Năm mới tám tuổi, một người họ hàng xa mang đến tặng nhà họ Trần một con chó.
Con chó đó thuộc giống Bắc Hà, được mang đến từ miền núi lạnh lẽo phương Bắc, lông màu nâu đỏ lạ mắt, sợi lông dài và hơi xù. Dù còn nhỏ đã thấy được dáng chân khá dài, khác hẳn với giống chó cỏ nuôi cỡ nửa năm mới nhổ giò cao lên. Mắt nó ướt long lanh, chót tai có vài sợi lông vểnh hẳn lên trông cực kỳ đáng yêu. Chỉ nhìn qua, cậu Đăng đã lập tức muốn xin mẹ nuôi nó.
Bà Liễu vốn không thích chó, vậy nên đã lắc đầu. Cậu Đăng nói muốn nuôi một con chó để trông nhà, bà Liễu lại chỉ về phía con đường lòng vòng chạy khắp biệt phủ rộng lớn, len lỏi giữa những tòa kiến trúc nguy nga. Một con chó chạy hết vòng khắp căn biệt phủ này cũng đủ mệt, còn sức đâu mà trông nhà.
Người họ hàng xa đó bảo rằng giống này là chó săn trên núi, cực kỳ khôn lanh, lớn lên lại đẹp đẽ, lông dài lại còn hơi xoăn. Bà Liễu mới nghe đến giống chó lông dài thì đã nhăn mặt chê hôi với bẩn. Người họ hàng đành ngượng ngùng cười. Cậu Đăng thì cứ níu tay áo mẹ, ánh mắt dán chặt lên con chó nhỏ. Người họ hàng kia xoa đầu con chó, ý tứ nhìn thầy Tâm, chợt nhẹ giọng nói.
“Giống chó này một khi đã nhận chủ, vậy sẽ trung thành tới chết.”
Trong không khí giữa hai người đạt được một sự ăn ý khác thường. Sự giằng co chỉ còn trong cái nhíu mày khi bà Liễu nhìn con trai cứ quyến luyến bên con chó con. Thầy Tâm cuối cùng cũng mở lời.
“Nó thích thì cứ để nó nuôi chơi.”
Vậy là cậu Đăng được giữ con chó nhỏ đó lại, đổi lại bằng việc mỗi ngày phải tập viết chữ thêm một giờ trong suốt ba tháng.
Con chó nhỏ cũng rất nhanh nhận chủ. Cả ngày nó cứ quanh quẩn bên chân cậu Đăng. Con chó đó quả thực rất khôn. Dù có người cho ăn riêng, nó vẫn chỉ nhận một mình cậu Đăng làm chủ, cho cậu xoa đầu, xoa lưng. Những người hầu đến gần lau dọn trong phòng học và phòng riêng của cậu Đăng thường bị nó cảnh giác nhìn theo. Đến lúc nó đi tắm cũng phải có cậu Đăng đứng cạnh mới chịu yên.
Tuy nó chưa từng cắn người nhưng lại hay sủa, khiến bất cứ ai lại gần đồ của cậu đều phải dè chừng.
Cậu Đăng cũng rất chiều nó. Nhiều lúc thấy con chó cứ chạy theo sau mình, cậu tưởng như mình chính là một vị vua dũng mãnh, thuần hóa được một con sư tử từ núi tuyết.
Đám người ở ban đầu còn cười cợt con chó nhỏ xíu như nắm cơm sủa vang. Đến khi nó lớn, lông dài ra và hơi xoăn lại thành những dợn sóng đẹp đẽ, họ buộc phải cảnh giác trước hàm răng sắc nhọn của con chó.
…
“Chà, cậu cả hôm nay có mùi lạ quá.”
Bà Liễu vừa chúi mũi vào vai áo con trai, hít một hơi rồi đẩy nhẹ nó ra như trêu đùa, khiến cậu bé nhột nhột mà cười lên khanh khách. Nhưng rồi liếc thấy có người bước vào, cậu lập tức mím môi, không cười nữa. Bà Liễu thì vẫn cù nhẹ vào eo con trai, cố tìm cách khiến nó cười lên nhưng cậu Đăng chỉ lắc mình dằn dỗi tránh đi.
“Mùi gì thế nhỉ? Thằng chó con của mẹ hôm nay có mùi gì thế nhỉ?”
Bà lắc nhẹ đứa con, tìm lại sự chú ý. Cậu Đăng vẫn quay lưng về phía mẹ, lập tức giơ cánh tay mình lên mũi và hít thật mạnh. Trong xoang mũi chỉ có mùi quần áo đượm nắng cùng với chút mồ hôi bởi thời tiết nóng nực.
“Có mùi gì đâu ạ.” Mãi cậu Đăng mới lí nhí đáp lời mẹ.
“Có mùi đấy.”
Người phụ nữ lại cúi mình xuống hít hà vai đứa con. Mùi sữa thơm ngày bé dường như đã thực sự tan biến đi hết. Trên người cậu bé thoảng một thứ mùi xa lạ khác. Người phụ nữ liếc nhìn con chó đang nằm bên hiên nhà, áp nửa cái bụng xuống sàn, miệng thở hồng hộc không dứt. Con súc sinh ấy chưa bao giờ dám lại quá gần bà. Dường như nó thực sự hiểu được ý người. Giống như đám kẻ ở người hầu thấp kém, từ trong xương cốt ti tiện của nó tự động sinh ra cảm giác thần phục, sợ hãi những người cao quý hơn.
“Mùi gì ạ?”
Mãi rồi cậu mới chịu quay lại nhìn mẹ. Đôi mắt to dường như lấp lánh nước.
“Mùi của em bé không còn thương mẹ nữa.”
Cậu Đăng liền cúi gằm mặt, lí nhí nói.
“Con vẫn thương mẹ mà.”
“Thật không?”
“Thật ạ.”
“Vậy em bé thương mẹ thì phải nghe lời mẹ, đúng không?” Đôi mắt hơi vếch lên của bà giờ nheo lại, trông như một con hồ ly muốn tính kế trộm gà.
“Vâng ạ.”
Bà Liễu hơi mỉm cười, khóe môi cong cong.
“Ôi ngoan quá.” Bà không ngừng nựng con trai, rồi mãi mới nhẹ nhàng hỏi. “Vậy từ giờ con xích con Đỏ vào nhé?”
Cả hai mẹ con đều nhìn về phía con chó Bắc Hà ấy. Dường như biết mình bị nhắc tên, đôi tai nó cụp xuống thêm một chút, mắt ngước nhìn người phụ nữ sắc sảo, cái đuôi khua nhẹ trên mặt đất.
“Tại sao ạ?”
“Hôm trước cụ Kiểm đến nhà mình, nó suýt cắn cụ ấy. Con cứ để nó chạy long nhong như thế, nhỡ có ngày nó cắn cả khách của thầy con thì sao?”
“Tại hôm đấy, cụ Kiểm…”
“Cụ Kiểm là bạn của ông nội. Con chó dọa cụ sợ thì ông nội cũng không vui. Ông không vui thì mẹ cũng bị vạ lây. Em bé của mẹ có còn thương mẹ không?”
Thằng bé con nín lặng, cắn môi trong thoáng chốc rồi đành lùi một bước. Kể từ đó con chó Đỏ ấy bị xích lại trong sân viện của cậu Đăng, không còn được tự do đi lại nữa.
Một bước lùi sẽ chỉ là khởi đầu của một vạn bước lùi. Cứ mỗi lần cậu Đăng làm việc gì chẳng vừa ý mẹ thầy, con chó Đỏ lại bị phạt. Bởi cậu chơi với nó quá lâu mà lơ là việc học. Bởi vì con chó lông dài mang bệnh nên cậu mới bị ngứa. Từ những lỗi lầm nhỏ nhất, những thay đổi bất thường của cậu đều bởi con chó đó mà ra. Con chó bị phạt ăn, bị đánh. Thậm chí người hầu cũng có thể lén đá nó một cái rồi chạy khỏi tầm với của dây xích, khiến con chó giận dữ sủa mà chẳng làm gì được. Đến khi đó, bà Liễu chỉ nhỏ nhẹ nhắc rằng con súc sinh đó hãy còn hoang dã, chẳng thể nào thuần được.
Kể từ sau khi gặp lại Nhạn sau mấy ngày xa cách, bắt gặp ánh mắt mẹ mình nhìn con bé, cậu Đăng đã chợt nhớ đến con chó năm xưa đó của cậu.
Những món ăn dần được bưng lên bàn. Món rau để cạnh món mặn, đối xứng quan bộ bàn ghế rộng lớn. Như mọi lần, cậu Đăng bước vào, thoáng cảm thấy rùng mình bởi cái lạnh khác thường của nơi này.
…
Phòng ăn nhà họ Trần có ba gian. Gian chính ở giữa đặt một bộ bàn ghế khảm trai lộng lẫy để dành cho người lớn tuổi, chủ nhà cùng với vợ con người vợ cả. Nếu có khách quý, bàn cơm này vẫn đủ mời thêm cả một gia đình lớn nữa. Hai gian hai bên tuy rộng hơn nhiều nhưng bàn ghế được bày thấp hơn, cả phần trang trí nhưng đều có phần khiêm tốn hơn hẳn, vốn được dành cho các bà vợ lẽ.
Sau khi cụ Bảo mất, những người vợ lẽ của cụ cũng nhanh chóng rời đi. Có người đưa con lên thành phố, có người lại chạy hẳn ra nước ngoài. Chẳng ai ở lại được mảnh đất này. Mẹ của thầy Tâm, vợ cả của cụ Bảo đã mất từ nhiều năm về trước. Bà vợ lẽ thứ hai, người đã từng khiến bà cả bao phen uất nghẹn cũng là người vội vàng đi xa nhất ngay sau cái chết của chồng. Có lẽ lúc này bà đang lênh đênh trên con tàu xa xứ, cùng với những người Tây phương mắt xanh mũi cao, đến một mảnh đất mà chưa ai trong gia đình này từng nhìn thấy bao giờ.
Thầy Tâm cho đến giờ vẫn chỉ có một người vợ duy nhất. Bà Liễu là con gái nhà quan lại, sau lại có qua lại với người Phú Lãng Sa, cũng biết đến chế độ một vợ một chồng, bởi vậy nên khi thầy Tâm đến cầu thân, gia đình bà bóng gió nói rằng không muốn con gái thờ chung chồng. Thầy Tâm thực sự đồng ý. Lấy bà Liễu, nhà họ Trần lập tức vừa có tiền vừa có quyền, như hổ mọc thêm cánh. Còn yêu cầu nhỏ kia lại càng chẳng đáng là gì. Vốn là người lãnh đạm, thầy Tâm cảm thấy yêu cầu như vậy cũng chẳng có gì quá đáng.
Sau khi cậu Đăng ra đời, đứa con trai nối nghiệp khiến vị trí duy nhất của bà Liễu càng thêm vững chắc. Tiếp nối sau đó là một đứa em trai và một đứa em gái, gia đình đông đúc hơn nhưng cụ Bảo vừa mất, hai gian hai bên đều bị dọn sạch, căn phòng ăn còn có vẻ trống vắng hơn rất nhiều.
Quy tắc ăn uống trong gia chính luôn chặt chẽ hơn nhiều so với hai gian bên cạnh. Sau tiếng mời cơm, những tiếng nói chuyện nhanh chóng biến mất. Đũa đầu tiên phải gắp rau rồi mới đến thịt. Mỗi món nếu không kỵ thì đều phải đụng đũa, bất kể có thích hay không. Đồ ăn phải chú ý chọn từ món luộc rồi đến món xào, kho, cuối cùng mới ăn canh. Có thể nói chuyện vào đầu bữa ăn và cuối bữa ăn, nhưng khi đang ăn, hầu như chẳng ai nói câu nào. Người duy nhất được mở lời chỉ có gia chủ.
Còn hai gian hai bên, người đứa con vợ lẽ được phép thì thầm và cười đùa trong bữa ăn. Đôi lúc chúng lỡ miệng trò chuyện hơi to, đổi lấy một tiếng dặn dò hay tiếng hắng giọng của gian chính. Nhưng dù vậy cũng khiến căn phòng có thêm phần sinh khí. Giờ đây khi cả hai gian đều chẳng còn ai, những tiếng thì thầm râm ran ấy đều đã hết. Còn trong gian chính, đến đời thầy Tâm, người vốn ít nói, không khí trên bàn ăn lại càng thêm lặng lẽ.
Hôm nay có lẽ là lần đầu tiên cậu Đăng nhận ra bữa cơm nhà mình ngột ngạt đến thế. Cái lưng hơi cong của cậu từ đầu bữa đã rơi vào tầm mắt thầy Tâm. Đôi đũa chỉ động có vài lần, một bát cơm ăn ngắc ngứ mãi chẳng xong.
“Con sao thế?”
Thầy Tâm mở lời rồi bà Liễu mới đưa tay áp lên trán con trai. Bàn tay ấm nóng của mẹ khiến cậu Đăng thấy hơi ngột ngạt nhưng lại không dám né tránh.
“Thưa thầy, chắc tại trời nóng ạ. Con không đói lắm.”
Bà Liễu xoa nhẹ lên trán cậu Đăng, ánh mắt đầy vẻ lo lắng. Hơi nóng trong lòng bàn tay bà cứ lởn vởn trước cái trán mát lạnh của cậu. Trong một thoáng, cậu Đăng chợt nghĩ mình đang chìm trong hơi nóng của mặt trời.
Hơi nóng ấy khiến tâm trí của cậu co lại, những hình ảnh nhòe nhoẹt trước mắt và đầu cậu dần đau nhức.
“Nhìn con trông có vẻ ốm. Không khéo lại say nắng.”
“Nhưng…” Bàn tay nóng hổi lại miết nhẹ lên trán cậu lần nữa, đôi lông mày bà Liễu nhíu chặt. Mọi người trên bàn cơm đều chăm chú nhìn cậu. Cậu Đăng mím chặt môi. Cuối cùng bà Liễu mới thở dài khe khẽ. “Có lẽ là ốm thật. Hay con đi nghỉ sớm, lát nữa mẹ sẽ mang cháo đến cho con.”
Lại cháo.
Mùi vị món ăn cuối cùng trong miệng cậu Đăng lập tức trở nên nhạt nhẽo, giống như một miếng cháo bỏ chút muối.
“Con không sao đâu ạ.”
Ăn nốt bát cơm nhỏ rồi kết thúc bằng một chút canh, bữa cơm của cậu Đăng ngay ngắn kết thúc trong đôi mắt giãn ra hài lòng của thầy Tâm.
Chợt cậu Đăng nhận ra khi ở trước mắt thầy mình, cậu có lẽ cũng chẳng khác gì Nhạn trước mặt cậu. Hay vốn những kẻ đứng ở bậc thang thấp hơn đều phải thế, phải nhìn từng sắc mặt để cúi đầu làm theo. Một cái nhíu mày có thể là một lời kết án tội, một nụ cười nhạt cũng có thể nâng niu thành chút khích lệ.
Nghĩ đến Nhạn, đôi mắt cậu Đăng cụp xuống, che giấu những suy nghĩ mông lung chẳng rõ ràng. Bàn tay cậu lặng lẽ dịch về phía chiếc túi bên hông, áp lên món đồ vật cộm lên trong chốc lát.
Đến khi bữa cơm đã xong, thầy Tâm đứng dậy trước thì cậu Đăng mới chống tay đứng dậy. Khuôn mặt cậu hơi tái, đôi môi mím chặt. Bà Liễu cứ dõi theo đứa con trai cả mà mãi chẳng thấy cậu nói gì.
Thầy Tâm chỉ nhìn hai mẹ con một thoáng rồi bước về phía nhà chính. Những đứa trẻ lễ phép cúi đầu rồi tản đi chơi.
“Con cứ về phòng trước đi, lát nữa mẹ sẽ…”
“Thưa mẹ, không cần đâu ạ. Con chỉ cảm thấy hơi khó chịu thôi.”
Bà Liễu gật đầu, biết con trai vốn cũng chẳng đau ốm gì. Còn cái khó chịu của cậu có thực bởi nắng nóng không thì vẫn còn phải xem thêm. Bà chỉ về phía cái đình nghỉ chân bên ngoài, cậu Đăng lập tức đi theo. Cái hồ bên đình khiến không khí thoải mái hơn. Ánh nắng hắt xuống mặt hồ như một lớp vàng lấp lánh nhảy múa dưới ánh mặt trời. Khi đi ngang qua đoạn đường dẫn đến đình nghỉ mát, cậu Đăng chợt đứng lại, nhìn ánh sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời trong chốc lát. Cả ánh sáng hắt từ mặt hồ dường như cũng phản chiếu lên gương mặt cậu, khiến đôi mắt cậu hơi nheo lại, xoa lên đôi lông mày hơi nhíu và đôi môi luôn vô thức mím chặt.
Bà Liễu quay lại, nhìn thấy con trai lơ đãng trong phút chốc rồi mời bước về phía mình.
“Phải chăng trong lòng con có gì không vui. Cứ nói cho mẹ biết.”
Cậu Đăng theo mẹ ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Người hầu vội vàng muốn đi pha trà nhưng bị bà Liễu ngăn lại liền lui xuống.
“Không có gì đâu ạ.”
“Có gì không vừa ý thì phải nói, tuyệt đối không được phản kháng.” Bà Liễu hơi lạnh giọng.
Khi nãy, trong bữa cơm, cậu đã chẳng gắp một miếng thịt nào. Có thể mẹ đã để ý đến điều này. Cậu Đăng muốn bật cười nhưng lại không dám. Mẹ cậu biết nếu cậu không vui thì sẽ không gắp thịt, nhưng lại chẳng bao giờ biết vì sao cậu lại có thói quen này.
“Con biết rồi, thưa mẹ.”
Bà Liễu nhíu mày càng sâu.
“Vậy thì làm sao?”
Một bước lùi sẽ chỉ là khởi điểm của một vạn bước lùi. Cậu nhẩm điều đó trong đầu. Nhưng nếu tiến thêm một bước thì cũng chẳng khác gì đâm thẳng vào tường.
“Từ nay, thằng Hậu sẽ quét phòng cho con ạ?”
Bàn tay bà Liễu siết lại trong chốc lát.
“Con không thích nó sao?”
“À, con chỉ hỏi vậy thôi.”
“Nếu để con Nhạn quay trở lại, con sẽ hứa với mẹ điều gì?” Bà Liễu nheo mắt, khiến đôi mắt hẹp lại, che giấu đi những tính toán nhỏ trong lòng.
Cậu Đăng thì lại hơi lắc đầu.
“Không ạ. Con chỉ hỏi thôi.”
Ba hôm tiếp theo, cậu Đăng ngồi trước bàn ăn giữ đủ lễ nghi nhưng ăn chẳng được mấy đũa. Bài vở làm đủ nhưng không còn luyện chữ luyện tranh, phần lớn thời gian cậu chỉ ngồi nhìn ra khu vườn.
Cũng chính sau khoảng thời gian giằng co ấy, con Nhạn lại được chuyển về hầu cậu lần nữa.
Bình luận
Chưa có bình luận