Lâu lâu người ta thấy có mấy bà hội đồng, phu nhân của quan trên tỉnh đi xe ngựa về cái xóm nghèo này, tới ngay cái cống nước mà ngồi chờ trước nhà bà coi bói. Gặp người trong xóm hỏi, họ chỉ cười mà không trả lời.
Mà cũng nhờ vậy á, mấy thằng cai, mấy ông xã ông lý ở xóm này đâu còn dám làm dữ với dân. Thấy dân khổ mà không dám bóp cổ ép lúa nữa. Người trong xóm cũng kính trọng bà hơn, nói thiệt có khổ gì cũng nhờ bả mà đỡ phần nào.
Có điều... cũng có người không tin.
Đó là thằng Đạt thằng côn đồ ở xóm trên, cái miệng thì như búa bổ, gặp ai cũng chửi, nhắc tới bà Lựa là nó phun đủ thứ tiếng chó tiếng mèo, nói bà là thầy bùa xạo, quỷ đội lốt người. Tối đó nó nhậu say, vừa đi vừa chửi bới ngoài đường. Đến sáng ra người ta thấy nó nằm co quắp trong bụi tre, người không máu, không thương tích.
Đưa vô trạm xá, bác sĩ lắc đầu: "Không phải tai nạn. Nó như bị rút khí vậy. Coi chừng... liệt giường."
Vợ nó hay tin, khóc ngất.
Đem trái cây, nhang đèn, dẫn theo ba đứa con thơ đến lót dép nhà bà Lựa quỳ lạy xin tha.
Lúc đó trong nhà đang tối thui, chỉ có cái đèn dầu leo lét với mùi trầm quện mùi lá khô héo. Bà Lựa ngồi xếp bằng, thản nhiên: "Tôi đâu biết chuyện gì đâu cô. Chồng cô uống rượu, ngủ ngoài bụi rồi trúng gió, vậy thôi."
Nhưng mà bà thấy ba đứa con nhỏ dại của cô kia đứng nép bên vạt áo mẹ, mắt tròn như cá lia thia bị hốt khỏi nước, bả mới thở dài, móc trong tủ ra một mảnh vải đỏ gói kín đưa cho vợ thằng Đạt.
Bà dặn: "Về đốt lên, nấu với nước mưa, canh giờ Tý đổ cho nó uống. Đợi ba ngày rồi coi có êm không, nếu mà êm thì chắc là tỉnh lại còn mà không thì thôi... Trời cứu, chứ tôi cứu cũng không nổi nữa.
Bởi người ta nói cái miệng hại cái thân.
Mà đừng có mở ra coi cái gì bên trong... Mở ra là có gì tự chịu."
Vợ thằng Đạt mừng hú hồn, nước mắt nước mũi quẹt đầy tay áo, chấp tay lạy rối rít: "Cảm ơn bà cứu... Ơn lớn như trời, con không dám quên..."
Bà Lựa chỉ ngồi đó, mắt không rời bóng bốn mẹ con lom khom dắt nhau về, nhỏ nhất còn được cõng trong cái đòn tre ọp ẹp.
Bả châm nhang, đưa mắt lên cái hộp gỗ đen xích kín trên bàn thờ, rồi thở ra khẽ khàng: "Người ta nói có mấy câu... Có mắc miếng thịt nào đâu mà giận dữ vậy...
Thôi, đừng trách người trần mắt thịt họ đâu thấy chuyện ở trên."
Vậy mà ba ngày sau, thằng Đạt tỉnh, không cần châm nước biển, không cần điện châm hay gì hết trơn nó tự mở mắt, thở dài một hơi dài như trút gió, rồi... ngồi dậy.
Ai hỏi chuyện gì xảy ra, nó chỉ lắc đầu, mặt đờ đẫn như chưa tỉnh hết: "Tui... nhớ là đi về nhà... nhậu xong mệt nên ngủ... mở mắt ra là thấy nằm trong trạm xá..."
Doctor trạm xá thì tròn mắt: "Kỳ tích thiệt. Nặng vậy mà sống lại được, chắc là... mạng lớn."
Nhưng người trong xóm thì đâu có tin vô may rủi. Họ thì thào với nhau sau lưng: "Nó bị bà Lựa phạt đó chớ... may là vợ nó biết đường quỳ gối mà xin."
Có người nghe đồn rằng đêm đó lúc thằng Đạt mở mắt trong trạm, y tá trực ca thấy miệng nó còn nhả ra một con trùng trắng nhỏ như sợi chỉ, bò ngoằn ngoèo trên nền gạch rồi biến mất. Không ai dám tun tin đồn gì nữa, người ta chỉ kháo nhau rằng Bà Lựa có ngải, nói ra coi chừng mắc họa.
Từ sau vụ thằng Đạt, cái tên bà Lựa như nổi sóng râm ran mấy chợ đầu, chợ giữa.
Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!
Bình luận
Chưa có bình luận