NAM TIẾN


 

 

Hai tuần trôi qua. Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn như dòng sông Thạch Hãn vậy. Mọi người trong Ủy ban vẫn đi làm, cười nói với nhau, rồi chiều đến lại rủ nhau đi làm cốc bia, đánh bóng chuyền. Không ai còn để ý tới anh chàng mọt sách còm nhom ngồi một mình trong phòng Đoàn.

Còn tôi, trong căn phòng trọ nhỏ phía sau trụ sở, lặng lẽ gấp gọn vài bộ quần áo, nhét vào ba lô cùng cuốn sổ tay cũ. Không mang nhiều, chỉ những gì cần thiết. Mọi thứ diễn ra như một cuộc trốn chạy, nhưng cũng là một cuộc hành trình tất yếu vì tôi không thể ở lại nơi này thêm được nữa, khi mọi góc phố đều gợi về những kỷ niệm đau lòng.

Tôi phóng xe máy một mạch về quê, đoạn đường sáu mươi cây số như dài hơn thường lệ, vì lòng tôi nặng trĩu. Tôi về không phải để nghỉ ngơi. Chỉ là muốn nhìn ba một lần, nói với ông một câu, dù biết rằng câu đó sẽ chẳng bao giờ đủ để ông hiểu.

Ba đang ngồi trước hiên, mắt nheo nheo nhìn hoàng hôn sập xuống phía triền đê. Cái dáng ngồi quen thuộc mà mỗi lần về tôi vẫn thường thấy. Ông già đi nhanh quá. Da nhăn nheo, tóc bạc nhiều hơn. Tôi tự hỏi, đã bao lâu rồi mình chưa ngồi xuống với ba, ăn một bữa cơm đàng hoàng, hay chỉ đơn giản là hỏi ông hôm nay thế nào?

Tôi dựng xe, bước vào hiên.

- Con phải đi Sài Gòn gấp. Có thể con sẽ ở lại đó lâu đấy ba.

Ông quay lại nhìn tôi, ánh mắt vẫn điềm tĩnh như bao lần khác. Chỉ có đôi môi mấp máy định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Ông chỉ hỏi tại sao. Không cản tôi lại. Cũng không gặng hỏi thêm điều gì. Chỉ gật đầu chậm rãi. Bàn tay ông, gầy guộc, vỗ nhẹ vào vai tôi như một lời tiễn biệt câm lặng. Nhưng chính cái lặng im ấy khiến lòng tôi nhói lên.

Tôi biết, ông không trách tôi. Nhưng tôi thì lại thấy có lỗi.

Từ thời đi học đại học đến khi ra trường đi làm, và sẽ trong những năm tiếp theo sau này, tôi luôn bỏ ông lại một mình, trong căn nhà cũ kỹ, nơi mỗi tối ông vẫn bật tivi thật to để xua đi cảm giác trống vắng. Ông chẳng có ai bầu bạn ngoài mấy đàn gà ngoài hiên. Tôi bỏ ông lại, dù tôi biết mỗi lần tôi đi, ông sẽ lặng lẽ ngồi trước cửa ngó theo chiếc xe khuất dần trong bụi đường, rồi lủi thủi quay vào, chẳng ăn cơm tối nữa.

Tôi đã bỏ rơi ba để lao đầu vào những dự định của tuổi trẻ, hệt như cách người ta vẫn bỏ rơi những người cha già mà không ai để tâm tới.

Tối đó, tôi bắt chuyến tàu đêm đi Sài Gòn. Đoàn tàu hú dài giữa màn đêm, lao xuyên qua những cánh đồng tối đen và những thị trấn ngủ vùi. Tôi ngồi lặng trong khoang, đầu gục lên cửa kính, nhìn ánh đèn bên ngoài lùi dần như những hồi ức không thể với tới.

Tôi chẳng biết mình sẽ tìm Mít bằng cách nào. Tôi cũng chẳng rõ nếu tìm được, mình sẽ phải nói gì. Nhưng tôi không thể không đi. Bởi nếu không đi, tôi sẽ mang nỗi day dứt này suốt cả đời.

Giá như lúc đó tôi ôm ba một cái. Giá như tôi nói một câu tử tế hơn thay vì chỉ là “con đi Sài Gòn”. Giá như…

Nhưng đời thì không có nhiều “giá như”.

Tôi đặt chân đến Sài Gòn vào một buổi sáng nhòe nắng. Chuyến tàu đêm kéo lê tiếng bánh rít dài mệt mỏi khi cập ga, còn tôi thì lê bước xuống sân ga với cái ba lô nhẹ hều nhưng đôi vai nặng trĩu. Không một kế hoạch, không địa chỉ cụ thể nào, tôi chỉ có đúng một cái tên: quận 7. Và câu nói lửng lơ của bác Mít: “Nghe đâu mẹ nó giờ ở trọ trong đó.”

Nhưng quận 7 thì rộng, và Sài Gòn thì to lớn đến nghẹt thở. Những khu dân cư cao tầng mọc lên chen chúc cạnh những xóm lao động tạm bợ; những con hẻm ngoằn ngoèo như mê cung, số nhà đánh loạn xạ, tên đường dài như nỗi nhớ dai dẳng. Tôi đi lòng vòng, dò hỏi, lần theo từng manh mối mong manh như cát bụi. Có lúc tôi dừng lại nhìn một người phụ nữ có dáng lưng hơi gù, tưởng như là bà, nhưng rồi lại hụt hẫng. Một lần tôi hỏi một bà bán nước về một người tên Hồng, biệt danh là Mít, bà cười hiền, nói: “Mít Sài Gòn thì đầy ngoài chợ, chú muốn mua loại nào?” Tôi cũng cười, nhưng nụ cười trĩu xuống máu trong lòng.

Tôi gọi điện lại cho bác Mít. Nhưng bác cũng chỉ ậm ừ: 

- Tao đã vào đó bao giờ mô (đâu), chỉ nghe mẹ nó nói miệng vậy thôi.

Thế là hết. Hai tuần rong ruổi, ăn bánh mì lót bụng, uống nước suối ngoài công viên cho qua cơn khát, tôi đã xài sạch số tiền mang theo. Tôi nhìn ví, chỉ còn vài trăm ngàn rơi rớt ở đáy. Đủ thuê một phòng trọ nhỏ hẹp trong xóm trọ lao động thêm chừng một tuần. Không thể sống mãi bằng mộng tưởng, tôi quyết định đi tìm việc.

Tôi chọn làm xe ôm, một nghề từng giúp tôi sống sót thời sinh viên. Vừa có tiền, vừa tranh thủ rong ruổi khắp nơi để tìm Mít. Thời đó chưa có chạy Grab hay ứng dụng gì cả, mà chỉ là xe ôm truyền thống, đứng gốc ngã tư đợi khách, hay đón vội một người vừa từ bệnh viện ra, chở một chị đi chợ về muộn, hay lắm lúc là một gã say xỉn cần người chở về nhà.

Sài Gòn không bao giờ ngủ, nên xe ôm cũng không được phép nghỉ ngơi. Tôi chạy xe từ sáng sớm đến khuya. Có ngày kiếm được hai trăm, nhưng có ngày không đủ bữa cơm. Nhiều tài xế khác nhìn tôi lạ lẫm vì tôi còm nhom như thằng nghiện, cũng không biết giành khách như họ. Nhiều lúc tôi bị chen lấn, bị đá xe, có lần còn bị dọa đánh vì “tranh mối quen”. Một lần ngã xe ngay vòng xoay cầu Kênh Tẻ, trầy xước cả đầu gối và cùi chỏ, tôi ngồi thừ bên lề đường, máu nhỏ từng giọt xuống nền xi măng nóng hổi. Một bác già bán vé số thấy tôi, dúi vào tay tôi cái khăn lông cũ: 

- Chú em lau đi, đừng để chảy hoài vậy.

Tôi gật đầu cảm ơn, mà trong lòng trào dâng một nỗi tủi thân không tả nổi.

Tôi cứ vậy sống qua ngày. Mỗi đêm về, nằm vật ra trên chiếc giường ọp ẹp, chân tay rã rời, tôi lại mở điện thoại, nhìn vào danh bạ với tên “Mít” vẫn nằm đó, nhưng vẫn mãi chỉ là 

- Thuê bao quý khách vừa gọi hiện tại không liên lạc được…

Tôi không dám xóa đi, vì như thể đó là sợi chỉ mỏng manh cuối cùng níu tôi lại với hy vọng.

Mít à, em đang ở đâu? Em có biết tôi đang lang thang như kẻ mất hồn giữa thành phố mười triệu người này, chỉ để tìm một bóng hình mơ hồ? Em có biết tôi đã đổi biết bao vết trầy xước, bao đêm thức trắng, chỉ để mong gặp lại em một lần thôi?

Nhưng thành phố này lớn quá. Còn em thì vẫn biệt tăm.

Sài Gòn dần trở thành một mê cung bức bối. Tôi đã rong ruổi bao nhiêu hẻm nhỏ, ngõ sâu để tìm Mít, đến mức tôi thuộc lòng cả những con đường chẳng ai buồn nhớ tên. Nhưng Mít vẫn không có ở đâu cả. Tôi đăng báo, lên các nhóm tìm người, phát tờ rơi khắp nơi mà chỉ nhận lại là những ánh mắt thương hại, những cái lắc đầu, và vô vàn khoảng im lặng. Không một ai phản hồi, không một ai biết cô gái tên Mít có bà nội và mẹ từng ở quận 7.

Tiền cũng dần cạn. Công việc xe ôm thất thường, hôm có khách hôm không. Đôi lúc tôi phải xin cơm từ thiện ở các chùa hoặc nhà thờ, để sống qua ngày. Có bữa tôi chỉ ăn đúng một ổ bánh mì khô, uống nước máy công cộng, rồi lăn ra ngủ trong căn phòng trọ chật hẹp, ngột ngạt đến mức tưởng như không thở nổi. Tôi nghĩ, lẽ nào số phận mình chỉ đến thế thôi? Tốt nghiệp sư phạm, từng là người được học trò tin yêu, mà giờ phải sống lay lắt ở xứ người, như một bóng ma giữa Sài Gòn hoa lệ.

Tôi nghĩ đến việc trở lại nghề giáo. Dẫu gì, đó vẫn là điều tôi đã dành cả thời thanh xuân để theo đuổi. Tôi lặn lội tìm đến vài trường công ở quận xa, đem theo bộ hồ sơ đầy đủ, giấy chứng nhận, bảng điểm, bằng cấp… Nhưng rồi chỉ nhận được những cái lắc đầu. Người ta không nói thẳng, nhưng tôi hiểu. Không hộ khẩu Sài Gòn, không quan hệ, không có “lót tay”, thì làm gì có cửa. Tôi là người ngoài vào, một kẻ lạ hoắc từ miền Trung, mang theo bộ quần áo nhàu nhĩ và ánh mắt cạn kiệt niềm tin.

Tôi chuyển hướng sang trường tư, hy vọng ít ra ở đó sẽ có cơ hội. Nhưng trường tư thì lại khắt khe theo cách khác: họ đòi bằng đại học loại giỏi hoặc thạc sĩ, hoặc ít nhất phải có kinh nghiệm dạy ít nhất là một năm. Một trường quốc tế đồng ý cho tôi thử việc, nhưng điều kiện là ba tháng không lương, tự lo hết chi phí, tự túc toàn bộ. Tôi đã từng sống sót qua nhiều thử thách, nhưng giờ đây, cái sức chịu đựng ấy cũng như cạn kiệt. Ba tháng là một đoạn đường quá xa trong hoàn cảnh tôi hiện tại. Tôi lặng lẽ cúi đầu rời khỏi cổng trường ấy, như thể vừa đánh rơi thêm một chút tự trọng còn sót lại.

Tôi đi về trong ánh chiều vàng cháy trên những mái nhà chen chúc. Thành phố lúc đó đông nghẹt, xe cộ kèn cựa nhau, khói bụi và tiếng còi như quẩn quanh trong đầu. Tôi ghé vào một quán cà phê ven đường, gọi ly đá lạnh rẻ tiền. Nhìn vào mặt nước lấp loáng trong ly, tôi bỗng thấy chính mình cũng đang trôi lềnh bềnh như một xác không hồn.

Tôi nhớ đến ba. Đã bao lâu rồi tôi chưa nói chuyện tử tế với ông? Chuyến đi vội vã trước đây, tôi chỉ kịp nói một câu: 

- Con phải đi Sài Gòn gấp, con sẽ ở lại lâu đấy ba.

Giờ thì tôi mới thấm câu nói ấy, nó vang lên như một lời hứa suông. Tôi ra đi để theo đuổi một bóng hình xa xôi, nhưng đổi lại là nỗi đơn độc của chính mình và cả của người cha già ở nhà.

Tôi rút điện thoại ra, mở lại tin nhắn cũ của ba: 

- Vào tới nơi nhớ gọi ba nghe con.

Tin nhắn vẫn còn đó, chưa từng được tôi trả lời. Tôi không biết mình có đủ can đảm để đối diện với ông hay không. Nhưng có lẽ... đã đến lúc phải quay về.

1

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout