bị bắt đi tù vì tàng trữ súng, thằng Tới đã bị tạm giam mấy tháng trời vì tội cố ý gây thương tích cho người khác. Đợt đó, nó cầm dao đâm một thằng nhóc xóm trên chỉ vì đi ngoài đường gặp nó mà không chào. May mà nó chém trượt, công an tới kịp, gông cổ nó đi.
Một đứa trẻ mất bố sớm, mẹ bỏ đi, chẳng ngó ngàng, cậu là một tên nghiện, bỏ học khi còn chưa là trẻ vị thành niên, sống ở vùng quê nghèo và lạc hậu, thì kết cục trở thành một kẻ như vậy cũng chẳng mấy khó hiểu. Chỉ thương người bà khổ sở, ngày nào cũng cảm thấy tội lỗi vì có những đứa con đứa cháu không ra gì rồi tự trách mình chẳng làm tròn đạo của một người mẹ, người bà.
Đợt đi tù này chẳng biết bao giờ nó được thả ra. Nghe đâu người ta bảo, ít nhất cũng phải 5 năm. Hàng xóm an ủi bà ngoại nó: “Thôi thì, cho nó vào tù, cho người ta giáo dưỡng, biết đâu đến lúc ra tù, nó lại tu tâm tích đức.” Giờ cũng biết sao cho đành, người bà lại lầm lũi đơn độc chờ ngày cháu được thả ra. Cũng chẳng biết, 5 năm nữa, bà còn sống hay chết?
X. BÀ CHÂU - BÀ CỤ ĐƠN ĐỘC
Bà Châu sống trong căn nhà ngói lụp xụp bên cạnh khu bái - nơi người ta trồng ngô, trồng khoai. Nhà bà ngăn cách với con mương cạnh bái bằng một rặng tre già. Cái cổng nhỏ cũng làm bằng tre đã bạc và có phần long hóc hết cả ra rồi.
Bà Châu đẻ được 6 đứa con, nhưng lúc về già chẳng đứa nào muốn đem bà về ở cùng. Mấy đứa con của bà làm ăn cũng khấm khá, nhưng chúng nó lên thành phố, ra thủ đô, đi nước ngoài hết. Mấy năm trước, Tết đến còn thấy có đứa về thăm. Nhưng độ 2 năm đổ lại đây, mấy đứa con của bà đi đằng đẵng, Tết chẳng thấy mặt, ngày giỗ chạp trong nhà cũng chẳng thấy ai. Hỏi ra mới biết, hằng năm đứa con trai út của bà vẫn hay dẫn vợ con về thăm. Nhưng khổ thay, con dâu của bà là dân thành thị, mỗi lần về nhà thấy thiếu thốn nghèo nàn, cứ khinh bà ra mặt, rồi không cho con trai và cháu bà về thăm nữa. Đứa con trai bà vẫn có tấm lòng hiếu thương mẹ già nhưng lại chẳng dám cãi lời vợ. Thế là bẵng đi vài năm nay, hắn chẳng về thăm nữa. Bà lủi thủi sống một mình trong căn nhà cô độc, căn nhà ấy còn già cỗi hơn tuổi của bà, mái ngói cũng đã nhiều lỗ thủng, trời mưa to là dột hết cả. Mùa đông, đóng bít kín hết cửa mà gió tàn nhẫn vẫn lùa vào căn nhà cô quạnh của bà cụ đơn độc ấy.
Bà Châu già, lưng đã còng, đi lom khom, nhưng bà vẫn chăm được vườn rau xanh tốt, một cây táo mùa nào cũng trĩu quả, năm con gà mái béo ú, một chú chó nhỏ biết điều và sạp hàng tạp hoá nhỏ trong xóm. Bà đã quen dần với sự đơn độc, bị con cháu lãng quên, bà có thể tự lo cho cuộc sống bình dị của mình.
Sáng sớm, bà Châu khệ nệ xách mấy bình nước đem ra tưới rau, lụi cụi nhổ cỏ, quét cái sân, cái nhà, cho gà cho chó ăn, bày rau củ ra bán. Trưa chiều bà một mình ngồi trong gian bếp củi nghi ngút khói thổi cơm. Ba bữa sáng trưa tối của bà chỉ có lưng bát cơm, bát trứng hấp nước mắm và đĩa rau luộc. Chiều chiều, bà hay bắc cái chõng che ra hiên nhà, cạnh rặng tre già nằm quạt, chú chó nhỏ lễ phép ngoan ngoãn nằm dưới chân chõng tre. Nhìn cảnh ấy, vừa bình yên, lại vừa đơn độc. Tuổi già, người ta thường mong có con cháu sum vầy, thăm nom, chẳng ai muốn cuộc sống côi cút, hiu quạnh ở cái tuổi gần đất xa trời như thế cả.
Mấy người trong xóm cũng thương tình cho cảnh ngộ của bà, thỉnh thoảng họ vẫn ghé thăm, cho bà miếng thịt, con cá. Mấy đứa trẻ con trong xóm thỉnh thoảng vẫn hay chạy qua nhà bà Châu chơi vì chúng thích cây táo của nhà bà, cứ hễ đợt táo ăn được, là chúng thăm nom bà cả ngày. Biết là mấy đứa trẻ con, chỉ vì háu ăn nên đến, nhưng mỗi lần chúng ghé, bà đều vui ra mặt, có lẽ bà cũng mong mỏi con cháu của mình ghé thăm như vậy. Bà Châu trồng cây táo ấy, có lẽ, từ lúc gieo hạt, và đã mong rằng, cháu chắt sẽ về thăm vì trong vườn nhà bà có cây ăn quả. Nhưng bao năm nay, chẳng có đứa nào ghé cả, mùa táo nào cũng sai trĩu quả, lòng bà mùa nào cũng quạnh hiu…
Bình luận
Chưa có bình luận