2.
Năm đó, thầy phú hộ Bảo nằm võng đi xem đồng lúa làng Chiêu Hạ thì bị phục kích.
Đoàn cán võng lọng đang đi thì chợt một cái cây ven đường đổ ụp xuống, suýt soát đập vào đầu thằng ôm tráp đi đầu. Thầy phú đang ung dung hút thuốc dưới bóng lọng che nắng thì bị đung đưa khiến sặc một chút.
Đẩy thằng hầu cầm trầu thuốc bên cạnh ra, thầy nhìn đoàn người phải dừng lại bên con đường nắng nôi thì bắt đầu chửi. Thằng hầu quạt vội mạnh tay hơn.
Cũng chính lúc đó, từ trong bụi rậm nổ ra ba tiếng súng đanh và gọn. Viên đạn đầu tiên đi lệch, trúng phải thằng hầu bưng trầu xách nước khiến nó khuỵu xuống. Viên thứ hai trúng ngay tim thầy phú, nhưng chừng như còn chưa yên tâm, viên thứ ba vẫn được bắn ra. Thằng hầu xách nước đã trúng một viên, chẳng hiểu nghĩ gì lại nhào lên chắn cho thầy viên đạn cuối.
Vậy là phận nó đã quyết chẳng thể sống. Những thằng hầu khác sợ hãi tán loạn, có thằng vứt cả võng, cả lọng. Thầy phú bị quăng cả dưới đất, ngồn ngộn như một tảng thịt rừng.
Mà quả thật, ngay sau viên đạn thứ hai, thầy chỉ kịp ú ớ một tiếng rồi tắt thở.
Thằng hầu trầu nước bị văng ra nhưng máu của nó đã kịp rơi xuống người thầy phú.
Có kẻ sực tỉnh, vội vàng lao về phía có tiếng súng. Trong bụi rậm có tiếng chạy thình thịch. Nắng hun mùi đạn dược khen khét hòa với mùi máu mà bốc lên, hòa vào gió.
Máu của thằng hầu hòa với máu thầy phú, thẫm lại trên nền đất.
…
Kẻ phục kích là một đám dân cày bị cướp đất lên núi làm giặc cướp. Bọn chúng mua được súng từ những tay buôn lậu. Đạn bắn ra ba viên. Thầy phú Bảo vừa trúng một viên liền nhanh chóng tạ thế. Vậy mà cái thằng hầu bưng trầu xách nước, lao ra đỡ đạn cho thầy trúng tận hai viên mà phải đợi đến khi kèn tang của thầy cất lên mới chịu tắt thở.
Những thằng khiêng võng che lọng cho thầy hôm ấy đều bị đánh cho tàn tật. Cái thằng duy nhất được tha thì lại phải chết.
Đứa con trai trưởng nhà thầy Bảo giờ đã nối nghiệp cha, được dân chúng trong vùng cúi đầu gọi là thầy phú Tâm. Việc đầu tiên thầy Tâm phải làm ấy là lo liệu cho đám tang của thầy mình. Đám đã hòm hòm, chưa đến ngày đưa người nhập mộ, thầy mới có thời gian mà gọi vợ con thằng hầu trầu nước đến.
Cứ nghĩ cảnh thằng hầu trầu nước đè lên người thầy mình, giây máu lấm lem, thầy Tâm lại nghĩ có khi nào cha mình buồn cái áo lụa chăng. Bởi vậy, hôm nay thầy gọi nhà vợ nó đến, bắt mang xác nó phải chịu đem thiêu bằng sạch, không được chôn nguyên vẹn.
Thầy Tâm ngồi trên cái ghế gụ khảm trai, hoa văn lớp lớp ánh xà cừ. Bấc đèn dầu được vặn lên, ánh sáng hơi lay động, khiến cái bóng của mẹ con đang quỳ gối gần đó cũng lung lay.
Kể từ lúc đưa ra yêu cầu của thầy, mẹ con Nhạn chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Thầy Tâm chẳng vội. Thầy nhấc một quân cờ trên bàn. Không giống những quân cờ tướng tròn, quân cờ vua của phương Tây được khắc hình tỉ mỉ, tạo dáng nào ngựa, nào xe. Cả quân vua và quân hậu đều được đội mũ miện. Thầy Tâm xoay quân cờ giữa những ngón tay, vuốt lên mũ miện, mãi rồi mới đặt trở lại bàn cờ.
Tiếng quân cờ rơi xuống chấm dứt khoảng im lặng.
“Không phải tôi cố tình làm khó nhà chị, nhưng quả thực việc nào phải ra việc nấy.”
“Dạ con xin thầy.” Bà Lan lau vội giọt nước mắt, cố gắng giữ hơi thở để tiếng nói không nghẹn ngào. “Chồng con mới mất, xin thầy cho chôn về đất.”
“Khó lắm.” Thầy Tâm thở dài.
Bên ngoài, đám tiệc mới tan, những kẻ khóc mướn rên rỉ, âm thanh dù đã không còn hăng hái như ngày đầu, nhưng lại mang vẻ tiếc thương kiểu khác. Những kẻ được việc quả nhiên luôn có cái khôn lanh riêng của chúng.
“Bên ngoài nói chồng chị chắn đạn cho thầy tôi. Nhưng phải nói thật, phát đầu tiên là chúng nó nhắm vào chồng chị, và vậy chắc gì phát thứ hai, thứ ba đấy chẳng phải vốn dĩ cũng là của chồng chị, thầy tôi chẳng may mà gặp chuyện tai bay vạ gió?”
Bà Lan nghe vậy thì thậm chí còn chẳng dám chảy nước mắt nữa. Một khối khí dâng lên, nghẹn trong họng bà, khiến cả cái đầu đều căng tức. Đầu bà cúi thật thấp, dường như muốn vùi mình vào chính lòng mình, giấu đi đôi mắt như muốn lồi cả ra vì áp lực.
“Thầy tôi mất đi còn phải mang tiếng xấu, chồng chị lại được cái danh quên mình cứu chủ. Chị xem, oan trái lắm thay.”
Tiếng thở dài của thầy Tâm rất nhẹ, vậy mà khi âm thanh đó luồn vào tai bà Lan lại như thổi phồng cái khối đang nghẹn lại. Bà bấu chặt nhưng ngón tay vào đùi, cố gắng giữ bản thân đừng sụp hẳn xuống. Con bé Nhạn ngồi cạnh cũng chỉ biết cúi đầu.
Thầy Tâm dường như chẳng màng đến người đàn bà đang co rúm lại chực chờ muốn nổ tung như bong bóng cá bị bóp chặt.
“Thôi thì trời kêu ai người nấy dạ, La Hầu chiếu mạng, thầy tôi run rủi mà vướng phải ân oán nhà chị, trăm sự không may. Người nay đều đã cưỡi mây về cõi thiên thu, tôi chẳng muốn thầy tôi còn chịu cái tiếng xấu. Chồng chị đã chết đành thôi nhưng thế nào cũng vẫn phải chịu tội. Tiền của chị, nhà tôi chẳng cần. Nhưng xác chồng chị, nhất định phải đem thiêu.”
Ở cái mảnh đất này, người chết thì đều được chôn về với đất. Người giàu thì bốc mộ, cải táng, kẻ nghèo hèn thì nằm im cùng con giun cái dế. Chỉ có kẻ chết vì bệnh dịch hay thân mang tội mới phải đem đi đốt thành tro.
Bà Lan cúi đầu lạy lục, rầm rì mấy tiếng.
“Xin thầy rủ lòng thương…”
Thầy Tâm thấy vậy thì thở dài, đặt xuống bàn mấy đồng tiền rồi bỏ đi.
Bình luận
Chưa có bình luận