Rộn ràng giữa tiếng người nhốn nháo là âm thanh pháo tép lách tách nổ. Đêm nay là giao thừa. Phủ Lý rực rỡ sắc đỏ như chính lời cầu may của kẻ phàm trần. Thoảng theo trong gió nhẹ là hương nhang trầm, vất vưởng từ trong phòng thờ gia tiên. Đám người hầu vẫn bận rộn không nghỉ. Họ bưng từng mâm đồ cúng vào gian thờ, để thầy đồng làm lễ cầu bình an.
Ông Lý chắp tay cầu khấn, xong xuôi thì dặn bà Lý mang lễ đến dâng lộc ở miếu làng. Cúng gia tiên xong, lão gia lủi thủi vào một gian phòng thờ nhỏ khác. Nơi đó tứ phương đều giăng kín rèm lụa. Bàn thờ kê cao sát tường, trướng đỏ treo ngang tỉ mỉ từng đường kim chỉ vàng, thêu rồng phượng uốn lượn. Ông cẩn thận, vén mành điều cột sang hai bên.
Trên bài vị khắc tên người vợ quá cố - là một cô đồng. Khi còn sống thì xem quẻ, gieo duyên, lúc mất đi thì linh thiêng, âm dương phù trợ. Có chuyện chẳng lành, hay mồ mả gia tiên bị quấy phá nhất định sẽ trở về báo mộng. Dù cho đã mất từ lâu nhưng người sống trong phủ này, ai cũng vừa kính vừa sợ.
Hơ ba nén nhang trên ngọn nến đỏ. Đầu nhang bắt lửa thiêu cháy rồi tắt lịm, hương trầm tỏa ra theo khói trắng nghi ngút. Ông nhẹ cắm nhang lên bát hương, chắp tay rồi khẩn:
“Phu nhân tuy đã rời biệt cõi trần, nhưng việc mình tiên đoán vẫn đang diễn ra từng ngày. Con trai cũng lớn, di ngôn xưa mình để lại thằng bé vẫn kiên định làm theo. Số mệnh nó vốn trắc trở, người gánh mệnh cũng đã xuất hiện… Tôi gây nghiệp cũng có lúc nhận quả báo, đúng như mình bảo. Có lẽ… nghiệp báo sắp tới rồi.”
Một bóng người hối lỗi thắp nhang, đằng sau lại có ai đó đang khẽ thở dài. Biết sẽ phải gánh chịu quả báo, vậy sao ông còn gây ra lỗi lầm?
Lão gia cầm lên chiếc đĩa sứ và bát men, đặt bên trong là hai đồng xu nhỏ. Ông lẩm bẩm điều gì, rồi xóc nhẹ, làm đồng xu va vào lòng bát phát ra những tiếng leng keng, vang vọng giữa không gian tĩnh lặng. Vài nhịp vừa cất đã dừng. Ông từ từ mở bát. Hai đồng tiền rơi ra, đều là mặt sấp. Ông Lý tái mặt, đôi mày nhíu chặt như đã thấy điều chẳng lành hiện rõ trước mắt:
“Quẻ hung. Chẳng lẽ…”
…
Ngoài trời, trăng treo trên cao đã bị nuốt chửng bởi những tảng mây khổng lồ. Như cái điềm không lành trong quẻ đã ứng. Đám trẻ con khua vung inh ỏi, la oai oái:
“Gấu ăn trăng rồi! Gấu ăn trăng rồi!”
Dưới gốc cây cổ thụ đầu làng, Lý Hào nghe thế cũng ngước lên nhìn trăng. Một dự cảm chẳng lành ùa đến. Cơn gió lạnh như kéo theo có câu nói xưa của u từng dặn: “Sẽ có lúc phủ ta phải trả nghiệp. Những hạt mầm oán hận từng gieo xuống, đủ nước sẽ nảy mầm và sinh sôi. Đời trước gây ra thì đời sau gánh chịu. Nhân quả không thể tránh.”
Nghiệp phủ Lý gieo xưa nay không ít. Cậu thiếu gia nhà họ áy náy, đêm giao thừa năm nào cũng làm việc thiện, chia cơm sẻ áo mong có thể vơi đi phần nào nỗi canh cánh trong lòng. Lý Hào cho người chuẩn bị rất nhiều bánh nếp, gạo trắng tự mình đi phát cho dân nghèo, ăn xin xó chợ. Mấy năm nay có thêm Mễ đi cùng, người ta thấy cậu dễ mến nên cũng bớt đi sự kiêng dè hơn với thứ đồ thiếu gia họ cho.
Anh thẫn thờ nhìn từng người dân gầy guộc kéo đến nhận gạo rồi lê lết rời đi. Họ không có tội, tội lớn nhất là sự tham lam của chính những kẻ khoác trên mình lớp áo quan, mà quăng lưới cướp sạch của cải của nhân dân. Anh không phục, không cam. Bị gán cái danh ‘thiếu gia phủ Lý’ đã khiến lòng tốt của anh biến thành sự ăn năn, hối lỗi. Họ nhận lương thực, nhưng cũng chỉ cứu đói được vài bữa. Sau đó thì sao? Đói nghèo quay về, bất công đầy rẫy. Họ lại đau khổ. Khi đó, điều anh làm chỉ là một sởi chỉ mủn, víu lấy hai đầu vải đã bị xé toạc từ lâu. Tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Từ xa, bà Lý vừa dâng lộc về. Thấy đám người nhốn nháo xin ăn, bà ta chướng mắt mà phủi tay ghét bỏ. Thằng Tiều lúc nào cũng kè kè bên cạnh, hắn dùng lực xô mạnh làm đám người gầy như con muỗng bị vật đổ ra đường. Bà Lý cau mày, dặn thằng Tiều mang lễ về trước còn mình đi mua ít đồ. Hắn ngoan ngoãn nghe lời, chặn đám người kia lại để đường cho bà đi.
Thoạt nhìn qua, Hào nhận ra bóng bà. Đêm hôm khuya khoắt, người đàn bà ấy lại còn mò đi đâu?
Ẩn trong màn đêm, bà Lý vừa đi vừa liếc ngang dọc. Từng bước chân lộc cộc cũng trở nên vội vã hơn. Cái vẻ thần bí, lén lút ấy đều thu trong tầm mắt của một kẻ bám đuôi.
Dừng chân trước một ngôi miếu hoang. Bước vào sân trong, lấp ló ánh nến heo hắt. Nơi đây cỏ lá mọc đầy xung quanh, mạng nhện giăng vương đầy trên tóc. Bà Lý khẽ tay đẩy cửa, chậm rãi bước vào trong.
Cánh cửa gỗ hé mở. Một người đàn bà lạ mặt bước ra:
“Phu nhân tới rồi sao? Đêm khuya thế này, phiền bà quá.”
Lý phu nhân mỉm cười, nói:
“Không phiền. Bà không hẹn tôi cũng tự tìm đến thôi… Chúng ta cần sớm gỡ bỏ thứ cản đường. Để càng lâu, càng khó ra tay.”
Người đàn bà khẽ nhếch khóe miệng, ánh mắt sắc lạnh nhìn bà Lý.
“Có vẻ phu nhân tới đây, còn tiện đường dẫn theo cả con trai tôi nhỉ?”
“Thằng Du sao?” Bà phu nhân bất ngờ, quay ngoắt về phía sau. Cái bóng đen phía cổng cũng bước ra ánh sáng.
Cánh cổng gỗ khẽ động, sợi tơ nhện bị kéo mà căng như cước. Du bước ra, anh cúi đầu kính cẩn người đàn bà kia. Gọi một tiếng: “U.”
U của Du - bà Sự. Một người đàn bà sống ẩn dật. Chẳng ai biết thường ngày bà ta ở đâu, muốn gặp được thì chỉ có cách đến nơi hẹn trước hoặc nhận được thư của bà. Bà Sự bước xuống sân, khẽ đặt tay lên vai Du, thì thầm:
“Sao rồi? Có tin gì mới từ phủ Lý không?”
Anh im lặng, lắc đầu.
“Vô dụng. U sinh con ra, đưa con vào đó không dễ dàng gì. Vậy mà một cái móng tay nhà họ cũng không động được.” Bà Sự cau mày, dúi mạnh tay vào trán anh.
“U không hỏi bà ấy? Bà ấy kề cận lão gia, ắt biết rõ hơn con nhiều.” Anh vặc lại.
Bà Lý trừng mắt quát:
“Mày nghĩ lão già đó thật sự tin tao à? Ông ta ngày đêm bên ngoài phủ, còn chẳng thèm để tao vào mắt.”
Không khí trong miếu chợt trở nên đặc quánh, xen lẫn là mùi khói nhang. Bà Lý - một người đàn bà sắc lạnh, đanh dạ chẳng giấu nổi sự cay độc trong ánh mắt.
Bà từng tin vào lời dụ dỗ đổi đời, được yêu thương, chiều chuộng của tên phú hào ấy. Ngày đó, hắn tỏ vẻ nho nhã ngồi dưới đài mà hướng ánh mắt thâm tình nhìn bà. Không tiếc tiền, tiếc danh mà cưới một đào hát.
Tưởng đâu sau này sẽ là ngày tháng hạnh phúc. Nhưng hắn là kẻ hai mặt, ngày thì đoan trang, đêm thì là kẻ cầm thú, vũ phu tàn độc. Mỗi lần bà Lý lỡ miệng xúc phạm, hay chỉ vừa làm trái ý thằng con riêng kia, sáng hôm sau, thân thể bà lại hằn thêm những vết thương mới.
Đứa con riêng như cái gai đã ghim sâu từ lâu trong mắt bà. Chỉ cần nhổ sạch bụi ngai ngáng đường, giết lão già kia cũng chỉ là sớm muộn.
Nhìn ngọn lửa đang điên cuồng trong mắt phu nhân, lòng dạ bà Sự lại càng hả hê. Một con mã đơn độc, nhưng lại đầy thù hận. Nó đang dần tiến sâu vào chính giữa bàn cờ. Chỉ cần người chơi đủ sáng suốt nắm bắt, nhất định sẽ ăn gọn đám lính bờ bên kia. Thuận nước đẩy thuyền, bà Sự lấy trong túi ra một gói giấy ngà, đưa cho bà Lý.
“Đây là bột thạch tín. Pha vào nước, mắt thường không thể phát hiện được. Đem nó đổ vào nước của Lý Hào. Còn lão già kia, chúng ta phải để hắn sống. Để hắn trả bằng sự đau đớn, để hắn mất đi cốt nhục máu mủ, phải để hắn nếm trải thứ mà hắn từng ép buộc tôi làm.”
Bà Lý hơi sững người. Dù cho vừa rồi ngoài miệng thì rất độc, nhưng khi nhận lại có chút ngập ngừng.
Đứng trước hai người đàn bà mù quáng vì hận thù. Du không nói gì. Dưới ánh nến, đôi mắt anh tối lại, không ai biết trong lòng là biển lặng hay sóng cả, thuận hay không chỉ anh hiểu rõ. Anh chọn cách im lặng, như cây khô trơ cành mặc cho gió đẩy vẫn không hề dao động…
Sáng hôm sau. Mặt trời còn chưa kịp ló rạng, phủ Lý đã tấp nập từ lâu. Các viên quan dưới trướng đều đã mang quà đến kính biếu đầy sạp. Nào là gấm vóc lụa là, nào là hoa thơm, quả ngọt, tiền bạc, đá quý… Nhiều lễ như vậy, ắt hẳn không chỉ đơn thuần là nể nang, kính trọng mà mỗi người đều có ý thả mồi câu cá lớn. Điều này không cần nói bằng lời, ông Lý cũng ngầm hiểu.
Đám quan lại rầm rĩ trong gian nhà lớn đến khi nắng xuân chiếu rọi, ồn ào náo nhiệt nhưng sặc nồng mùi giả tạo.
Mấy vạt nắng đem mình vắt lên cành lê trắng. Soi vẻ long lanh của hạt mưa phùn âm thầm, chúng đọng lại rồi nuôi mầm xanh non. Hào ngồi trong gian phòng tiếp khách, nhìn từng gương mặt méo mó đầy miễn cưỡng anh lại thấy khó chịu trong lòng.
“Thưa thầy, xin phép con rời đi trước. Thất lễ với các quan rồi.” Lý Hào cúi đầu, chắp tay rời khỏi gian nhà lớn.
Anh đến bên bờ ao, nhìn đàn chép vàng vẫn vô tư quẫy nước. Cặp mi khẽ rủ, anh ngồi tựa mình xuống tảng đá lớn. Trong phút chốc lơ là, một cơn đau rát truyền đến từ phía cánh tay.
Hào đưa tay lên. Kiến lửa? Tại sao ở đây lại có kiến lửa?. Chỗ bị phun độc trở nên nóng rát như đang đốt lửa dưới da. Vết đỏ sưng phồng, khiến anh khó chịu. Đây là lần thứ hai anh bị kiến lửa đốt. Vốn trước đó anh bị dị ứng nặng với loại độc này, ắt hẳn lần hai cũng sẽ gây ra hậu quả tương tự.
Phía bếp gỗ, Mễ vừa nấu xong cơm sáng. Cậu bưng mâm, đặt xuống phản rồi lật đật chạy ra gọi anh:
“Cậu ơi. Cơm con nấu xong rồi.”
Anh thoáng lặng người khi nghe tiếng gọi của Mễ. Nhìn dáng vẻ hí hửng ấy, với mâm cơm Tết mà cậu hì hục từ sáng giờ cho anh. Hào giấu vội cánh tay nổi nốt đỏ như vết ruồi son đang bỏng rát dưới lớp áo dày. Bao lần chịu đòn ở doanh trại, chẳng lẽ vết thương nhỏ cũng không chịu được sao? Anh mỉm cười với cậu, nén cơn đau vào trong.
“Ừ. Tôi ra ngay đây.”
Ngồi dưới tán hoa trắng, cánh hoa đậu trên chiếc khăn vẫn đen. Làm nổi bật thêm phần nho nhã của thiểu gia phủ Lý. Anh động đũa, từ tốn khều từng miếng cơm trắng nóng hổi. Mỗi hơi thở phả ra theo đó là ngọn khói nhỏ.
Nay anh im lặng, chỉ chăm chú dùng bữa. Có lẽ lại có chuyện gì khiến anh không hài lòng. Mễ nhìn anh mà thấy hơi bối rối. Trước giờ, anh lúc nào cũng để ý đến cảm xúc của cậu mà đối đãi. Lúc này đây, thấy vẻ anh rầu rĩ cậu cũng không đành. Mễ thở hà hà, rồi chỉ tay vào đám khói:
“Trời lạnh con thở ra khói luôn này cậu. Cứ như hơi nước của cái chõ xôi ấy.”
Câu đùa nhạt của cậu chỉ nhận được cái đáp lại gật đầu của anh. Bầu không khí càng trở nên trầm lặng, thằng hầu thì loay hoay suy nghĩ bày trò, còn Lý Hào thì âm thầm nín nhịn cơn đau thể xác. Anh ăn xong, đặt đũa xuống rồi đứng dậy luôn.
“Cậu dọn đi. Tôi về phòng có chút việc.”
Nói rồi anh quay lưng rời đi. Mễ không biết vì sao hôm nay anh lại lạnh nhạt như vậy. Có phải cơm nấu không ngon? Hay cậu lại làm sai điều gì khiến anh giận dỗi?
Tới gần trưa, nắng xuân càng ấm áp. Thế nhưng Lý Hào vẫn nhốt mình trong phòng. Dù cho Mễ nhiều lần gọi cửa, anh chỉ nói mình bận, không cho cậu vào.
Mễ lủi thủi ra cạnh ao cá. Mấy con cá chép vẫn tung tăng bơi lội. Thấy bóng người quen thuộc, chúng lại ngó lên mặt nước mà bơi sát lại cạnh bờ. Mễ ngồi xổm trên tảng đá lớn, thò tay xuống ao, trách:
“Lũ cá đần. Tao là người câu chúng mày lên, để om mẻ đó. Vậy mà còn tự dâng mạng tới bờ cho tao sờ nữa hả?”
Trên mặt ao đang dậy những vòng sóng nhỏ, xuất hiện thêm mấy vòng li ti.
“Kiến lửa? Ở phủ Lý mà cũng có kiến lửa sao?”
Ngẫm nghĩ một lát. Cậu nhìn mấy con kiến độc kia, đột nhiên nhớ đến ánh mắt trầm lặng khác thường của Lý Hào hồi sáng. Như nhận ra được vấn đề lạ. Rồi cậu bất chợt đứng dậy, vội vàng chạy tới cửa phòng Hào, sốt ruột gọi lớn:
“Cậu ơi! Cậu!”
Mễ gọi mãi mà không thấy tiếng Hào đáp lời. Không lẽ… cậu bị kiến cắn rồi? Mấy năm trước vì độc kiến lửa mà dị ứng nặng, lần này không chừng biến chứng vẫn nặng như thế.
Không chần chừ, cậu kéo mạnh cửa, nhưng chiếc xen cài bên trong đã bị đóng chặt. Những lúc bất lực như này hình bóng Du lại bất ngờ xuất hiện. Anh không biết đã đến cửa phòng Hào từ bao giờ, một lực kéo mạnh đã phá hỏng cánh cửa kia.
Bình luận
Chưa có bình luận