thở than




"A cat is placed in a steel chamber, together with the following hellish contraption… In a Geiger counter there is a tiny amount of radioactive substance, so tiny that maybe within an hour one of the atoms decays, but equally probably none of them decays. If one decays then the counter triggers and via a relay activates a little hammer which breaks a container of cyanide. If one has left this entire system for an hour, then one would say the cat is living if no atom has decayed. The first decay would have poisoned it. The wave function of the entire system would express this by containing equal parts of the living and dead cat.

"The typical feature in these cases is that an indeterminacy is transferred from the atomic to the crude macroscopic level, which then can be decided by direct observation. This prevents us from accepting a "blurred model" so naively as a picture of reality. By itself it is not at all unclear or contradictory. There is a difference between a blurred or poorly focussed photograph and a picture of clouds or fog patches."

-Foundation of Quantum Mechanics - Josef M.Jauch-

"Một con mèo bị nhốt trong một buồng sắt (từ bên ngoài không thể quan sát bên trong) cùng với một cỗ máy chết chóc. Trong bộ đếm Geiger có một lượng cực nhỏ chất phóng xạ, nhỏ đến nỗi trong vòng một giờ đồng hồ, có khả năng có tối đa chỉ một nguyên tử phân rã, và vẫn có khả năng không có bất kỳ phân rã nào. Nếu phân rã diễn ra, bộ đếm sẽ được kích hoạt, và thông qua đó, nó phóng thích ra một lượng xyanua. Nếu ta để mặc hệ thống này qua một giờ đồng hồ, ta có thể nói con mèo vẫn đang còn sống nếu không có bất kỳ phân rã nào xảy ra. Hoặc có một phân rã đã đầu độc chết nó. Hàm sóng của cả hệ thống sẽ thể hiện điều này bằng các phần bằng nhau của con mèo sống và con mèo chết.

"Cái đặc biệt trong trường hợp này là sự bất định được chuyển từ kích thước nguyên tử lên một kích thước lớn hơn, quan sát trực tiếp được, một cách thô thiển. Điều này ngăn cản ta chấp nhận một "mô hình mờ ảo" quá mức kì lạ trong con mắt của sự thực tế. Tuy nhiên, chính bản thân nó không hề mơ hồ hay mâu thuẫn. Có sự khác biệt rõ ràng giữa một bức hình bị mờ do việc lấy nét không tốt và một bức tranh về mây hay sương mù."

-Nền tảng trong Cơ Lượng tử - Josef M.Jauch-

Nó bảo tôi rằng nó muốn đi khỏi đây. Tôi đang lang thang trên những trang văn của một vài tác giả đương đại vẫn mãi miệt mài viết hiện thực phê phán. Cái thú đọc này của tôi mới có gần đây, chẳng qua là một kiểu để phản kháng cùng nó. Hơn cả, thói đọc là một cái thói của văn nhân, người ta vẫn thường định một cái "high class" cho thói này. Và nhìn xem, khi tôi đọc những dòng văn của các tác giả đương đại, họ chê bôi cái hiện thực này, vừa đúng ý tôi. Họ dằn vặt trong cái khổ sở, phải vừa nuôi cái miệng trần tục, vừa nuôi cái tâm sáng trong. Vừa đúng ý tôi. Tôi nghe họ than thở về cuộc đời của họ, đó là tiếng kêu của xã hội chứ chả phải của một mình họ. Xã hội ấy có bao hàm tôi không? Điều đó cũng không quan trọng lắm. Tuy nhiên, khi đọc mấy tác phẩm ấy, tôi thỏa mãn mà chẳng cần than thân. Có người làm điều đó cho tôi rồi. Thỉnh thoảng, tôi lại đọc văn học mạng của mấy tác giả mới bập bõm vào nghề. Thật ra, tôi thấy phần đa họ chưa gọi là vào nghề được. Kể cả những "tác giả" đã có tác phẩm được xuất bản. Ôi nhìn xem, cái ngành xuất bản. Tôi không biết nó nhé, nhưng nó cũng như bao ngành khác thôi. Trước nhất, người ta làm vì có lời. Bây giờ, có danh tiếng, hoặc cả tai tiếng, là có tất. Tranh cãi cũng tốt. Vài nhà phát hành sẽ tìm đến các tác phẩm nhiều tranh cãi, xuất bản nó, và rồi là một đống người vào chửi hộ để tạo danh tiếng (nếu xem danh tiếng và tai tiếng là cùng một loại) trước khi xuất bản, độc giả của tác phẩm ấy thì bay vào bênh vực. Thêm vài chiếc video giật giật trên một nền tảng nào đó, thế là lại chửi nhau thêm được mấy bận nữa. Rồi lúc xuất bản, làm thêm mấy bản đặc biệt, rồi hú nhau mua, bản đặc biệt cháy hàng trong một tiếng, nửa tiếng, năm phút, ba phút. Kiểu thế. Cứ có tiếng là in đã, lỡ đâu sau hết tiếng thì sao. Nói thế cũng khá phiến diện, nếu đều như vậy cả có khi mấy tác giả hiện thực phê phán mà tôi đọc còn chẳng xuất bản nổi. Cơ mà cũng phải làm cho ngành xuất bản đa dạng ra một chút. Dầu gì cũng cần cái chữ "chuyên môn" chứ. Sau khi bỏ qua chuyện có tiếng hay không thì đến cái chuyện rằng là cái tác phẩm kia mặc cái gì, tác phẩm ấy là cái gì. Đại ý là nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm ấy mà. Hay màu mè và cầu kỳ hơn: Kí hiệu, nghĩa và ý nghĩa của những câu chữ cấu thành tác phẩm. Hiện thực phê phán. Hiện thực và phê phán. Phê phán cái hiện thực. Phê phán cái tồn tại của một xã hội thực. Những cái không đẹp còn tồn tại. Ôi cái thú ấy sướng miệng lắm. Tôi có thể viết ra một đống, hoặc nói ra một lô, trên bàn nhậu, trong những bữa ngà ngà. Hoặc trong quán cà phê, với vài ba người bạn. Hay trong chính bữa cơm nhà, với bố mẹ. Nói thì nói thế đấy chứ làm sao giải quyết cho đặng thì cũng chả phải việc của tôi. Mấy tác giả mạng, tôi chê họ thẳng tay. Nói hoa mỹ thì văn học lãng mạn, nói thẳng ra thì là thứ văn mà người ta chỉ muốn bỏ ba xu ra mà mua. Ối dào, làm ô uế văn chương. Tôi ngồi chê văn chương chính thống sao toàn hiện thực phê phán rồi bảo những tác giả mạng phải viết như thế ấy. Dẫu sao cũng chả phải tôi viết. Thế cũng khỏe. Thỉnh thoảng tôi cũng vô tình bắt phải một số tác phẩm khác hơn, đề tài thì đa dạng. Dễ thấy nhất là những câu chuyện có lối kể phi tuyến tính. Dạo này người ta dùng từ ấy nhiều lắm. Do thói review phim tràn lan trên mạng ấy mà. Cái ngành ấy cũng chẳng khác ngành văn là mấy, hay tất cả những ngành khác. Cứ to lên là rồi giống nhau hết cả. Lối kể phi tuyến thay vì kể cuộc đời nhàm chán của bạn, nó kể cho bạn một cái chết hào hùng, rồi mới đến nguyên do trước đó, lại lộn về người yêu bạn đang than khóc bên cái xác của bạn, xong lại lần mò tới nơi một thơ ấu tang thương, xong tạo một cú "twist" rằng bạn chỉ đang ngấp ngoải thôi chứ chưa chết. Đại loại thế. Nên dùng đau thương hay tang thương nhỉ. Tang thương diễn tả cái to lớn lắm. Thương hải tang điền. Thế mới xứng với cái chết hào hùng chứ nhỉ. Nhưng có chết đâu. Thôi cũng kệ. Đại loại thế. Chỉ là một cái ví dụ có tính điển hình thôi. Thỉnh thoảng tôi gặp những tác phẩm có trăn trở hiện sinh chẳng hạn. Tác giả pha thêm một chút triết học cho nó thời thượng. Hoặc là tìm về cổ điển, hay dòng văn học lãng mạn. Đại loại thế. Thỉnh thoảng tôi cũng gặp một vài phá cách trong văn học mạng. Nhưng mà cũng có được xuất bản đâu. Tôi cười. Một hiện thực đáng phê phán. Tôi ngồi chờ xem bao giờ họ viết cái thứ sẽ khiến họ nổi tiếng. Một hiện thực đáng phê phán. Ôi chao, cái khoái cảm này thực sự khiến tôi say đắm, hơn cả khi đọc hiện thực phê phán. Đọc về một cái tôi bất lực sẽ không hiện thực bằng việc nhìn thấy chân thực một cái tôi dần bất lực. Tôi vừa mới học được cái kiểu viết này. Trong một tác phẩm nọ. Phê phán một hiện thực. Tác giả viết không cách dòng. Viết toàn câu đơn. Viết lộn xà lộn xộn trong một mớ các sự kiện của cuộc đời của "tôi". Tôi ngờ rằng ấy chính là cuộc đời của tác giả, vì nó chân thực quá. Tôi lên mạng đọc review. Tôi phải vờ rằng đó là một tác phẩm đặc sắc, trong cả thông điệp lẫn nghệ thuật. Cho dầu tôi chẳng hiểu lắm. Cho dầu không ai đọc những gì tôi viết. Nhưng tôi phải là người có cái khẩu vị tốt. Phải như thế. Mấy tác giả mạng, tôi chê họ thẳng tay. Ôi dào, làm ô uế văn chương. Tôi ngồi chê văn chương chính thống sao toàn hiện thực phê phán rồi bảo những tác giả mạng phải viết như thế ấy. Dẫu sao cũng chả phải tôi viết. Thế cũng khỏe. Kiểu gì cũng có người review trước tôi. Hoặc chịu khó hơn tí thì vào mấy bài nghiên cứu, được đăng trên tạp chí này, hay trang báo điện tử nọ. Tôi xào nấu lại là xong. Cũng chẳng phải tôi viết. Sẽ có (hoặc không hề có) mấy cậu hay đọc truyện mạng bay vào, chê rằng tôi không cách dòng khó đọc. Tôi không có lòng đồng cảm với người mắt yếu. Sẽ có (hoặc không hề có) mấy cô khác vào chê cái đứa vừa bình luận rằng tại mày quen đọc cái dòng văn học tạp nham từ mấy anh "bạn" nhà bên. Mấy cái chữ xếp tạm vào thành một bài. Chả khác gì mớ xiên bẩn vỉa hè hay đồ ăn nhanh trong quán mới mở đầu ngõ. Nói chứ tôi khá thích đồ ăn nhanh. Đặc biệt là dạo này. Mấy thứ đồ chiên, đồ ngọt. Ngon thật. Tuy thế, tôi phải giả tán thành với "bình luận giả" hai, một cách khéo léo. Tôi sẽ bảo "bình luận giả" một rằng bạn có thể tham khảo lối viết này ở tác phẩm này nha. Rồi tôi sẽ phang cho "bình luận giả" một một bài nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội để dằn mặt. Thế chứ lị. Thật ra tôi cũng chưa đọc hết cái nghiên cứu ấy, nhưng thế cũng chẳng sao. "Bình luận giả" hai sẽ rất tán thành với cách ngầm tán thành cậu chàng của tôi. Họ có chửi nhau tiếp không thì tôi cũng chả quan tâm nữa. Chả phải việc của tôi. Tôi đang dùng cái giọng có mùi vùng miền của mình để khiến cái bài này trở nên khó chịu với một số người chăng? Có lẽ thế. Lại được miếng mồi ngon cho hội phân biệt vùng miền. Rồi lại: Á à, mày phân biệt vùng miền nhé. Đứa khác lại bảo rằng người ta đang chỉ nói đến cái thái độ trịch thượng của người viết chứ chả phải câu chuyện vùng miền hay không. Tôi không đọc đoạn cãi nhau tiếp theo. Sứ mệnh của tôi đã kết thúc từ lúc đó rồi. Hôm sau, tôi sẽ lại chia sẻ một quyển sách về bạo lực mạng chẳng hạn. Còn vấn đề gì nổi cộm không? Giới, Sắc Tộc, Môi Trường,… nhân cái đà mới nổi lên này tôi phải làm cho tôi "woke" ơi là "woke". Đồng thời, vẫn phải vừa trịch thượng vừa thân thiện để có thêm người vào chửi. Thế mới đúng lộ trình. Sau vài bữa, tôi sẽ phê phán tôi như một hiện thực đáng phê phán. Hơi ôi, tôi hy sinh cho nền nghệ thuật nước nhà để phơi bày cái hiện thực đáng phê phán ấy. Một kẻ từ vì đạo. Vài bữa lại làm lại lần nữa. Trí nhớ của các cư dân mạng cũng không dài lắm. Hoặc lần sau tôi sẽ dấn thân vào một vòng tròn khác để tử vì đạo. Bỏ qua văn học rồi thì đến điện ảnh, đến mỹ thuật, kiến trúc,… hay về mỹ phẩm, về buôn bán, crypto… Ôi, còn ti tỉ thứ để nói về, trong lúc này. Tôi không biết chúng nhé, nhưng chúng cũng như bao ngành khác thôi. Đại loại thế. Ngoài kia còi xe inh ỏi. Đám thị dân sau mười mấy hai chục năm vẫn chưa quen được với cái cảnh tắc đường. Tôi ngồi trong xe buýt mà ngao ngán. Giá mà ban nãy đặt một chuyến xe ôm công nghệ về chứ không đi xe buýt. Thế mới có cơ hội chen qua được cái dòng người này. Xe buýt đã đứng im một chỗ gần nửa tiếng đồng hồ. Hôm trước, tôi thấy một trang báo nọ trao giải cho cuộc thi viết mà họ tổ chức. Trao giải xong cánh báo giới lại có chuyện để bàn. Phê bình giả một bảo cái giải này không xứng, khai thác văn hóa vùng miền mà chẳng chịu tìm hiểu kỹ, đề tài cũng chẳng mới mẻ gì cho cam. Thế cũng được giải. Phê bình giả hai vào bảo rằng có sự pha tạp giữa các miền văn hóa ấy là do nhân vận là một kẻ lang bạt, không có nơi gọi là nhà. Chị đã nghĩ đến cái tầng nghĩa ấy chưa? Ôi tôi lại mới dùng đại từ có hàm chứa giới để bình phẩm. Phê bình giả một lên tiếng phản pháo bảo rằng phê bình giả hai lấy cơ sở nào để nghĩ đến chuyện ấy. Ấy là một lối giải thích vòng vo không cần thiết. Quan trọng hơn hết tác phẩm thiếu tính đột phá. Từ những giá trị về hình thức, kỹ thuật sáng tác, kỹ thuật viết, đến cái bên trong, cái thông điệp - toàn bộ. Cái sai là một phần, cái không đặc sắc mới là câu chuyện (câu chuyện mới là cái không đặc sắc). Sau màn tranh cãi trên mạng xã hội, họ đưa nhau lên mặt báo viết tiếp một hồi khác cho một buổi diễn với vô vàn những thuật ngữ chuyên ngành Văn. Tôi không theo dõi phần sau, nhưng cũng chẳng khác gì sự lộn xộn bên ngoài ô cửa kính bây giờ. Người chật như nêm. Xe cãi nhau inh ỏi. Tôi đoán nếu lượng người theo dõi các thông tin Văn học mà đông đảo như lượng người theo dõi thông tin về các ngôi sao giải trí thì câu chuyện ấy còn được góp sức bởi nhiều "người trong nghề" hơn nữa. Mà ngành nào cũng thế thôi. Nó, dạo làm khóa luận tốt nghiệp, nó thấy mấy ông làm khoa học cãi nhau tận mấy bài trên tạp chí. Lúc nó đọc tài liệu tham khảo thì vô tình tìm được cuộc chiến của mấy ông tiến sĩ. Hình như đăng tạp chí Q2* chứ chẳng chơi. Nó rời thành phố này hơn hai năm để rồi lại quay lại thành phố này. Lần đầu tiên nó đi xa đến thế. Thế mà cũng chỉ đến quốc gia cách nơi này không quá năm giờ bay. Nó tưởng rằng sau khi hoàn thành cái luận văn thạc sĩ rồi, cơ hội sẽ rộng mở hơn. Nhưng nào có. Hết thời gian học ở nước ngoài, với một cái luận văn. Thầy nó, ở bên ấy, với nó, đã về nhà, vẫn đang tiếp tục cố gắng hoàn thiện nghiên cứu để chuẩn bị cho việc gửi bản thảo đến các tạp chí. Tuy nhiên, do nó không ở bên ấy nữa, nên công việc cũng trì trệ hơn nhiều. Hơn thế, thầy nó cũng còn nhiều dự án khác. Ngành khoa học cũng chẳng dễ ăn, dù ở đâu. Thầy nó có mấy dự án khác nhau, thời gian mỗi ngày cho từng cái cũng không nhiều. Nó cũng phải tự thân vận động thôi. Một quãng dài dự án không có tiến triển do nó phải ưu tiên cho việc chuẩn bị và hoàn thành bảo vệ luận văn. Phải sau khi bảo vệ, nó mới bắt đầu quay lại dự án ấy. Quãng nghỉ làm nó gặp một chút khó khăn trong việc "tái" thân thuộc với những dòng code và những tính toán. Và khi về nhà, việc duy trì thời gian biểu cũng gặp một vài trúc trắc. Dù chỉ lệch một tiếng, thế mà lúc mới về, nó cũng cần thời gian để thích nghi. Sau khi đáp xuống cái sân bay nội địa quen thuộc, nó trở về quê vài ngày. Tất nhiên là không ở được lâu. Thành thật là như thế. Bố mẹ hỏi han nó nhiều về công việc, về dự định tương lai, về quá trình nộp hồ sơ cho một chu trình mới: lấy bằng tiến sĩ. Nó tìm cách quay lại thành phố mà nó đã từng dành hơn bốn năm thanh xuân. Nó hỏi nhờ vài người bạn để kiếm chỗ ở. Kinh tế nó không nhiều đến nỗi đủ để lang thang khách sạn. Ngoài ra nó lại cũng chưa chắc chắn về thời gian thuê được. Thuê ngắn hạn thì nhiều khả năng các chủ trọ không nhận, mà có nhận thì giá cũng cao. Thằng bạn làm IT của nó bảo rằng chỗ cậu chàng trọ còn phòng trống, đến đấy ở cũng được. Thế là nó lại xách mớ quần áo chưa đầy hai mươi kí và mớ laptop, tai nghe, tập sách chưa đầy bảy kí của nó lên thành phố. Bố mẹ nó bảo sao không ở nhà cho khỏe còn lên thành phố chi. Nó bảo ở trung tâm vậy tiện hơn trong nhiều việc lắm. Nếu có cần giấy tờ, hoặc gặp gỡ, cũng có thể đi ngay. Là nó nói thế. Nó tìm kiếm vài chương trình ngắn hạn trong quá trình tìm kiếm vị trí tiến sĩ. Nó gửi mấy cái hồ sơ đi cả Đông, cả Tây. Tuy chưa trả về kết quả của tất cả những chắc cũng sớm thôi. Nó cũng đã được gọi phỏng vấn hai chỗ, cơ mà cũng chẳng chắc chắn lắm về khả năng được nhận. Ngày trước đi thạc sĩ, nó không cần phải phỏng vấn, quy trình chỉ cần nộp hồ sơ rồi đợi kết quả thôi. Ngày ấy nó cũng nộp mấy chỗ, cả Đông, cả Tây. Cửa cho thạc sĩ, chuyên ngành của nó, ở trời Tây thì hẹp hơn một xíu. Một số thầy hay có chiêu đi học thạc sĩ ở mấy nước nhỏ nhỏ Đông Âu trước, rồi lên tiến sĩ những chỗ lớn hơn, có môi trường nghiên cứu thuận tiện hơn. Chỗ nó đến thì cũng là một lựa chọn. Ít ra cái bằng thạc sĩ ở đấy người ta còn chịu, chứ bằng thạc sĩ ở ta qua trời Tây lại phải học lại thêm một năm. Mà chẳng cần trời Tây chi cho xa, mấy anh đầu tàu châu Á cũng chẳng nhận. Ấy thế mà có được cái bằng rồi thì truân chuyên cũng chẳng đỡ. Nó nộp sáu bảy trường trong các đợt tuyển sinh nhỏ lẻ, thì đã có hai trường từ chối thẳng. Cái này cũng không nằm ngoài dự đoán của nó. Nó đã tính được đến bước này. Hai chỗ ấy từ thẳng tay vì lượng hồ sơ đầu vào vốn nhiều lắm. Nó đã chuẩn bị sẵn tinh thần cho việc bị loại rồi. Ấy thế mà nó vẫn không xem chuyện ấy là bình thường nổi. Nó tự bảo rằng đợi đợt tuyển sinh cho khóa mùa thu thì chắc chắn có nhiều cơ hội hơn. Chắc chắn thế. Giai đoạn này vẫn đang tuyển sinh lẻ tẻ cho khóa mùa xuân, không phải trường nào cũng tuyển. Không phải ngành nào cũng tuyển. Cái chuyên ngành của nó càng ít vị trí. Vậy nên không cần phải quá lo lắng. Nó nộp hồ sơ cho một chương trình ngắn hạn dài ba tuần. Đã có kết quả. Nó đang làm giấy tờ để chuẩn bị sang Hàn một chuyến. Thật may là người ta tài trợ cho phí đi lại, ăn ở. Nhiều chương trình, hay hội nghị yêu cầu người tham gia phải tự chi trả phí di chuyển, thậm chí cả chi phí ăn ở. Ôi dào, một đống tài trợ mà không tài trợ nổi sinh viên. Mấy hội nghị, mấy chương trình, khóa học mùa hè, khóa học mùa đông,… Mấy sự kiện thế thường tổ chức ở những khách sạn đẹp lắm, hoặc ở vài trung tâm văn hóa, những khu di tích cũng không chừng. Mặc dầu cái chuyên ngành của nó chẳng liên quan gì đến văn hóa lịch sử. Vài cái hội nghị thường kỳ trong nước, người ta kéo nhau đi Nam về Bắc. Mỗi năm mỗi chỗ, đến chỗ nào là phải tổ chức ở cái danh thắng chỗ ấy. Có lần, khi tham gia hội nghị loại đó nó còn gặp được một vị khách phương Tây vô tình ghé vào các buổi báo cáo. Ngày ấy nó còn nằm trong một dự án được tài trợ. Tiền ăn ở đi lại đều được bao cả. Thế nó mới dám đăng kí đến. Vị khách ấy dự thính đủ cả ba ngày. Phần trình bày của nó không nhiều, chỉ là một cái poster giữa vô vàn những poster khác. Dù cùng một ngành nhưng chuyên ngành khác nhau quá. Cái chuyên ngành của nó thì cả nước cũng chỉ được chừng ấy người. Đều biết nhau cả. Đám sinh viên cũng tỏ hết thầy nào với thầy nào. Một vài khách khác chuyên ngành đến hỏi chút thông tin phần giới thiệu. Nghe năm ba phút đầu họ còn thắc mắc. Đến phần sau là cả người nói lẫn người nghe đều không hiểu những từ ngữ trên mặt giấy và cả trên miệng người nói phát ra. Nó đứng đó khoảng một tiếng rưỡi, không nhiều người xem poster của nó lắm. Rồi nó lại quay lại với vị khách không mời từ miền viễn dương xa xôi kia. Vị ấy cũng không có nền tảng về cái ngành của nó, tuy nhiên, cũng chịu khó nghe. Vị khách ấy hỏi một chút về cái bài báo cáo poster của nó. Một chút thấu hiểu không kéo dài lâu. Quá bán thời gian vị khách kia chỉ gần gù. Tuy thế thì mấy vị phương Tây được cái thích hỏi, ông ta hỏi rất kĩ phần đầu. Về phần nó, nó không chắc việc ông ta có thực sự hiểu những điều nó nói hay không. Thế là qua chuyện. Ôi nó sợ hãi cái tiếng Anh đặc "local" của các "speaker" trên kia. Nó, tuy rằng tiếng Anh cũng chẳng hơn được ai, nhưng vẫn cảm thấy hơi rờn rợn mỗi lần nghe tiếng Anh kiểu đấy. Ông khách Tây ngồi nghe, thỉnh thoảng hỏi nó một đôi điều. Nó chẳng ngần ngại mà lôi hết vốn liếng kiến thức của nó ra mà giảng giải, với cái thứ tiếng Anh bồi bao năm chẳng thể bỏ. Cái hội nghị có bốn ngày. Ngày đầu tiên cắt chút buổi sáng làm khai mạc, cắt chút buổi chiều làm tiệc mời. Ngày thứ ba người ta đi "excursion" cả ngày. Tối về làm thêm một bữa cơm thân mật. Ngày thứ tư buổi sáng khởi động muộn do tàn dư từ cả ngày đi chơi hôm qua, buổi chiều lại bớt gần hai tiếng làm bế mạc. Thế là xong một cái hội nghị. Chỉ có ngày thứ hai có thể xem là trọn vẹn. Anh em giới học giả gặp nhau giao lưu, tìm kiếm các mối quan hệ mới, khơi mở các đề tài mới. Nhưng cũng quen nhau cả. Vài "invited speaker" từ nước ngoài đến và đi chớp nhoáng. Thường họ chỉ ở được một ngày, thậm chí một buổi. Lắm khi nó hoài nghi về thủ tục đến và đi của các vị ấy. Cơ mà mấy học giả thường là mối quen của cái hội nghị thường niên kia. Quy trình hành chính cho các vị từ mấy quốc gia này đến ta cũng chẳng khó như ta đến họ. Thỉnh thoảng, có một vài học viên tiến sĩ, nghiên cứu sinh nước ngoài cũng đến trình bày. Thường sẽ là một vài người đến từ Nam Á hoặc một vài người trong khối. Đấy người ta gọi là giao lưu quốc tế. Ở ta mỗi năm có vài chục cái hội nghị như thế. Đó là chỉ mới tính mỗi ngành khoa học cơ bản. Còn khoa học ứng dụng, kỹ thuật, khoa học xã hội, triết học, nghệ thuật, hay cả quân đội,… có bao nhiêu cái hội nghị, hội thảo như thế thì nó chẳng tỏ hết được. Xong các hội nghị trong nước, thì tìm kiếm các hội nghị ngoài nước. Tiến sĩ thì tìm chỗ cho tiến sĩ, học viên tiến sĩ thì tìm nơi cho học viên tiến sĩ. Tiền có khi được tài trợ có khi không. Nhà nước vẫn vận động tăng đầu tư vào khoa học kỹ thuật công nghệ. Nhưng nhiều người vẫn không biết rằng khoa học và công nghệ và kỹ thuật là ba thứ khác nhau chứ chả phải một. Tiền đổ vào khoa học công nghệ phần lớn vào công nghệ. Tiền đổ vào khoa học phần lớn đổ vào khoa học ứng dụng. Vậy mà cái đám làm khoa học cơ bản vẫn sống lay lắt được. Thế mới tài. Nó mới dùng từ "đám" cho các thầy các giáo của nó ư? Ấy là cách nói của cái loại vô học. Phải rằng là người ta vẫn nỗ lực với niềm yêu tri thức và nhiệt huyết khoa học của họ. Nỗ lực với con chữ, vì một đất nước hùng cường. Người ta vẫn ra rả về công nghệ lõi. Công nghệ phải đi từ khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng là lấy những kết quả trời ơi đất hỡi, lơ lửng trên mây của đám làm khoa học cơ bản rồi kéo xuống đất. Còn người ta vẫn bắt mấy ông ngồi làm khoa học phải chế ra cái máy này, máy nọ. Kỹ sư là người làm việc ấy. Nhưng kỹ sư cũng chỉ sản xuất một mẫu thử. Thứ có thể khiến sản phẩm tới được tay người dùng, sau một lô các quy trình, đấy là quá trình sản xuất công nghiệp. Thật ra người ta có thể làm, sáng tạo ra bất kỳ thứ gì phục vụ cho đời sống của họ. Tuy nhiên, làm ra có sản xuất công nghiệp được không, có bán được không lại là một chuyện khác. Sau quá trình thương thảo ấy, cái sáng tạo ban đầu và cái kết quả thu được khác nhau bao nhiêu lại là một chuyện khác nữa. Nó chẳng tỏ cái ngạch ấy, nhưng như nhau cả thôi. Ngành nào mà chả rứa. Làm khoa học cơ bản thì hướng đến đăng tạp chí, làm khoa học ứng dụng thì hướng đến bằng sáng chế. Thứ ý tưởng mới đẻ đến lúc chúng được "public" trải qua bao chu trình đẽo gọt. Cũng thế cả. Nó từng đăng một bài trên tạp chí trong nước, với cái khóa luận tốt nghiệp của nó. Thầy hướng dẫn của nó cũng đẽo gọt nhiều. Quy trình gửi cho tạp chí trong nước không quá khó. Tạp chí nằm ngoài Q4. Nhưng bảo thế không phải nghiên cứu trong nước là chuyện giỡn chơi đâu. Ngày trước phải có nghiên cứu cấp cơ sở thì mới có cơ hội xét các học hàm cao hơn chứ đâu phải cứ công bố quốc tế là ngon. Lại nói đến chuyện giáo dục với nghiên cứu thì lại cũng là một câu chuyện nan giải. Người làm nghiên cứu ở các trường công thì chẳng có thời gian để nghiên cứu, họ cần phải có các tiết dạy. Một phần là bắt buộc, một phần là cái cần câu cơm. Mỗi tiết lương cũng chẳng nhiều lắm. Nếu dạy bằng tiếng Anh thì nhiều hơn một chút. Các trường tư thì thi nhau mời các "researcher" về để thăng hạng danh tiếng trường. Họ cần những bài nghiên cứu khoa học nhưng không cần đào tạo sinh viên biết về các môn khoa học ấy. Họ thuê bài từ một số nhà nghiên cứu ở các cơ sở công, trong viện hàn lâm,… để người ta gắn cái địa chỉ công tác là trường họ vào mỗi công bố khoa học. Các nhà nghiên cứu cũng chả phải thánh nhân để mà lấy nghiên cứu mài ra ăn qua ngày. Sinh viên trường công chê ẩm chê ôi cái "ranking" của mấy trường tư đi thuê báo. Báo chí lên tiếng về vấn nạn khoa học. Thế nhưng những chuyện ấy chỉ thực sự rầm rộ khi phần lớn các "researcher" máu mặt đã rời khỏi trường tư kia. Rồi lại đẻ ra thêm một vài trường tư có tiếng mới. Đứng sau là các tập đoàn giáo dục kếch xù. Các nhà nghiên cứu chẳng phải thánh thần. Ai cũng cần tiền để sống. Mỗi đợt vậy lại có những người chê đám trí thức bàn giấy. Bao năm chẳng làm ăn được cái gì. Đến cái máy xay, máy gặt còn phải để anh nông dân tự làm ra. Tiến sĩ giáo sư danh hão. Chửi xong một chập, ai về nhà người nấy. May mà có cái mạng xã hội để không ai biết ai là ai, và cũng để ghi lại toàn bộ quy trình cãi nhau. Để vài bận, khi chán nản, hoặc đương lúc rảnh rỗi, họ lại lôi câu chuyện ra cãi tiếp được. Các giảng viên cao cấp, ban bệ các ngành than thở về cái vấn nạn bán báo. Dùng cơ sở của "công" mà nhận tiền của "tư". Ôi chao, bao lâu mới lên nổi học hàm phó giáo sư. Cần hướng dẫn bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu thạc sĩ? Đăng bao nhiêu bài Q1, Q2? Dạy bao nhiêu tiết? Qua vòng cấp cơ sở nổi không? Ai sẽ ngồi hội đồng? Thân hay sơ? Không biết các vị ấy thì sao chứ nó từng có trải nghiệm thật thú vị. Ngày nó đi gửi khóa luận cho thầy phản biện, thầy phải lật dở xem nó có kẹp lấy tờ bé bé xanh xanh trong đó hay không. Sinh viên có khi kẹp lấy năm trăm trong khóa luận gửi thầy phản biện còn được thầy nhẹ nhàng trả lại. Đáng là mấy. Sau thì cảm ơn các thầy thật kỹ. Nếu thân quen thì mời một bữa. Lãnh cái bằng cử nhân thế là ai cũng ấm êm. Mà bằng cử nhân bây giờ cũng mất giá. Sau giai đoạn phổ cập bằng cử nhân, kỹ sư, giờ người ta phổ cập bằng thạc sĩ. Ai cũng dành chút thời gian buổi tối hay cuối tuần học lấy cái bằng thạc sĩ cho nó an tâm. Gọi là nâng cao trình độ. Học mấy năm, làm lấy cái luận văn là xong. Giờ ra đường thạc sĩ nhiều, cũng chưa chắc hơn ai. Nhưng cứ giữ cái việc, học thêm thạc sĩ có khi tăng lương. Sau này có kiếm chỗ khác cũng an tâm hơn. Nó có bằng thạc sĩ "nước ngoài" cũng vẫn cò bất cò bơ. Người ta trọng thạc sĩ bên Tây, bên Mỹ chứ mấy nước châu Á thì kể cũng xoàng. Kể mà đi Nhật hay đi Hàn còn có chút giá trị. Liên Xô một thời, giờ đi Nga về cũng bình bình. Mà kể trong khối ngành khoa học thì cái bằng thạc sĩ còn có tí giá trị, chứ mấy ngành khác có khi còn khốn đốn hơn. Cơ mà cũng chẳng phải việc của nó. Nó bây giờ đang chờ kết quả hai vị trí học viên tiến sĩ còn lại. Hai chỗ ấy người ta chịu phỏng vấn, nhưng cũng chưa biết thế nào. Nó thấy nó làm không được tốt lắm. Nó trình bày cái dự án nó làm luận văn thạc sĩ mà có vẻ không khả quan. Học tiến sĩ là một kiểu đi làm. Có lương bổng đàng hoàng. Bên Tây thì thoáng hơn xíu, còn bên Đông thì khá "khó khăn". Mà bên Tây dạo này cũng khó nói, người ta cắt tài trợ cũng nhiều. Số vị trí cần tuyển cũng eo hẹp hơn. Một bên nó đi theo đường chính ngạch, nộp đơn theo diện chính quy của trường, vào chọn hai ba dự án có liên quan và đợi xét tuyển. Một bên là thầy hướng dẫn luận văn thạc sĩ nó giới thiệu cho. Nó đã gặp vị giáo sư ấy, trao đổi công việc. Giáo sư cần một người làm kỹ thuật, chủ yếu là lập trình tính toán. Nó trao đổi. Nó bảo rằng với bài toán nó làm lúc thạc sĩ lập trình cũng không quá nhiều, nhưng nó có tham gia một khóa học ngắn hạn về vấn đề này rồi, và nó tự tin có thể hoàn thành các nhiệm vụ mà giáo sư ấy giao. Giáo sư hỏi nó thêm một chút kiến thức ngành, nó trả lời được khá ổn. Là nó thấy ổn. Hoặc nó đang chỉ bảo rằng nó thấy ổn. Nó đang trên đường về sau một mớ thủ tục lằng nhằng ở lãnh sự quán Hàn Quốc. Nó vẫn chưa thể quen với mớ rối rắm ấy. Xe buýt vẫn chưa thể thoát khỏi ngã tư. Từ "buýt" làm nó thấy mỏi miệng. Tại sao không thể chỉ gọi đơn giản là "bus"? Rồi sẽ có người vào chửi nó rằng nó sính ngoại. Cái gì đó hải sản với cá ao. Nó không biết người nói ra câu ấy có thực sự ăn cá ao hay chưa? Ý nó là cá ao khá "tự nhiên", không phải một thứ cá được nuôi trong cái hồ be bé, có khi còn chẳng có bùn. Mỗi ngày được thồn cho một đống cám. Nhưng chuyện ấy có quan trọng gì. Hải sản hay cá ao rồi cũng thế. Giờ người ta nuôi cả. Tôi mệt với cái kiểu thở than của nó. Trong mọi cuộc tranh cãi, lỗi đều chẳng phải của nó, hoặc những người bên phía nó - những nhà khoa học. Mà người ta chắc gì đã nhận rằng họ cũng một phía với nó. Nó chỉ đang than thở cho chính nó mà thôi. Nó ghét cái không gian bế tắc lúc này, khi dòng người chật như nêm cố thoát khỏi cửa ngõ thành phố. Người tan làm đổ ra đường như ong vỡ trận. Bay loạn xạ. Nó ghét cảnh ấy. Nhưng tôi lại thấy đây là một chuyện đáng bàn. Một hiện thực đáng phê phán. Tôi sẽ viết một áng văn trác tuyệt cho cái cảnh này. Tắc đường của thành phố năm nào chương trình văn nghệ cuối năm chẳng nói, với cái thói châm biếm vẫn thường thấy mấy chục năm nay. Mỗi năm lại nói chừng ấy chuyện. Hết chuyện tắc đường, đường ngập, lại đến chuyện mấy cái ghế. Những bài ca ca mãi không chán. Vẫn gãi được cho một vài người, cơ mà phần lớn thì không. Bây giờ họ tự gãi được rồi. Họ có mạng xã hội. Họ chửi thẳng. Chửi xong một chập, ai về nhà người nấy. May mà có cái mạng xã hội để không ai biết ai là ai, và cũng để ghi lại toàn bộ quy trình cãi nhau. Để vài bận, khi chán nản, hoặc đương lúc rảnh rỗi, họ lại lôi câu chuyện ra cãi tiếp được. Tôi sẽ làm khác. Văn bây giờ phải có màu sắc hậu hiện đại. Tôi lôi cái laptop của mình ra, mở trình soạn thảo lên và bắt đầu viết. Đặt một cái tên trước. "Bus". Cũng ổn thôi, là một cái tên đủ công kích đối với phái bài ngoại cực đoan. Vậy thì "Xe Bus" sẽ hợp hơn. Nửa Tây nửa Ta. Thế tranh cãi mới nảy lửa. Nên viết như thế nào? Tôi sẽ không viết hiện thực phê phán. Thật ra người ta không gọi cái dòng văn bây giờ là hiện thực phê phán. Tuy nhiên cốt lõi cũng chẳng khác là bao. Vẫn là khắc họa mấy điều bất công, cái khốn cùng của con người. Ngày trước là do thực dân đế quốc, bây giờ là do tư bản, do sự nhũng nhiễu của thời cuộc, do sự suy đồi của trung bình đạo đức xã hội, do những rườm rà trong cơ chế, do những chuyện trên bảo dưới chẳng nghe, do tham nhũng,… ty tỉ vấn đề. Bây giờ người ta đẻ ra nhiều cái tên hơn để ta có thêm càng nhiều nguyên do cho những vấn đề này. Ôi chao. Hắn ngồi cười. Hắn luôn cười. Hắn bảo tôi nhìn vào những vấn đề ấy mà cười. Như hắn. Hắn nằm ở ngõ nào tôi không rõ. Hắn biết tất, biết cả. Hắn biết cả nó, cả tôi. Hắn biết cả những điều mà tôi và nó đều không biết. Hắn bảo nó rằng nghiên cứu cũng vậy vậy. Nó phải tìm được một người hướng dẫn tốt trước. Mọi việc rồi sẽ hanh thông. Hắn cổ vũ nó nộp hồ sơ ở trường thật tốt. Hắn bảo rằng bạn bè nó đã nộp đi thẳng tiến sỹ mà không phải học thạc sĩ đó thôi, nên nó cũng làm được. Hắn bảo nó hãy để ý trường top 100, top 50 ấy. Vào đấy rồi mới có tương lai. Hắn vẫn hay cổ vũ nó làm được. Hắn bảo rằng chẳng qua do nó sinh ra ở một quốc gia mà khoa học quá mức chậm chạp chứ nếu nó sinh ra ở Nhật Bản hay Tây Âu có khi đã sắp xong tiến sĩ rồi. Làm hai ba cái postdoc, rồi kiếm một vị trí hữu cơ. Thế là cứ thong thả mà làm nghiên cứu. Hắn bảo nó có thể giảng dạy nếu muốn. Đi đến mấy trường hè hay trường đông ở mấy nước đang phát triển làm "lecturer". Tạo thêm cơ hội cho sinh viên như như nó. Thế mới là cách cho khoa học phát triển. Hắn bảo nó hãy cứ tin là nó làm được. Hắn bảo nó cứ nộp hồ sơ đi. Hơn một trăm đô mỗi lần nộp thì hắn không nói xem nên kiếm ở đâu. Hắn bảo ôi dào, ấy là đầu tư, không có cái gì là không có cho mình một cái giá tương ứng cả. Hắn bảo nó nộp hồ sơ trường tận bên kia bán cầu. Nó có cái Anh Văn tệ hại thì hắn chẳng quan tâm. Hắn bảo tôi cứ viết đi. Có mấy con chữ ấy mà. Hắn bảo hãy nhìn cái tác phẩm mới đạt giải kia đi. Cái tác phẩm mà làm giới văn loạn cào cào lên ấy. Về cả nội dung lẫn hình thức, tôi có đánh giá cao nó không. Hắn bảo với hắn thì cái tác phẩm ấy tệ, tệ hơn cả mấy câu dông dài tôi viết. Hắn bảo tôi mở laptop ra và viết cho cái cảnh tắc đường này đi. Tôi suy xét. Tôi nên dùng cách nào để diễn tả cái cảnh tắc đường này. Giữa con đường tắc ngùn ngụt hơi nơi cửa ngõ thành phố. Những chiếc xe như những đốm lửa nhỏ dần đốt cháy phố thị. Người ngồi trên những chiếc xe máy thì không ngừng la ố. Họ than trách cái tồi tàn mỗi ngày họ gặp phải. Họ chôn chân nơi cao ốc rồi lại lần nữa chôn thân trong thứ khói bụi mà họ không rõ hình hài nơi cái vòng xoay này - thứ đáng lẽ nên được thay thế bằng một nút giao thông ba tầng. Xe ô tô thì khác, những người ở trong ấy tuy cũng tuýt còi inh ỏi, tuy nhiên họ có máy lạnh. Họ mở máy lạnh lên, hít lấy cái mát mẻ vốn ít ỏi giữa phố. Họ xả ra đường những làn khói không màu, hoặc chỉ hơi xam xám. Nhưng nặng mùi. Những chiếc xe quá đát. Con trẻ đang cười trong cái không khí mát lạnh ấy. Bỗng trong lòng đất. Một tiếng ồ ồ vang vọng. Ban đầu còn chẳng ai để ý. Cái rung chấn nhẹ nhẹ ấy chẳng thể tỏ hiện giữa hàng ngàn tiếng kêu của cả người, còi xe và phố thị. Tiếng động kia lần nữa vang lên, lần này rõ ràng hơn. Mặt đất cũng rung lên theo tiếng vọng. Mọi người cảm nhận rõ ràng rung chấn, đầu họ choáng váng. Đám đông nháo nhào. Tuy thế, giao lộ chật như nêm, không thể di chuyển. Rung chấn chỉ một quãng ngắn. Mọi người sau khi nhận thấy tiếng động kết thúc mới yên lòng được một chút. Tiếng còi lớn hơn. Ai ai cũng không ngừng bấm vào cái nút be bé nơi đầu xe mình. Xe hơi cũng không ngoại lệ. Đèn chuyển xanh, một lượng nhỏ người gần nơi vòng xoay lúc này dùng hết tốc lực mà chạy. Tiếng động ban nãy làm họ sợ hãi. Điều đó dường như đánh thức một nỗi sợ hãi nguyên thủy trong họ. Như cái lo sợ với bóng tối. Cho dẫu trời bây giờ mới nhá nhem. Họ vòng quanh cái tháp đồng hồ lớn giữa giao lộ, tiến về phía con đường phía bên kia. Tiếng gầm lại lần nữa vang lên, lần này mặt đất giao động rõ ràng hơn. Một vài người không chịu nổi, cả người cả xe đổ nhào. Một chiếc đổ, cả hàng đổ, cái tay lái của chiếc Exciter đập mạnh vào cửa kính ô tô. Những vết nứt lan ra nhanh chóng. Người ngồi trong xe đang toan lớn tiếng quát vào người gây ra tổn hại cho tài sản của anh ta thì tháp đồng hồ giữa vòng xoay nứt toác. Vết nứt kẻo cả ra đường. Mấy người chạy gần vòng xoay cảm nhận con đường họ đi chợt võng xuống. Cái tháp đồng hồ đổ rạp. Thụt sâu xuống bên dưới, kéo theo những cỏ cây xung quanh nó, kéo theo cả đường lộ, cả những chiếc xe máy, vài chiếc ô tô và con người ngồi trong và trên nó xuống dưới. Một cái hố đen ngòm hiện ra. Sâu hoắm. Không ngừng lan rộng. Tiếng la hét bắt đầu rõ ràng. Lấn át đi cả tiếng đổ sụp và tiếng còi xe. Cái lỗ lan nhanh lắm. Kéo theo cả mấy tòa nhà mấy chục tầng bên đường đổ rạp. Chấn động ngừng. Âm thanh hỗn loạn bao trùm cả một góc thành phố này. Các trụ bê tông đổ xuống, đè lên những con kiến bé mọn trên chiếc xe máy đỏ xanh. Khói bụi tung mờ mịt, một màu nâu xám rõ ràng hơn thứ khói thoát ra từ ống xả của đám phương tiện giao thông thị thành. Sau đó mới là nỗi kinh hoàng. Từ trong cái hố không đáy, từng đàn, từng đàn sinh vật to lớn bay ra. Chúng ngà ngà, béo tròn. Chúng như bay ra, mà lại như búng từ dưới cái hố không đáy kia lên. Mỗi con phải to ngang cái xe bảy chỗ. Chúng bật thoát ra khỏi hố. Kêu gào gầm vang khắp trời. Chúng tạt vào các tòa cao ốc, làm những mảng kính cường lực vỡ toang. Con vật trắng ngà treo ở đó, thứ dịch nhầy của nó bắn ra tứ phía. Như một loại mỡ, từng tảng phủ đầy không gian. Một thứ mùi tởm lợm bốc lên. Xâm chiếm toàn bộ không khí đang một màu cam vàng của ráng chiều. Mặt đường, các tấm kính lớn, đôi chỗ vẫn còn nguyên cái nhiệt lượng mà mặt trời tỏa ra trong cái khoảng giữa trưa đến ba giờ chiều. Tiếng xèo xèo ỉ ôi. Mùi bốc lên càng ghê tởm. Trong một phòng thí nghiệm. Tiếng tít tít từ các loại máy đo vẫn còn. Một dòng đỏ thẫm lan rộng. Nó khởi nguồn từ một tấm áo trắng đã đổi màu mà tỏa ra. Một viên đạn xuyên ngang đầu. Một cây súng ngắn nằm nơi tay phải. Tờ giấy nơi tay trái người ấy cũng nhuốm máu. Những người đáng lí đang ở trong phòng thí nghiệm đã bỏ lại nó. Thế nhưng, kể cả thế thì cũng không kịp. Từng cái hố lớn xuất hiện ở khắp nơi trên địa cầu. Với từng đàn từng đàn sinh vật tỏa ra. Hắn bảo cái kịch bản này cũng không tệ, nhưng mà vấn đề ở đây là khắc họa cái kẹt xe của thành phố này. Một cái hiện thực đáng phê phán. Câu chuyện mở đầu thế này thì cái hiện thực ấy chỉ làm nền cho một vấn đề khác thôi. Tôi chẳng lẽ lại không nhận ra. Hơn thế, rõ ràng câu chuyện thiếu logic cực kỳ. Đến quả bóng muốn nổ tung cũng cần một quá trình không ngừng trương phồng. Thế nên làm gì có chuyện một ngày Trái Đất lỗ chỗ mà không ai hay. Có chăng người ta biết mà cố tình giấu giếm. Mà có giấu giếm thì cũng có một lượng người nhất định biết. Họ sẽ tìm cách thoát khỏi Trái Đất trước khi nó sụp đổ, chứ chẳng phải câu chuyện trong mỗi phòng thí nghiệm. Tự sát? Càng vô lý. Đáng lẽ, nếu có tự sát, thì cũng là câu chuyện lâu rồi, chứ chẳng phải bây giờ mới làm. Quá mức vô lý. Phải rằng là từ khoảng hơn trăm năm về trước, ở phương Tây, có người tìm được một cuốn sách về các loại pháp thuật của các phù thủy. Người này tuy tìm được, nhưng không có khả năng đọc được những loại văn tự này. Thế nên anh ta chỉ đem về cất ở nhà. Cháu anh ta sau này, tình cờ tìm thấy cuốn sách của ông nội. Anh ta có một chút hiểu biết về các văn tự cổ, thế nên anh ta đã cố gắng đọc những văn tự kia. Giữa khi phương Tây đang đùng đoàng các thứ, anh ta học được khả năng cưỡi chổi bay từ cuốn sách. Người làng thấy anh ta làm được điều kỳ diệu này, họ nhờ anh ta chỉ bảo. Tuy nhiên, chỉ một số ít trong số những người được chỉ dạy thực sự học được kỹ năng này. Anh ta lại càng tò mò về loại năng lực này. Sau khoảng chục năm miệt mài nghiên cứu, anh ta phát hiện ra thay vì phải dạy người khác về kỹ năng cưỡi chổi bay, anh ta có thể chỉ cần điều động một chút năng lượng của mà anh có cho họ, họ có thể cưỡi chổi trong một khoảng thời gian nhất định. Ấy thế là từ một vài người làng, anh bắt đầu bán những lần trải nghiệm thú vị ấy cho những cư dân ở trấn bên cạnh. Một vài người đã học được phương pháp cưỡi chổi từ anh cũng thử kiếm tiền theo cách này. Chỉ một số trong những người đó thành công, phần nhiều là thất bại. Điều thú vị này khiến nhiều người chú ý hơn, thế là ngày càng nhiều người tìm đến anh trải nghiệm. Tuy thế, chỉ sau hai năm, mô hình này lụi tàn. Phần nhiều những người bán trải nghiệm đều mất tích. Anh cũng bỏ lại căn biệt thự mới xây xong nhờ kiếm tiền từ loại dịch vụ ấy. Ngôi nhà cứ thế tồi tàn dần do không có ai ở và chăm sóc nó. Mấy chục năm sau. Mô hình xe bay nổi lên. Ở phương Đông, mô hình này lan rộng nhanh chóng. Gọi là xe, nhưng chúng không có bánh, cũng không rõ chạy bằng loại nhiên liệu gì. Loại phương tiện này nhanh chóng lan rộng. Ban đầu còn rất đắt, chỉ có một vài người mua để làm thú vui trong sân vườn nhà họ. Tuy nhiên không lâu sau, những lô sản phẩm này sản xuất hàng loạt. Các trạm năng lượng nhanh chóng mọc lên. Người người nhà nhà đều dùng loại phương tiện này, khai phá một không gian rộng rãi hơn mặt đất rất nhiều. Tầm hai chục năm trước, chính quyền sở tại đã phải nhanh chóng có những quy định về loại xe bay ấy, nhưng chúng không lan nhanh bằng tốc độ sở hữu loại phương tiện mới mẻ này của người dân. Không ai biết rằng, thanh niên kia, bấy giờ đã luống tuổi, đã trốn sang Đông phương. Bởi sự kì diệu của pháp thuật về chổi bay, phần đa những người có khả năng sử dụng pháp thuật này đã bị đưa vào các trung tâm nghiên cứu. Anh ta chạy thoát trước khi bị bắt. Anh ta mang theo cuốn sách của ông mình và chạy đến phương Đông. Khi anh ta đến một vùng đất mới, do hiểu rõ nguy cơ từ loại thuật pháp thần bí ấy, anh cố giữ bí mật quá trình nghiên cứu nó. Khi về già, anh ta lo sợ năng lực này lại thất truyền một lần nữa, vậy nên đã truyền lại cho một người bản địa. Anh ta dặn dò kỹ lưỡng những nguy cơ có thể gặp phải cho người học trò của mình, trước lúc lâm chung. Người học trò cuối cùng tiếp nối thành công của người thầy. Anh ta phát hiện ra cách kết hợp các loại thuật pháp phương Đông để khiến cho thời gian sử dụng thuật pháp được lâu hơn. Anh ta ngụy trang loại phép thuật này dưới cái tên xe bay, với một vài mô hình ban đầu giống sự kết hợp của xe hơi và máy bay. Rồi sau dần mới loại bỏ hẳn những phần rườm rà ấy. Mô hình nhanh chóng lớn mạnh và thu được kết quả như ngày nay. Loại phương tiện này cũng nhanh chóng lan vào nước ta. Với những trạm tiếp năng lượng ngày một mọc lên như nấm. Chính phủ nhanh chóng đề ra những quy định cho loại phương tiện này, tuy thế, không nhanh bằng tốc độ chúng xâm nhập vào cả nước. Con người được thỏa thích bay lên trời. Hai năm trước, chính phủ chính thức thông qua các quy định rõ ràng cho loại phương tiện này. Về tầm cao, về việc phân luồng, về tốc độ lưu thông và cả những quy định về việc mua bán loại phương tiện này. Chúng ta cũng cố gắng sản xuất loại phương tiện cho thời đại mới ấy, nhưng khó chiếm ưu thế với hãng gốc. Thật ra trào lưu này cũng đã xuất hiện trên thế giới, và những quốc gia ấy cũng đã ban hành các luật, điều luật để hạn chế cũng như quản lý chúng. Sự hỗn loạn ban đầu lại dần được quy củ trở lại. Câu chuyện đi xe bay cũng chẳng khác chi chạy xe máy. Mỗi người một cái, từ lớn đến nhỏ. Nút giao ba bốn tầng, xưa xây dựng tốn kém, nay tiết kiệm được khối công khối của. Di chuyển dễ dàng. Vận tải dễ dàng. Nguồn cung năng lượng khá dồi dào, chỉ vì người ta chưa biến nó trở thành thứ vàng bảy màu thay cho vàng đen. Nhưng cũng sắp thôi. Vận tải rẻ, mọi thứ đều rẻ. Thế là một tương lai trong mơ sắp đến. Cái nôi văn minh lâu đời ở phương Đông thật tuyệt vời, lại có đủ thứ truyền thuyết mà khai thác, không sợ thiếu loại tài nguyên này. Lại nắm được công nghệ điều chế. Các nước nào có thể để yên. Một vài chính sách thuế, đồng thời khuyến khích phát triển nguồn nguyên liệu kia cách tự thân. Chỉ khổ các quốc gia có cuốn lịch sử mỏng tang. Vì chính sách thuế, giá xe bay tăng. Giá nguyên liệu cũng tăng, trong khi giá vàng đen giảm. Các công ty khai thác dầu mỏ cũng thăng trầm mấy hồi, chỉ còn số lượng không lớn còn sót lại. Hắn ngắt lời tôi. Hắn hỏi rồi kẹt xe ở đâu. Tôi cũng không rõ. Tôi đã định bảo rằng dù có thêm một loại phương tiện khác, thì kẹt vẫn hoàn kẹt. Ấy thế mà suy nghĩ một hồi nó lại chệch đi tận đâu. Có lẽ cái ý tưởng nó phi lý quá. Mà vốn dĩ nó đã phi lý ngay từ đầu rồi. Đời nào mà một cái món hàng ngon thế mà không bị kiểm soát từ sớm. Một ý tưởng chết, chết vì những vấn đề cần khai thác quá nhiều, trong khi cái vốn của tôi thì không đủ. Chẳng lẽ lại đi bàn đến những câu chuyện về làm kinh tế, chính sách, rồi đến các chiến lược mạng nặng chính trị và các cuộc chơi to đùng, với một lượng giá trị khổng lồ được lưu chuyển hay sao? Có lẽ hắn có đủ, nhưng hắn chẳng nói với tôi. Loại hắn là thế. Hắn thích chọc ngoáy, nhưng chẳng bao giờ tự mình làm. Hắn cứ luẩn quẩn và đưa ra những đề xuất tệ hại. Đáng lí hắn mới là người nên làm nó. Tôi tự hỏi liệu loại năng lượng bảy màu kia có thay thế nổi vàng đen hay không. Khi có nhiều điều thuận tiện như thế, con người có đẻ nhiều thêm hay không, khi không còn quá lo lắng về vấn đề chi phí. Hay rằng là nhân loại sẽ như loài chuột trong một thí nghiệm nào đó. Nơi mà một Trái Đất quá đông, với những điều kiện được phục vụ đầy đủ, đàn chuột dần suy thoái. Và thế là không còn kẹt xe nữa. Và tôi không biết cái tên "Xe Bus" liên quan gì đến câu chuyện ấy. Người ta sẽ đặt tên cho một tác phẩm trước khi bắt đầu viết nó, trong khi đang thực hiện nó, hay là sau khi nó hoàn thành? Liệu cái xe bus có liên quan đến một điều tôi cứ đinh ninh về một thế giới thối tàn? Tại sao tôi phải dùng một không gian to lớn, một câu chuyện kỳ bí để bắt đầu mà không phải từ những con người trên chiếc xe buýt? Tại sao phải định hình không gian bên trong và bên ngoài của đối tượng, mà ở đây là cái xe buýt? Sao không thể là một câu chuyện tình yêu? Như thế không được, thế thì con chữ của tôi có khác gì những câu chuyện ba xu đầy rẫy ngoài kia? Nhưng tình yêu tệ vậy sao? Chỉ đáng ba xu? Nói thế thì không phải, thế thì dòng văn học lãng mạn chỉ ba xu hết sao. Không phải về vòng xoay, về phương tiện, sẽ là về con người. Một chiều mùa hè dưới sắc trời ngả vàng. Từng lằn mây nhẹ xốp váng đầy trời như từng đợt sóng vỗ trên lớp biển hổ phách. Đã qua một cơn mưa đầu chiều quen thuộc, nên trời mới quang thế. Văn ngồi trong xe buýt. Cậu mới trở về từ một tiết học trong học kỳ hè mà cậu đăng ký để trả nợ môn. Văn học Mỹ. Hai tín chỉ. Ba mươi tiết. Không ít tiền. Văn hiểu mình không nên dùng phương pháp này để nói về nó, nhưng sự thật ấy quá phũ phàng để cậu cần phải mỹ hóa nó. Thế nhưng chuyện ấy không quan trọng, cậu chắc chắn có thể hoàn thành nó trong học kỳ hè này. Chắc chắn thế. Văn sẽ phải viết những điều đẹp đẽ từ câu chữ đến nội dung. Trong chiếc xe buýt chạy bằng dầu diesel cũ kĩ. Hơi từ máy lạnh của xe chẳng khác mấy hơi từ cái bếp củi mà đã lâu lắm rồi cậu chưa sử dụng lại. Văn chẳng rõ bên ngoài nóng hơn hay bên trong nóng hơn. Thành phố đang có chiến dịch chuyển đổi các phương tiện công cộng chạy dầu sang loại xe có công nghệ tốt hơn, và bảo vệ môi trường hơn. Kế hoạch ấy những mười năm. Cũng phải, đâu có dễ mà thay đổi cả thành phố nhanh chóng được. Hơn nữa, thành phố ô nhiễm chẳng phải bởi mỗi mấy chuyến xe buýt chạy dầu. Văn đang viết một truyện ngắn về một sinh viên ngành Toán đang chuẩn bị cho khóa luận tốt nghiệp của cậu ta. Văn đã lựa chọn trong rất nhiều ý tưởng và cho Nam Anh là một sinh viên ngành Toán - đối lập hẳn với cậu. Ấy là một thách thức đối với Văn, và cậu say mê việc phải quan sát tính cách, hành vi của cậu bạn xa lạ tên Nam Anh này. Hiện tại, Văn chưa có nguyên mẫu cho Nam Anh. Văn đã mấy lần qua ngôi trường đào tạo các ngành tự nhiên bên cạnh trường cậu để quan sát, thế mà chưa thực sự có một hình mẫu chuẩn xác cho Nam Anh. Nam Anh phải là một người như thế nào? Một hình tượng về các sinh viên ban tự nhiên khô khan, có phần xuề xòa dường như đã quá quen thuộc trên những con chữ và thước phim đã được viết, hoặc được quay. Văn không nghĩ rằng những con người ở trong một cộng đồng, ở bên ngôi trường bên cạnh, đều được đúc cùng một khuôn như thế. Có lần Văn ngồi trong phòng tự học của ngôi trường ấy, các sinh viên trường đó thường đến vào khoảng tám đến chín giờ sáng, phần lớn họ đều mặc loại áo đồng phục thể dục hoặc áo đồng phục trường mà người ta vẫn rao bán hồi mới nhập học học. Cũng có nhiều người mặc áo khoa họ. Một số người khác thì ăn mặc quần jean (nên gọi là quần bò thì hơn) cùng áo thun. Số khác lại mặc cầu kỳ hơn, tận mấy lớp, nào là áo thun, áo khoác, quần da,… Văn chắc chắn rằng không có một cộng đồng nào mà trong đó mọi người phải giống nhau như tạc. Tuy thế, cậu nên lựa chọn Nam Anh là một người thế nào? Nam Anh có phải là một người xuất sắc không? Cậu muốn Nam Anh nói lên thông điệp gì? Đây là điều Văn lo lắng. Một câu chuyện, có nhất thiết phải có một ý nghĩ nào cho nó không? Nam Anh có cần phải nói lên điều gì đó - nói thay Văn - hay không? Về cơ bản, những thông điệp được truyền tải qua một câu chuyện không phải là một nhận định của tác giả. Điều ấy thuộc về nhân vật. Ấy là điểm khác biệt giữa hư cấu và phi hư cấu. Văn nghe nói rằng sinh viên khi nghiên cứu, hay các nhà khoa học, cần rất cẩn thận với các tác phẩm phi hư cấu nhằm phổ biến khoa học. Những tác phẩm nhằm phổ biến khoa học thường được dùng với các từ ngữ dễ hiểu, các mô tả dễ hình dung. Trong khi đó, khoa học thường bao hàm nhiều trừu tượng hóa không thể - và không nên - cụ thể hóa. Một vài người bạn của Văn theo học các ngành khoa học tự nhiên đã bỏ cuộc vì họ bị mắc kẹt trong việc cố gắng hình dung những trừu tượng hóa thành một hình thù trong đầu họ. Một ví dụ nhỏ, về các chiều không gian. Việc đơn giản hóa không gian bốn chiều (thậm chí là các không gian nhiều chiều hơn) để biểu diễn trên không gian ba chiều đã làm nhiều người có những ngộ nhận về kiến thức. Dễ thấy nhất là khi người ta cố biểu diễn lực hấp dẫn trên một tấm màn căng với những khối tròn nặng. Nam Anh đã nói điều này với Văn. Nam Anh đã cố gắng dùng những hình dung Vật Lý - có phần gần mặt đất hơn so với Toán, để Văn có thể hiểu. Văn có lẽ cũng muốn chia sẻ với Nam Anh về những ngộ nhận của người ngoài ngành trong quá trình phổ biến văn học, và công việc phê bình. Cơ mà câu chuyện ở đây không viết về Văn, mà đang viết về Nam Anh, và Văn phải hết lòng mà học hỏi ở Nam Anh. Văn phải hiểu Nam Anh hơn tất cả những gì người đọc có thể hiểu về Nam Anh, trước khi những Nam Anh khác bắt đầu được tạo sinh khi độc giả tiếp nhận Nam Anh. Bây giờ Văn đang trên xe buýt, có lẽ Nam Anh cũng đang đâu đó trên xe buýt. Nam Anh cũng như Văn, kẹt trong một trận kẹt xe chưa từng thấy. Nam Anh yêu toán từ nhỏ. Nam Anh mới năm ba, nhưng cậu đã hết mực yêu Toán. Có lẽ thế. Làm sao để dung hòa khoa học với văn chương? Trong khoa học, người làm nghiên cứu thường đặt đối tượng nghiên cứu lên làm chủ thể và dường như loại bỏ hoàn toàn sự hiện diện của họ về mặt câu từ. "Dựa theo những số liệu về… này, ta có", "Từ kết quả của nghiên cứu bởi A., ta thu được". Những người nghiên cứu cố gắng làm cho kết quả mà họ thu được trở nên khách quan nhất, mặc dầu nó cũng bị điều hướng bởi lối tư duy của họ. Tương tự, văn chương cũng vậy. Nhà văn xây dựng nên các kiểu nhân vật, kể một câu chuyện, với những nhân vật mang những quan điểm riêng, và rồi họ dần đẩy một cái quan điểm mà họ muốn nêu bật lên. Dưới sự vận động của câu chuyện và các nhân vật, trông có vẻ khách quan nhưng luôn có điều hướng. Có lẽ văn chương dễ tiếp cận hơn khoa học, nên người ta mới nói về văn chương, chê bôi văn chương nhiều như thế. Còn với khoa học, luôn có một cánh cửa dày ngăn cách công chúng ở ngoài. Cho dầu có chửi khản cả cổ, thì những người bên trong vẫn mặc kệ. Thỉnh thoảng, những người bên trong tuồn ra ngoài cho công chúng vài kết quả, vài câu chuyện lẻ tẻ, để họ cảm nhận được rằng họ đã nắm bắt được tri thức. Như câu chuyện về con mèo của Schoedinger. Người đọc chỉ quan tâm đến việc một con mèo nửa sống nửa chết chứ chẳng hề để tâm đến cái ràng buộc chính yếu ở đây là một hệ lượng tử, với kích thước cực kỳ nhỏ. Con mèo chỉ là một biểu hiện hữu hình để những người thường có cảm giác sờ nắm được cốt lõi. Tuy nhiên, có lẽ chính vì điều này, khi mà tri thức thực sự quá xa vời với công chúng, khi mà người ta cần quá nhiều nền tảng để cảm thụ khoa học, người ta mới lại càng xa rời khoa học. Bấy giờ người ta thường dễ tin vào những thứ ngụy khoa học hơn. Cái gì gọi là ngụy khoa học? Đơn giản mà dễ thấy nhất bây giờ ấy là những câu chuyện về "tần số năng lượng của con người" hay "trường năng lượng của con người". Chúng ta vẫn cần những nghiên cứu thực sự rõ ràng, với những dữ liệu và lập luận xác đáng cho câu chuyện này. Tuy thế, ngày nay, nhiều người chỉ viện dẫn một vài nghiên cứu nhỏ lẻ, và cố gắng điều hướng - một cách thiếu dẫn chứng - thông tin nhằm phục vụ cho quan điểm của họ. Họ trích lấy một câu của một tiến sĩ, hay giáo sư nào đó, rồi bỏ qua bối cảnh của câu nói đó, và điều hướng thông tin theo ý mình. Họ lợi dụng sự tương đồng và sự mù mờ trong các thuật ngữ để đánh đồng các thông tin thiếu cơ sở khoa học của họ. Ấy là ngụy khoa học. Đội lốt khoa học. Văn chợt nhận ra một dòng suy nghĩ đã đi quá xa của mình. Văn không rõ dòng suy tư này là của mình hay của Nam Anh, nhưng nó đã trôi như thế, trên một chuyến xe buýt đang nhích từng centimet một. Liệu Nam Anh có bực mình khi công việc của cậu trễ nải do kẹt xe không? Hay Nam Anh đã lường trước về cái ùn ứ này từ trước rồi? Ở chỗ Nam Anh bây giờ nên là buổi sáng hay buổi chiều. Trong cái ánh cam vàng phủ đầy trời đất, cùng một ít mùi ngai ngái sau mưa, hay là một buổi sáng tinh mơ, nơi ánh vàng nhạt bắt đầu len lỏi qua những tầng không lam biếc. Trong câu chuyện văn học, Nam Anh nên là ai? Liệu Văn có cần một câu chuyện trước khi có cho Nam Anh những nét đặc trưng về tính cách. Cái nào nên là thứ đến trước? Hay chỉ đơn giản là chính vào lúc này, xen giữa muôn vàn luồng suy nghĩ mà Văn chẳng thể tỏ tường rằng ấy là của Văn hay của Nam Anh, và thế là Nam Anh sẽ tự viết nên câu chuyện của cậu ấy như cậu ấy nên là và đáng là. Rằng trong khi Nam Anh đang kẹt trong một chuyến xe buýt trong một buổi sáng trời vẫn trong. Mặt trời đã lên chứ chẳng phải còn mơ màng trong những áng mây. Mặt trời đã lên và mọi người đã dậy. Nam Anh chen chúc trên những chuyến xe buýt mà hàng ngàn sinh viên ở ký túc xá ấy tranh nhau mỗi sáng để kịp thời đến trường. Đáng lẽ Nam Anh phải dậy từ sớm, nhưng cậu đã không nghe tiếng báo thức inh ỏi kia. Đêm qua cậu cố gắng hoàn thành phần bài tập mà cậu nhận làm hộ cho một người khác. Một bài tập không khó, chỉ là môn đại cương. Điều duy nhất khiến bài tập ấy trở nên thử thách là về thời gian. Nhưng cái khoản cậu được trả cũng không rẻ tí nào. Một người bạn học ở trường tư nhờ cậu. Văn chợt nghĩ điều này có phải là một kiểu ngầm ám chỉ về chất lượng đào tạo không, tuy nhiên, ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua mà chẳng kịp xâm chiếm quá lâu nơi dòng suy nghĩ của cậu. Nam Anh đã làm đến gần ba giờ sáng mới hoàn thành bài tập ấy. Cậu bạn kia của Nam Anh chưa bao giờ cần một bài luận có thể đạt điểm cao, thế nhưng, Nam Anh vẫn cố gắng hoàn thiện bài tập tốt nhất trong khả năng của mình. Nam Anh phải đi tận hai mấy cây số để đến cơ sở nơi trung tâm thành phố. Đáng lí cậu phải dậy từ năm giờ sáng, lúc bấy giờ người ta vẫn chưa lên xe nhiều. Cậu sẽ đến trường vào khoảng sáu giờ hơn đến sáu rưỡi. Cậu sẽ có khoảng thời gian để thong thả ghé cửa hàng tiện lợi hoặc mua một bữa sáng ở cổng trường. Ngồi tại ghế đá và bắt đầu thưởng thức chúng một cách từ tốn. Cậu sẽ lên phòng bộ môn từ sớm. Một khoa chia thành hơn năm bộ môn, mỗi bộ môn hơn chục người. Có một vài bộ môn có ngành tương đối "hot" sẽ có nhiều sinh viên hơn. Nam Anh là một trong hai người được thầy phụ trách bộ môn trao chìa khóa bộ môn cho. Lý do đơn giản là bởi cậu thường đến sớm. Không gian của bộ môn không lớn, chỉ gồm ba phòng học và một phòng cho giảng viên. Bốn phòng ấy vây chung quanh một gian giữa là gian khách. Thỉnh thoảng sinh viên không có tiết vẫn vào phóng trống tiết hoặc ngồi tại phòng khách. Vậy nên sinh viên mới cần cầm chìa khóa của bộ môn. Hôm nay Nam Anh không kịp đến trước giờ học. Thường thì đó sẽ là một quãng để bạn bè cùng thảo luận thôi. Tuy nhiên, Nam Anh rất thích chỉ một chút thời gian ấy. Những người bạn cùng cậu bàn luận vài vấn đề toán học. Thỉnh thoảng là một vài chương trình ngắn hạn hay các cơ hội thạc sĩ, tiến sĩ. Không còn bao lâu nữa, họ sẽ tốt nghiệp. Một vài người bạn đã xin được thầy hướng dẫn và bắt đầu làm khóa luận. Để chuẩn bị một khóa luận tốt, hay xa hơn là có một công bố khoa học, một bài báo đăng trên tạp chí danh tiếng, cần nhiều thời gian. Để đăng lên được tạp chí tốt, nội phần phản biện thôi cũng cần mấy tháng. Quy trình không đơn giản. Bởi vậy, có khi cần dành cả một năm, hoặc hơn, để hoàn thành khóa luận. Tìm được thầy hướng dẫn từ năm ba cũng không có gì lạ. Nam Anh cũng nghĩ đến việc ấy, như những người bạn khác. Nam Anh đã có dự định liên hệ cùng một số thầy để xin được hướng dẫn, cậu sẽ làm khi rảnh rang hơn một chút. Một vài người bạn của cậu không chọn theo hướng nghiên cứu, họ chọn đi làm thay vì học lên cao. Nam Anh vẫn trên chuyến xe buýt đang kẹt nơi ngã tư giữa hàng vạn người đổ ra đường để đến được một tòa cao ốc chứa văn phòng của họ, đến khu chế xuất chứa xưởng họ làm việc, đến ngôi trường chứa lớp học của họ. Hoặc chỉ là đổ ra đường, như cái nhịp mà thành phố này đáng có. Thành phố chứa họ. Nam Anh đã trễ giờ. Tiết học của bộ môn thường không bắt đầu sớm. Giảng viên khá linh hoạt trong vấn đề này. Tiết học có thể bắt đầu từ tám rưỡi sáng đến tận trưa. Mở đầu có thể sớm hoặc muộn hơn, và kết thúc cũng thế, tùy theo dung lượng bài học. Nam Anh đã trễ giờ chuẩn là tám rưỡi, tuy thế, cũng chưa chắc rằng cậu đã thực sự trễ. Thế nhưng mà chuyện ấy không quan trọng. Việc đi trễ giờ làm cậu phải ôm một chút thấp thỏm trong lòng, trong cái sự ì trệ của giao thông. Cậu nghĩ về việc xuống xe và đặt một chuyến xe ôm công nghệ. Hoặc là cúp tiết. Một lớp học quá ít người, ai cũng biết mặt nhau. Giảng viên không lạ mặt với Nam Anh. Cậu thường xuyên ngồi bàn đầu, trong một lớp học chỉ có hơn chục cái bàn đôi được xếp san sát. Không phải là câu chuyện điểm danh, điều ấy chẳng quan trọng lắm. Nó sẽ chẳng thực sự ảnh hưởng đến thành tích của cậu. Điều gì đáng cho những mỏi mệt ngay bây giờ của Nam Anh. Văn tự hỏi rằng thực sự Nam Anh đang nghĩ gì? Văn hiểu rằng cậu đã lạc mất cái cảm giác kia, khi cậu không cần giải thích cho mọi suy tư (kể cả ấy là câu hỏi) của Nam Anh nữa. Cái cảm giác những ngón tay không ngừng chạy trên bàn phím đã biến mất. Những dòng suy tưởng mà cậu cho là của Nam Anh đã lạc đi khỏi cậu trong một khoảng cậu không ngờ. Và giờ đây, Văn vẫn sẽ phải tiếp tục lăn những ngón tay mình trên mặt chữ đen, nền xám của chiếc laptop và tiếp tục hoàn thiện Nam Anh một cách có ý thức, với những sắp đặt của chính cậu dành cho Nam Anh. Những dữ kiện vô thức kia cho cậu biết rằng Nam Anh đang gặp một chút chướng ngại trong việc cân bằng giữa công việc và học tập. Đồng thời Nam Anh cũng phải đối mặt với việc lựa chọn một hướng đi cho tương lai của chính cậu ấy. Bởi thế, cái không gian của cuộc kẹt xe kia làm cho mọi thứ trở nên mệt mỏi và trì trệ. Nam Anh chưa thể có được quyết định cho chính mình, dẫu chỉ là việc tham dự hay bỏ qua một buổi học. Và liệu việc hiện diện trong lớp học ấy có ảnh hưởng đến tương lai của cậu ấy sau này hay không? Câu trả lời nằm trong tay Văn. Tất nhiên, ở một góc nhìn thực tế, điều này chỉ là một phần nhỏ góp phần cho chuỗi hành động cực kỳ phức tạp của một con người phải vận động mỗi ngày. Thế nhưng, trong dung lượng của một câu chuyện, hay một truyện ngắn, điều này lại mang tính đại diện và có tính quyết định khá cao. Sự phân vân nhỏ nhặt này là biểu hiện cho một điều lớn hớn, và cũng thế, trọng lượng của quyết định này cũng lớn hơn rất nhiều so với sự nhỏ nhặt hiện hữu của nó. Văn phải thực sự chọn. Rằng câu chuyện của cậu muốn nói điều gì với độc giả. Một cái khung sườn cần có sẽ khá cố định. Những thay đổi chỉ đến khi cậu đắp thêm những bó cơ, mạch máu, hệ thống thần kinh cho Nam Anh. Vẫn có một khả năng xảy ra khi Nam Anh đã có cho mình một hệ thần kinh đủ vững chắc, thì chính nó sẽ điều khiển bộ khung xương mà Văn đã định. Tuy thế, trước tiên, Văn cần một bộ xương cái đã. Câu chuyện và nhân vật của chính câu chuyện đó. Dù là câu chuyện hay nhân vật, thì Văn cần kiểm soát được chúng trước khi có những biến chuyển trong quá trình sáng tạo này. Văn suy xét xem liệu Nam Anh có phải là một loại lý tưởng hóa của bản thân hay không? Cậu có lẽ sẽ gửi gắm một vài đặc tính cá nhân của mình vào Nam Anh và phóng đại chúng, đồng thời, đắp thêm một vài khác biệt làm cho nhân vật thoát ra khỏi cái đang ràng buộc cậu. Nam Anh có một sự cầu toàn thông qua những hành vi của cậu. Khi mô tả Nam Anh, câu chữ thường xuất hiện dưới dạng liệt kê. Nam Anh có những gắn kết khá tốt với bạn bè. Nam Anh yêu khoa học nói chung, và Toán học nói riêng. Nam Anh ghét những lập luận thiếu dẫn chứng xác đáng. Liệu Nam Anh đã đủ sinh động chưa? Nam Anh có cần đến những sở thích mang tính cá nhân và ngoài công việc không? Như thích ăn gì, thích chơi cái gì. Hoặc là những ấn tượng về mùi, vị, hay những ánh nhìn. Cậu bị kẹt ở giao lộ, vậy xe buýt có mùi gì? Điều này dễ liên tưởng, bởi Văn cũng đang ở trong một chiếc xe buýt. Nhưng nên cho Nam Anh ngồi trong một chiếc xe buýt chạy dầu, chạy khí nén hay xe điện? Dường như các xe buýt chạy từ khu ký túc ra đều chuyển thành xe khí nén hết rồi, thế nên có lẽ sẽ khác với xe buýt Văn đang ngồi một chút. Ít mùi hơn. Nhưng do có nhiều sinh viên nên cũng không chắc chắn được. Cơ mà vì là buổi sáng nên thường sẽ là mùi nước hoa, nước xả, dầu gội. Lẫn đâu đó là một ít mùi đồ chiên bán ngay cổng kí túc xá chẳng hạn. Mùi điều hòa xồng xộc vào khoang mũi. Nam Anh ở trong một giao lộ kẹt xe, về âm thanh sẽ là những tiếng còi. Tiếng thông báo trạm từ xe buýt. Có cần thiết có thêm một chút âm thanh từ chiếc điện thoại đang xem một video bất kỳ nào đó của bác tài xế, được phóng đại thông qua hệ thống loa của xe buýt không nhỉ? Điều ấy thường gây thêm nhiễu loạn cho nhân vật chẳng hạn. Trời nên đổ nắng hay đổ mưa, hay âm u. Văn nghĩ rằng mưa buổi sáng sẽ tệ lắm. Nghĩ đến cảnh người người mới cố gắng là lượt cho chỉnh tề để bước ra đường, rồi phải trùm lên cái áo mưa có chút mùi ngai ngái do chưa thể hoàn toàn khô dưới cái tiết mưa mỗi chiều. Cả một thành phố phí công hoài sức. Một chút âm u có lẽ đã đủ cho cái tâm trạng ủ dột của Nam Anh rồi. Văn đang kê chiếc laptop trên đùi và ghi chép lại những tìm hiểu của cậu về Nam Anh, và cả bối cảnh cho câu chuyện nữa. Chúng sẽ cần được sắp xếp lại, và được đặt thêm những mô tả, và những mỹ từ quanh đó, thế mới có thể hoàn thành một truyện ngắn. Có lẽ câu chuyện cần một biểu tượng xuyên suốt. Văn nên chọn hình ảnh nào cho nó bây giờ? Điện thoại chợt vang tiếng thông báo. Văn nhìn màn hình sáng lên thì đọc được tiêu đề cùng một chút thông tin.

Selection

Dear Nam Anh DANG NGUYEN,
The Student Admission for the Doctoral Program of XU for spring 2024 would like to inform you that, unfortunately, you have not been ed.
We are grateful for your time and interest, and we are sorry to…"

Văn nhìn rõ ràng ấy là tên của Nam Anh, tiếp đó là chương trình Tiến Sĩ. Điều này khiến cậu bối rối. Văn nhanh chóng ấn vào thông báo, nhưng email hiện ra chỉ là một quảng cáo quen thuộc từ một nhãn hàng mà cậu đã vô tình đăng ký chương trình quảng cáo qua email hàng tuần. Tôi khi nhìn thấy thông báo ấy, không khỏi tiếc thương cho nó. Nó dường như đã rời khỏi xe bus, đi đâu đó. Mười tám giờ ba mươi sáu phút giờ ta. Mười ba giờ ba mươi sau phút giờ bên ấy. Nó đã chuẩn bị sẵn sàng cho kết quả này. Thầy nó bảo rằng mặc dù trực tiếp liên hệ với giáo sư, nhưng còn phụ thuộc khá nhiều. Thứ nhất là biểu hiện của nó, tất nhiên. Mặt khác là lượng ứng viên. Có lẽ đã có người giỏi hơn nó cũng liên hệ. Nó đã tự nhủ rằng mình cần bình tĩnh trước mọi kết quả, nhưng dường như điều ấy vẫn luôn là một chuyện khó mà thực hiện. Nó im lặng, dường như không có bất kỳ động tĩnh nào. Nó làm tôi tưởng rằng nó đã rời khỏi chuyến xe buýt này, bắt một chuyến xe ôm công nghệ giá rẻ và trở về phòng trọ. Nó đã kịp trở về và nằm ngủ, trên tấm nệm đơn được kê trên hai tấm pallet gỗ thô chiếm gần nửa căn phòng trọ. Nó đã ngủ một giấc ngủ thật êm mà chưa hề đọc chiếc email đó. Tôi nhận thấy một chút đắng đắng nơi miệng mình. Tôi nghĩ rằng ấy là do tôi chưa thể hoàn thiện cả Văn và Nam Anh hơn là vì câu chuyện của nó. Cả hai nhân vật này của tôi đều là một thứ sơ sài, và thật tệ khi tôi bất lực trước chuyện ấy. Tôi nên bắt đầu cho cả hai nhân vật ấy với nhiều sự đầu tư hơn chẳng hạn. Tại sao tôi phải luôn bắt đầu một nhân vật với những tệ hại của họ như thế. Một cuộc than thở chăng? Hay là khẩn cầu một sự thương xót. Tôi có lẽ chẳng thể thoát nổi những con người cực khổ dưới sự vận động của thời thế. Những áng văn hiện thực phê phán đã tự động biểu hiện ngay khi tôi chạm tay xuống bàn phím. Tệ thật. Tôi chẳng hề có tiếng than thở của riêng mình. Tôi cóp nhặt chúng từ những con chữ của người khác mà tôi đã đọc được. Một sự hời hợt, như những cuộc kẹt xe, vẫn ra rả mỗi ngày, từ báo chí, truyền thông, hay những câu chuyện đầu ngõ. Những cuộc kẹt xe của tôi không có gì nhiều hơn ngoài tiếng còi xe và những cuộc cãi vã. Cả lối dùng từ cũng chẳng có gì khác biệt "ùn ứ", "trì trệ",… Không có một lối hình dung nào khác biệt trong đó. Tôi có lẽ thất vọng nhiều hơn vì chuyện ấy, hơn là lại một lần nữa bị từ chối. Sự bị từ chối của nó có lẽ chỉ khiến tôi thương xót. Có lẽ thế. Tôi chỉ đang tập trung vào Văn, vào Nam Anh, vào những ngả đường đông nghẹt người trước mắt. Một tiếng xe cứu thương từ xa vọng lại. Đoàn người chật chội cố gắng lê lết để "nhường đường" cho một sinh mệnh. Những chiếc xe mới gần đèn đỏ cố gắng nhích lên từng chút một. Tôi thấy kẹt xe dường như cũng là một thứ diệu kỳ. Giữa một không gian mà không ai mang một cái danh tính riêng. Những người kẹt ở giữa ngã tư này chỉ là những người điều khiển xe máy, những người điều khiển phương tiện cá nhân, những người di chuyển bằng phương tiện công cộng. Không ai trở thành một cá thể có tính cá nhân hay một kẻ đặc biệt giữa phố phường đông nghẹt. Chỉ có người đang nằm trong chiếc xe cứu thương kia là một người rõ ràng nhất. Thứ nhận biết anh ta, hoặc cô ta, không phải là tên thật của anh ta, hay cô ta, mà là tình trạng về sức khỏe của cô ta, hay anh ta và tiếng kêu inh ỏi của chiếc xe cứu thương. Tôi chợt nghĩ vẫn có một chút chuyện tốt trong cái kẹt xe này. Điều đầu tiên, có lẽ mọi người đều đang cố gắng cứu một mạng người. Điều thứ hai, sự ì trệ này, khiến nó không thể thoát khỏi đây. Mọi sự tạo sinh, hay hủy diệt, thường phải có một sự bột phát, sau những chuẩn bị âm thầm mờ nhạt. Sự bột phát ấy sẽ khiến mọi thứ sụp đổ một cách khá bất ngờ với những người quan sát, và thường là một điểm nhấn thú vị. Nhưng trong cái không gian này, sẽ không ai có thể làm chuyện ấy, không ai cả. Cái không gian này ngăn cản mọi hành vi cá nhân, và rồi ràng buộc mọi người phải vận hành theo một dòng chảy của hệ thống. Cho dẫu hệ thống này đầy rẫy hỗn loạn. Nó sẽ không thể có một hành vi bất ổn nào được. Nó cũng không thể khóc rống lên giữa vô vàn người đang xem nó là một cá nhân không hề có một chút định danh nào, để biến đổi, trở thành một điểm nhấn như tiếng í ới của chiếc xe cấp cứu kia. Một an ủi nhỏ nhoi ấy dành cho nó. Nó sẽ không thể có một ý định bồng bột nào trong cái khung cảnh này. Văn nghe thấy tiếng xe cấp cứu từ xa vọng lại. Email ban nãy khiến cậu hoài nghi. Ban đầu cậu hoài nghi rằng cậu đã quá nhập tâm vào Nam Anh, nhưng sau đó cậu có một hoài nghi lớn hơn. Chiếc xe cấp cứu xuất hiện thế này liệu có phần nào là sắp đặt không. Nó có là một khơi gợi có chủ ý không? Bỗng Văn nhớ về mồi cám lợn mà bố cậu vẫn hay kể cậu nghe, trong những câu chuyện ngày nhỏ của bố. Nồi cám lợn được nấu bằng đủ thứ rau dưa, với cám gạo. Bố cậu kể rằng ông cùng các anh em của mình đôi lúc bỏ cả khoai vào ấy để sau khi nấu xong vớt ra ăn. Lắm lúc ăn phải củ ráy, cổ họng ngứa không chịu nổi. Văn thấy cái giao lộ này cũng chẳng khác gì nồi cám lợn. Chúng đặc quánh. Từng chút bụi lơ lửng, cuộn trào. Chúng giữ lấy nhiệt lượng đầy đặn của cả một ngày. Và như thể đang sôi sùng sục trong cái ráng chiều. Dòng xe chẳng thể nhích nổi bên dưới chính là lớp khê dưới đáy nồi. Người nấu cám chẳng biết đã bỏ đi đâu, chẳng thèm quấy, làm lớp cám đóng cứng dưới đáy. Khét khê. Bây giờ, người ấy mới nhớ ra mà lấy cái que khời quẹt một đường xuống tận đáy. Một chiếc xe cấp cứu cố gắng chạy xuyên qua hàng ngàn cái xe đang chết cứng. Người quấy cám bất lực khi nhận ra hành động đảo ấy là vô dụng. Đáy nồi đóng cứng. Khét lẹt, và đen ngòm. Hơn cả một nồi cám, sự đặc quánh này bởi vô số bụi và hơi thả ra từ những động cơ cả mới lẫn cũ. Mùi dầu đốt, chiếc máy lạnh phả hơi còn nóng hơn cả bên ngoài. Càng xuống dưới, không gian càng đặc. Chúng đè lên Văn. Đè lên cả Nam Anh ở đâu đó, trong một cuộc kẹt xe khác mà Văn vẫn chưa thể định hình. Hoặc có lẽ Nam Anh cũng đang ngồi trên một chiếc xe buýt nào đó bên kia đường. Thậm chí, Nam Anh có thể ngồi cùng một chuyến xe với Văn, và cả người quấy cám. Họ đều đang bị cái trì trệ này vây hãm và đè nén. Một nồi cám bỏ đi, nhưng người quấy cám vẫn cố gắng cậy từng mảng khê đóng dưới đáy. Chuyện ấy chỉ càng khiến cái mùi khét ấy lan ra, tỏa khắp nồi cám. Một nồi cám hỏng. Khoai sẽ khét. Ráy cũng khét. Tuy nhiên ấy là nồi cám cho heo (phải là lợn chứ nhỉ). Không chắc chuyện ấy đủ quan trọng. Sau thời gian nấu. Nồi cám sẽ dần đông lại. Một lớp màng chắc được đóng bên trên, lớp bên dưới còn ấm nóng, đặc sệt. Hổ lốn. Từng mảng đen cháy xen lẫn trong mớ rau rợ. Nhưng những con heo không được phép quan tâm về một cái hương vị thơm ngon hay tệ hại của một nồi cám. Nó cần phải ăn cho sự sống của nó, phải ăn cho sự sống của người nuôi nó. Nó sẽ thốc hết mớ cám nặng mùi kia vào bụng nó và dây đầy ra sàn chuồng sau đó. Hôi hám và dơ dáy. Rồi người quấy cảm sẽ trở thành người xịt chuồng. Họ bật cái vòi nước lên và ra sức xịt vào cả con heo lẫn cái chuồng của nó. Con heo sạch hơn, cái chuồng sạch hơn, nhưng vẫn bẩn. Nhơ nhớp và bốc mùi. Tuy nhiên, người xịt chuồng sẽ chẳng quan tâm chuyện ấy lắm vì họ biết họ sẽ sớm lại lần nữa làm công việc này. Nó nghe tiếng xe cấp cứu. Dòng người nhích đi, hòng nhường đường cho chiếc xe ấy. Đáng lẽ nó nên đặt một chuyến xe ôm công nghệ về để không phải chứng kiến thêm một sự tử vong, hoặc cận kề tử vong. Nó không biết về khát khao sống của người nằm bên trong chiếc xe cấp cứu. Nó cũng không rõ về khát khao sống của chính nó. Hắn lần này chưa xuất hiện. Nhưng nếu hắn đến, nó biết chắc rằng hắn sẽ bảo rằng nó vẫn còn một chỗ chưa phản hồi. Hắn sẽ nói rằng nó sẽ đậu chỗ ấy. Nó sẽ đến Thụy Sĩ. Thụy Sĩ cũng ở múi giờ GMT+2. Rằng Thụy Sĩ đẹp thế nào. Rằng cơ hội của nó lớn bao nhiêu. Nó hãy xin thêm cơ hội thực tập ngắn hạn ở CERN**, sẽ tốt cho nó rất nhiều. Có cơ hội ở CERN, sẽ có thêm nhiều cơ hội khác. Chắc chắn là như thế. Nhưng hắn vẫn chưa đến. Hai năm thạc sĩ không khiến nó quen được với việc phân loại rác. Nó không nhớ chuyện phân loại rác khi về nước. Từ chung cư, đến các khu trọ nằm rải rác khắp thành phố, người ta đều cho tất cả vào một túi rác đen ngòm. Nó trở về nhà là lại quen ngay được với việc ấy - thói quen đem tất cả rác vào một cái bị to đùng đi với nó hai mươi hai năm cuộc đời, chẳng dễ mà bỏ được. Nó đi xe buýt chỉ đơn giản vì nó quá lười để đưa một chiếc xe máy lên cái thành phố tấp nập này và sau đó lại là tính toán đến chuyện mang chiếc xe ấy về quê trở lại. Xe buýt là một lựa chọn hợp lý, không phải vì câu chuyện bảo vệ môi trường hay giảm tải áp lực cho hệ thống giao thông của thành phố. Thành phố có chính sách chuyển đổi sang xe buýt điện trong vòng mười năm, chuyện ấy chẳng có tí gợn sóng nào trong lòng nó. Hắn cũng không nhắc nó về chuyện ấy. Hắn chỉ nói chuyện ấy với tôi. Nhưng cũng chẳng quan trọng với nó lắm. Tôi dường như đã bỏ qua sự tồn tại của nó. Điều này đã đến. Rồi nó sẽ mờ dần, mờ dần chăng? Dạo này nó đã phát hiện ra chuyện ấy, nhưng cũng chẳng quan trọng. Nó lờ mờ cảm nhận một ai đó khác, đã dẫn chiếm lĩnh mình. Giống như câu chuyện rất xưa về khách. Khách trước đây đã từng rất rõ nét. Khách đến thuở nó còn đi học. Khách thích những câu chuyện tiên hiệp dài vài ngàn chương từ những tác giả mạng bên Tàu. Khách thích mê những cuộc phiêu lưu ấy. Khách không quá đam mê đọc những truyện tiên hiệp từ hồi còn sơ khởi. Những truyện ban đầu mang nhiều màu sắc của kiếm hiệp hơn, với những hệ thống tu luyện không quá rõ ràng. Ngày ấy, do đọc những câu truyện tập trung vào tu hành hơn, bởi thế, khi gặp phải những câu chuyện từ thời sơ khai dòng tiểu thuyết này, khách chẳng có mấy ấn tượng. Khách thích những cuộc giao đấu đầy màu sắc, những đạo áo bào bay phần phật, trong những luồng linh khí, pháp thuật bay tới tấp. Với khách, sức mạnh của con người lớn lao biết bao. Khách chứng kiến nhân vật chính đối diện với tình cảnh ngặt nghèo, cửu tử nhất sinh. Xương cốt, kinh mạch đứt đoạn cũng không làm họ vẫn mệnh. Sức mạnh của con người lớn biết bao. Cái gọi là tu luyện là ở đấy, không ngừng đột phát những giới hạn của chính bản thân họ. Khách thích những cuộc giao đấu đầy màu sắc. Khách như hòa mình làm một với nhân vật, với những ranh mãnh của họ, với những năng lực cường đại của họ. Khách như thể bay lên, với những đạo áo bào trương phồng, bay phần phật trong gió. Khách băng qua những ngọn núi và những đồng bằng, trên thanh phi kiếm của khách. Khách cảm nhận từng dòng linh lực chảy trong mình, hiện hữu trong lòng bàn tay. Một luồng lam khí hội tụ, và chỉ cần khách thả chúng ra, nó sẽ bung trào, bay lên cao, hoặc đưa khách bay lên cao. Khách sẽ chiến đấu với những yêu thú. Chúng to lớn hơn tất cả tạo vật từng được tạo ra, với sức sống chân thật. Khách dùng hết sức của mình tung một đòn cũng không khiến nó tổn thương. Khách cố gắng lấy những pháp bảo bên trong túi trữ vật của mình ra. Một thanh kiếm. Khách dồn linh lực vào nó. Một trận đồ hiện lên sau lưng khách. Đạo áo bào căng phồng, bay phần phật. Khách ở chính giữa trận đồ, giương cao kiếm. Dòng linh lực chảy từ đan điền, dồn vào cánh tay, chạy đến nơi chuôi kiếm, hòa cùng lưỡi kiếm. Ánh lam rực sáng. Khách chĩa mũi kiếm về phía con yêu thú. Vạn kiếm xuất hiện từ trận đồ đổ như thác về phía con yêu thú nọ. Con yêu thú không sợ hãi. Nó lao vào giữa cơn mưa kiếm. Chúng chẳng thể xuyên qua lớp da thịt dày béo của con yêu thú, chỉ làm chậm tốc độ của nó đi một chút. Thế nhưng chỉ cần vài hô hấp ấy mới chính là điều khách mong đợi, là cơ hộ khách cố lòng kiến tạo. Khách lấy hai viên tròn nhỏ từ túi trữ vật ra, ném thẳng vào con yêu thú. Chúng nổ tung ngay trước mặt con yêu thú nọ. Từng đợt sóng kích tràn ra. Không gian mịt mù. Sóng nhiệt tràn trước mặt yêu thú làm nó đau đớn. Nó gào lên một tiếng đầy hung tàn. Nhưng ngay sau đó, nó còn kêu lên một tiếng lớn hơn. Khách nhân lúc khói bụi mờ mịt đã tiến tới ở bụng con yêu thú. Khách dùng một thanh cự kiếm đâu sâu vào con yêu thú, ngay chỗ chí mạng, làm nó gào thét. Hang động dường như không chịu nổi sóng âm trùng kích mạnh như thế, khách cảm nhận rõ sự rung lắc trong không khí, làm cho khách mất thăng bằng, buộc phải đáp xuống đất. Con yêu thú sau khi bị một nhát chí mạng vẫn chưa hết lực, điên cuồng khua mấy cái càng của nó đến chỗ khách. Không đợi lâu, dường như chỉ trong một hô hấp, khách bay thẳng về phía cửa hang, dãn cách với con yêu thú. Con yêu thú không bỏ cuộc, vẫn không ngừng gào thét đuổi theo. Khách xoay người. Phóng một luồng linh khí lên trần động rồi dồn hết linh lực thoát ra khỏi cửa hang. Cú xoay người làm con yêu thú kéo gần khoảng cách với khách, cái càng của nó kéo một đường đến phía khách, khách lại lần nữa xoay người, điều một tấm khiên ra đỡ lấy cú quật. Kình lực ấy đánh vào làm khách văng ra xa. Mượn lực, khách càng tiến tới cửa hang nhanh hơn. Trần hang chịu sự công kích dữ dội từ sóng âm của con quái vật, lại nhận thêm một kích của khách, đổ sập, từng tảng lớn rơi xuống. Con yêu thú gào thét bên dưới những tảng đá chất chồng. Khách vừa mới kịp thoát ra khỏi cửa hang thì tiếng ầm ầm vang vọng. Cả một hang động cỡ sân vận động vài chục ngàn người đổ sụp. Khách chỉ cần chậm một khắc thôi là đã kẹt ở trong đó. Khách thích mê những câu chuyện như thế. Tuy nhiên, khách lại thấy nhạt dần khi chẳng còn có thể tìm thấy những khác biệt trong những câu chuyện mà khách đọc nữa. Lên đại học, khách đã mất đi hoàn toàn niềm vui khi đọc những câu chuyện này. Khách tìm về những danh tác thời đầu. Ấy thế mà lại có những ấn tượng đặc biệt hơn ngày trước. Nhưng bởi hệ thống tu luyện không rõ ràng, mà những câu chuyện ấy dường như là những câu chuyện về con người hơn là tu tiên. Những cái kỳ ảo kia lại dần xa vời với khách. Những diệu kỳ chẳng còn có thể lay động khách, và những dằn vặt của những con người mới là điều khiến khách nhọc lòng. Những con người ấy cũng khổ sở với công việc tu tiên. Câu chuyện tu tiên không phải là câu chuyện chiến đấu với cường địch, mà là câu chuyện tu tập tính người bên trong ấy. Những giằng xé của cái tôi trần tục để có một cái trường tồn và cái khí chất của một vị thần thánh vô dục. Nó bắt đầu khổ sở với những công việc của chính nó, nơi một ngành học mà nó yêu thích. Khách rời đi vào một ngày mà nó không rõ. Im ắng. Khách đã từng bảo rằng khách có cuộc sống thực của khách, với những ham muốn đơn giản hơn nhiều. Khách quan tâm đến sự tồn tại của khách, hay những chuyện ăn uống ngủ nghỉ. Tiên không cần ăn, nhưng khách cần, vậy nên khách chẳng tài nào sống với cái vọng tưởng ấy, với một hy vọng sở hữu một cơ thể có khả năng chịu đựng được những thương tổn mãnh liệt về mặt thể lý như những kẻ theo đuổi sự trường sinh, thành thần thành phật. Giờ đây nó đã nhìn thấy những điều ấy. Từ lâu, nó cũng đã cảm nhận được một sự tồn tại của mình. Mình tinh ranh hơn hắn rất nhiều. Hắn là một kẻ hợm hĩnh với những câu cổ động vô nghĩa. Một kẻ thích nói hơn là làm. Còn mình thì khác hẳn. Mình tỉ tê trong những lần nó xuống tâm trạng. Mình bảo rằng nó rõ ràng nhận thức được vấn đề của nó. Nó biết chắc nó sẽ không đậu được, nhưng vẫn nghe lời dụ dỗ của hắn. Mình bảo rằng có lẽ nó thích công việc nghiên cứu, nhưng việc ấy không phù hợp với nó. Mình bảo nó hãy có những cân nhắc lý tính về khả năng của nó trong công việc này hơn là cứ cố chấp theo đuổi một thứ hão huyền. Mình còn bảo, hãy nhìn những người làm nghiên cứu đi, có mấy ai giàu có. Một cái danh hão, mà cái danh hão ấy lắm lúc còn chẳng được người ta tôn trọng. Còn những người làm nghiên cứu, mà giàu có, mình bảo nó hãy nhìn xem liệu ấy có phải là người thực sự làm nghiên cứu không? Hãy nhìn vào ranking tạp chí, chất lượng bài báo và số lượng tác giả của một bài báo trong đó mà xem. Mình bảo với nó rằng không phải nó không thấy, có những người làm rất nhiều trong một dự án, nhưng lại chẳng thế đứng "first author"***. Như đoán được tất cả những suy nghĩ của nó, mình bảo rằng ừ thì câu chuyện ý tưởng, câu chuyện phân chia công việc chưa bao giờ dễ dàng mà định đoạt được, tuy thế, hãy nhìn vị trí của "first author" ấy là có thể hiểu được ấy mà. Mình thích đặt những câu hỏi, và để nó tự trả lời. Mình không thường xuyên xuất hiện, chỉ xuất hiện những lúc nó cảm thấy tồi tệ. Những lời của mình khiến nó cũng phần nào được an ủi. Thành thật là như thế. Nó không biết rằng tôi đã thấy mình chưa, nhưng nó lờ mờ cảm nhận mình đang mon men vào từng ngóc ngách nơi tôi. Tôi, cũng là, một kẻ hợm hĩnh chẳng kém gì hắn. Tôi chắc chắn đã đọc, rằng Nếu bạn đang tìm kiếm nghệ thuật hay văn chương thì nên đọc những tác phẩm do người Hy Lạp viết. Bởi một chế độ nô lệ là điều kiện không thể thiếu để nghệ thuật chân chính đâm chồi nảy lộc. Giống như người Hy Lạp cổ đại trước đây, trong khi những nô lệ làm công việc đồng áng, nấu ăn, chèo thuyền, thì các công dân của thị quốc đang đắm chìm trong thơ ca và trăn trở với những bài toán dưới ánh mặt trời Địa Trung Hải. Nghệ thuật là như vậy. Murakami nói thế. Tuy nhiên, kể cả khi không ai nói thì điều đó cũng thật dễ hiểu. Những dòng thơ, những câu văn, thường được viết nên bởi người quan sát, chứ chẳng phải bản thân những kẻ bé mọn đang chịu dày vò. Một sự khổ đau là nguyên liệu tuyệt vời để dựng nên những áng văn. Những đồng cảm tinh tế nơi nhà văn là những gia vị tuyệt vời tạo nên cái đặc sắc cho cái món ấy. Những câu chữ biểu diễn sự rung cảm, lòng trắc ẩn nơi nhà văn là những thứ trang trí đẹp đẽ nhất đưa món ăn ấy vào chiếc bàn của những khách sạn sáu sao hàng đầu. Còn đối với tôi, tôi chỉ đang ăn lấy những khốn cùng được trình diễn thông qua những câu văn của người quan sát. Và tôi thỏa mãn với cái tôi cảm thấy bản thân đầy thương xót cho những mảnh đời ấy. Một sự thương xót được trình diễn như những câu văn đang biểu diễn. Tôi ngồi trên một chiếc xe buýt chạy khí nén sau hàng mấy chục năm chạy dầu. Vài xã viên trong hợp tác xã chạy xe dầu đã thua thầu và phải lao ra đường tìm kiếm một công việc mới với số tuổi không nhỏ trong một thành phố với những ép buộc "xanh". Tuy nhiên tôi chỉ thỏa mãn với câu chuyện rằng bản thân đang sử dụng phương tiện công cộng và giúp ích cho phần "xanh" của thành phố này. Tôi kêu gào cho một nền văn học chính thống đang dần đui chột bởi sự xâm lấn của những loại văn bản không đáng ba xu thế mà tôi chẳng thèm quan tâm ai là người tiêu thụ những thể loại ấy, ai là người sẽ tiêu thụ những thể loại văn học mà tôi bảo rằng nó đang dần đui chột kia. Tôi là một kẻ hợm hĩnh. Tôi bất lực khi chính tôi phải tự biểu diễn một cái khổ sở mà tôi chẳng thể nhìn thấu tỏ. Tôi khốn khổ khi chính tôi phải đạo diễn cho vở kịch trình diễn sự khổ đau. Sự khổ đau của tôi lắm khi cũng là một sự biểu diễn còn đạt hơn cả những gì tôi viết, hoặc định viết. Tôi là một kẻ quan sát tồi, bởi sự hợm hĩnh kẻ cả của tôi. Tôi sẽ phải cực khổ và đau đớn bởi tôi sẽ chẳng bao giờ chạm được tới cả những thứ ba xu mà tôi coi kinh lẫn những đau thương được biểu diễn trong những tác phẩm hiện thực mà tôi vẫn chê bôi. Cái thất bại của tôi thật nhãn tiền, nhưng có lẽ sự hợm hĩnh của chính tôi khiến tôi chẳng thể nhìn thấy. Một cái tôi tồi tàn đáng lí là một cái nguyên liệu thật tốt mà tôi có thể khai thác, nhưng tôi còn chẳng nhận ra điều đó nổi. Khoảng trống kia là một cái không gian thật tốt để mình lẻn vào. Sự sụp đổ của tôi có lẽ còn dễ dàng và nhanh chóng hơn cả nó. Mọi thứ đều như nhau cả. Thế nên, kết thúc của tôi cũng sẽ chẳng khác gì khách, chẳng khác gì nó. Mà có lẽ, có hàng ngàn những con người lai vãng đã rời đi trước khi nó đến, trước khi nó kịp nhận thức, trước khi tôi xuất hiện, trước khi tất cả bọn họ nhận thức được mình. Mình thiết thực, mình không nghĩ nhiều, mình sống cho chính mình với những mong cầu đầy trần tục. Mình sẽ là kẻ trường tồn, và chỉ có mình mới thỏa mãn được hắn. Bởi mình có cái tuyệt đối mà hắn mong cầu, một cách tuyệt đối. Mình có thể làm mọi cách, như cách mình dẫn dụ khách, và đang dần dẫn dụ nó. Như cách mình sẽ bẫy lấy tôi. Nó sẽ không kêu gào, không tranh đấu. Nó sẽ không làm gì cả. Mình có sức thuyết phục lớn lao bao trùm cả nó. Nó sẽ tình nguyện chết đi để mình tiếp tục, tiếp tục lớn mạnh, tiếp tục thỏa mãn hắn. Hắn ôm nhiều tham vọng với một cái miệng quá mức nhiều chuyện. Mình lại mang cái tham vọng với những đường bước rõ ràng và điên cuồng hơn nhiều. Như bao kẻ đã bị mình đuổi đi, hoặc diệt sát, nó không thể tỏ tường chuyện ấy, nó cũng im lặng như thế. Nó tình nguyện cho chuyện này, rằng nó sẽ không cất lên một lời nào với tôi nữa. Nó đã quá mệt mỏi với những điều hão huyền của hắn, và cái thói trịch thượng của tôi. Rồi sẽ không ai gọi nó là nó nữa, nó vô danh. Tôi rồi cũng sẽ gọi nó là khách, hoặc chỉ đơn giản là một khoảng trống nào đó mà tôi đã từng nhận thức được. Tôi vẫn còn đang say ngủ trong cái mộng lớn lao với Nam Anh và Văn. Và cả những dự định tương lai của tôi. Tôi không còn thấy nó. Nó vẫn sẽ có thể tự nhủ rằng nó vẫn còn một chút hy vọng đấy, nhưng nó ngại kỳ vọng vào một kỳ tích, thứ mà nó biết chắc sẽ chẳng xảy ra. Mà kể cả từ một sự cố nào đó khiến kỳ tích xảy ra, thì nó cũng chẳng khiến câu chuyện về nó có khả năng viết tiếp. Nó sẽ vất vưởng ở một nước Bắc Âu, cố gắng hoàn thành chương trình Tiến Sĩ với một ông giáo không quá tiếng tăm. Khả năng xin được một vị trí postdoc sẽ còn hẹp hơn cả khả năng có được một vị trí tiến sĩ. Mấy cái postdoc là đủ, hay sẽ chạy về nước ngay khi hoàn thành tiến sĩ. Hoặc nó phải bỏ dở vì không đủ số lượng công bố khoa học mà một vị trí tiến sĩ yêu cầu. Rồi về nước, tìm kiếm một vị trí giảng dạy ở một trường công. Trường công mới đầu tư cái ngành của nó, với những đồng nghiệp cùng hướng đếm trên đầu ngón tay. Già cỗi. Không có cơ hội thăng tiến. Nó chưa hoàn thành tiến sĩ. Nó cố học lại tiến sĩ trong nước. Vẫn trầy trật với công bố khoa học. Nó lê lết vài tạp chí nằm ngoài Q2, một vài báo cáo trong nước, rồi trở về giảng dạy ở trường. Không có cơ hội thăng tiến trong trường, tình hình nghiên cứu lạnh băng, bởi cái cộng đồng bé quá. Nó liên hệ với thầy từng hướng dẫn nó làm tiến sĩ ở Bắc Âu. Kể cả có cơm lành canh ngọt thì sau chừng ấy năm, lại cộng thêm chuyện cách nhau gần một vạn cây số, cũng chẳng thể kéo cho nó nổi một cơ hội lớn nào khác. Thỉnh thoảng, nó cố gắng đăng ký một vài chương trình ngắn hạn ngoại quốc để báo cáo kết quả nghiên cứu hoặc tham gia các lớp học, để chứng minh nó vẫn còn một chút liên kết với cái ngành này, ngoài công việc giảng dạy. Một mức lương trung bình như trung bình của những người trung bình khác trong cái đô thị rộng lớn này. Nó không thể chi trả cho một căn nhà ở thành phố. Rồi một ngày nó sẽ phải trở về đất nó ở, nơi bố mẹ nó cất nhà. Nó sẽ đối mặt với những thường nhật mà bố mẹ nó đối diện. Nó không thể tham gia vào các kiểu ban bệ với cái tính của nó, với những mối quan hệ của nó. Nó sẽ chết dần chết mòn như thế, cho cả một cuộc đời dài năm bảy chục năm sắp tới. Nó tin chắc rằng mình đã len lỏi đâu đó trong những suy tư của nó, nhưng điều này quá mức hợp lý. Hợp lý đến mức nó không có ý định tìm kiếm thêm một biến cố nào khác sẽ diễn ra trong cuộc đời êm dịu ấy, một cái êm dịu ru ngủ. Một cái êm dịu giết chết mọi khả năng, và sẽ giết chết chính nó. Có lẽ mình sẽ cho nó được một cuộc sống tốt hơn. Một cái chết khi nó đang chiến đấu cật lực cho những gì nó muốn là một cái chết có khả năng trường tồn và đáng hãnh diện hơn một cái chết êm dịu và không có bất kỳ một tiếng nói nào. Mình sẽ tìm mọi cách để kiếm được cái đồng tiền mà nó nên có. Thành thật là như thế. Mình mạnh mẽ hơn nó nhiều. Mình sẽ không gục ngã, với những kiên định mà mình mang. Như cách mình đã dẫn dụ khách, dẫn dụ nó. Cái tuyệt đối của mình làm nó thấy cuốn hút. Ấy là điều nó khát khao mà chẳng bao giờ có được, bởi những điều mà nó muốn chỉ có thể xảy ra khi nó là một kẻ đủ đầy. Như Murakami nói, nó phải là một công dân thị quốc bên bờ Địa Trung Hải. Nó phải có đủ sức để vượt qua cái khó nghèo hữu hình này mới có đủ trí nghĩ đến những công trình khoa học xa xôi vô hình kia. Nó đủ mệt để cảm thấy mình đã cố hết sức. Nó tình nguyện để mình ăn ngấu nghiến nó như nó chưa từng tồn tại. Tôi sẽ quên sạch, như chưa hề tồn tại. Không tên, một đại từ không xác định, khách, kẻ vãng lai, nó, tôi, hắn,… hoặc tôi rồi sẽ trở thành nó của một tôi khác. Lúc ấy tôi cũng sẽ tình nguyện để mình đạp ra ngoài. Tôi sẽ khổ sở với những ảo mộng về sự thấu cảm mà trước nay tôi trình diễn. Một kẻ hợm hĩnh, chắc khác gì hắn. Tôi là một kẻ hợm hĩnh. Tôi sẽ chết trong sự trình diễn khi cái khẩu trang nó mang, khi tất cả những thứ mà nó chạm vào mỗi ngày, khi một loại thuốc nó uống đều tổn hại đến vô vàn những hình thái sống khác, khi những kẻ yếu thế mà nó tưởng nó đã đau khổ cùng, những chiếc xe điện, những bất công xã hội, những áng văn tuyệt mỹ mà tôi tôn sùng, đều là những sự trình diễn với nhiều hơn mục đích phía sau. Và chính tôi cũng là một phần của sự trình diễn, kể cả những hợm hĩnh và những khổ đau. Một tôi không có thật, chỉ là những sự lặp lại, nhại lại, sao chép vô hồn. Tôi chẳng có hồn như những tác phẩm mà tôi đọc. Tôi tệ hại với sự trống rỗng của tôi. Rồi mình sẽ đến, len lỏi từng chút một. Mình bảo rằng đủ đầy mới khiến tôi thực sự trở thành một người quan sát. Phải khi đó, tôi mới có đủ thời gian, sức lực, tài lực để nhìn ngắm những khổ đau của thế giới này. Tôi sẽ tự có cho mình những lối đi, những cách nhìn cuộc đời riêng biệt. Hơn cả, khi ấy, tôi là một người thành công. Khi mỗi từ của tôi có sức nặng, tôi mới có thể nói lên những tiếng nói vì những kẻ yếu thế, những bất công. Có lẽ mình đã bắt đầu gặm lấy nó, nên nó mới hiểu mình đến thế. Hoặc vốn dĩ nó đã hiểu mình. Nó luôn hiểu mình. Cả khách, tôi, và hắn đều thế. Có lẽ không phải rằng bọn họ không nhận thức được mình, chỉ là họ đang cố làm mờ mình đi bằng những lý do của họ. Nam Anh đăng ký một khóa học ngắn hạn hai tuần ở trong nước. Cậu nhờ thầy giáo trong bộ môn mà cậu quen thân viết thư giới thiệu cho cậu. Cậu có dự định sẽ xin thầy ấy hướng dẫn khóa luận cho mình. Nam Anh đang đợi kết quả. Cậu khá chắc chắn với khả năng đậu của mình. Nhưng cậu lo lắng việc liệu cậu được tài trợ chi phí đi lại hay không. Còn chi phí ăn ở thường sẽ không phải lo, bởi các trường hè kiểu này thường liên kết với các trung tâm hoặc resort, một kiểu khuyến khích du lịch, hoặc một kiểu tài trợ phát triển khoa học, giáo dục. Những chính sách phát triển và thúc đẩy giáo dục. Một cách nói hoa mỹ mà những người phương Tây hay đề cập cho những mục đích khác hơn của họ. Tuy nhiên chi phí đi lại trong nước cũng chẳng quá cao được, cùng lắm là đi xe khách, đi tàu hỏa. Còn điều gì khác đáng lo hay không. Có lẽ dưới sự giới thiệu của thầy, Nam Anh có thể được chọn. Mặc dù chương trình phù hợp hơn với sinh viên đã tốt nghiệp trở lên, phù hợp hơn với những học viên thạc sĩ, tuy nhiên, cậu vẫn có cơ hội. Hôm nay có lẽ không cần lo về chuyện có tham dự buổi học sáng hay không nữa. Đã quá trễ để có thể vào lớp. Lớp chỉ khoảng chục người. Thầy biết mặt cả. Nam Anh sẽ đặt một vé tàu. Có lẽ tiền cho phần bài cậu làm đêm hôm qua đủ để cậu mua vé nằm phòng bốn, dù chỉ là một bài tập không quá phức tạp. Phải còn mấy tháng nữa. Lo điều này có chăng là quá sớm không? Xe buýt vẫn kẹt. Xe bị chặn đứng ở ngã tư. Có tiếng cấp cứu vọng từ xa lại nhưng chẳng chen qua nổi dòng người chật cứng. Nam Anh chỉ thấy tiếng của nó chói tai. Mùi xe hắc nồng. Thành phố nên sớm thay loại xe buýt chạy dầu này thôi. Văn ngồi trên chuyến xe buýt chạy về bến mãi xa vùng ngoại ô thành phố, gần sông. Nhưng vẫn mắc kẹt ở đây. Nồi cám khét đen dần đặc quện bởi cái màu trời đã sụp xuống. Một chút mưa lại lần nữa đổ xuống, như thường lệ. Cái nhơ nhớp đúng như kỳ vọng. Nồi cám này chắc có lẽ sẽ là một nồi cám bỏ đi. Mưa xuống trên mặt đường nóng ran, làm chút nước trong nồi cám cũng bốc đi dần. Đen ngòm. Văn nhận thức rõ ràng sự sắp đặt này. Hẳn là đang có ai đó bên ngoài kia, ngoài vòm trời thối tàn này đang vẽ nên một câu chuyện dở hơi cám lợn. Nhưng Văn biết, rồi đến một lúc, tên ấy sẽ phải cho những chiếc xe này thoát khỏi giao lộ. Tên ấy sẽ ưa một câu chuyện có kết màu hồng hay màu xám. Văn nhìn ra cửa. Nếu hắn thích màu hồng, chắc chắn sẽ gieo lên một chút ít hy vọng từ đâu đó ngoài kia. Xe cấp cứu vẫn kêu inh ỏi, nhưng nó vẫn tiến về phía trước được. Có lẽ tên này đang cố gắng dùng một con người sắp tái khởi mà mang đến một cái kết hồng hào cho câu chuyện của hắn. Văn không rõ Văn là chủ thể trong câu chuyện, hay chỉ là một "người tham gia giao thông bằng phương tiện công cộng" bất kỳ. Có lẽ người trên chuyến xe cấp cứu kia mới là nhân vật chính. Và tên kia đang cố gắng gây cản trở, thêm chút kịch tính cho câu chuyện bi đát của người ấy. Anh ta chịu kẹt xe, dưới một trời xám xịt và đông đặc. Cố gắng nhích từng chút đến bệnh viện. Máu từ hông anh ta vẫn ứa ra từng chút một mặc cho mọi nỗ lực cầm máu. Anh ta dường như ngất đi. Anh ta cố gắng đuổi theo một tên cướp và bị hắn đâm trúng. Vali tiền vẫn chưa rõ ở đâu. Anh ta được người qua đường giúp đỡ nhưng ông trời không thương người nhân hậu, để anh ta bị kẹt ở nơi này. Tiến không được, lùi cũng không được. Hơi thở của anh ta bắt đầu yếu ớt, xe vẫn chưa thoát được khỏi giao lộ. Văn cứ nhìn mãi theo chuyến xe ấy như thể ánh đỏ chớp lóa và tiếng kêu nhức óc của nó là một con thú đang kêu gào - một sinh vật sống duy nhất tồn tại trên cõi đời này. Đó sẽ là nguồn, là điểm, là một. Từ một ấy sinh ra tất cả mọi biến cố cho tất cả những con người đang mắc kẹt ở đây. Bao hàm cả Văn. Rồi cậu chắc chắn sẽ rời khỏi cái chốn này. Chắc chắn. Không thể mãi kẹt như thế. Cậu còn trách nhiệm với Nam Anh. Cậu có nên xin bác tài xuống xe và bắt một chuyến xe ôm công nghệ chăng. Nhưng cần gì phải làm thế. Cậu cố gắng ghi chép về Nam Anh, cho dẫu cậu đã lạc mất cái dòng suy tưởng của Nam Anh đã một lúc lâu. Có những thứ cần lý tính chứ không phải cảm tính, và Nam Anh cũng cần một cái khung đầy tính toán để phù hợp với câu chuyện cậu muốn kể chứ. Cậu sẽ nghĩ về Nam Anh, mặc kệ cho những điều đang diễn ra ngoài kia, và kệ cho cái mùi hăng hắc kia cứ thế xộc thẳng vào mũi. Tôi mở lời với nó. Tôi cảm nhận được nó đâu đó gần tôi, nhưng nó không cất lời. Tôi gọi mình, cố gắng để mình xuất hiện. Tôi cũng sẽ chấp nhận mình, như một bản thể hoàn hảo nhất của mình. Tôi không thể chối bỏ việc tôi ngưỡng mộ cái tuyệt đối trong mình. Tôi chỉ muốn thương lượng, trước khi tôi cũng im lặng như nó. Tôi sẽ hết lòng ủng hộ những điều mà mình muốn làm. Chắc chắn, nhưng xin, xin đừng làm những điều để cho mẹ tôi phải lo lắng. Những nhu cầu trần tục, tiền tài, danh vọng, hay bất kỳ thứ gì mà người ta định nghĩa, thứ mà tôi luôn muốn chối bỏ, nhưng tôi sẽ ủng hộ mình theo đuổi những thứ ấy. Bởi tôi biết tôi sẽ chẳng bao giờ có thể trở thành một thứ khác biệt nằm ngoài những khuôn mẫu mà tôi luôn chê bai. Tôi lại cũng chẳng thể thả mình theo những khuôn mẫu ấy. Vậy nên, tôi sẽ im lặng, tôi sẽ để cho mình chiếm lấy tôi. Tôi sẽ không còn hiện hữu nữa. Tôi sẽ là một đại từ bất kỳ, hoặc chẳng là gì. Mình sẽ đủ quyết tâm để theo đuổi những điều mà biết bao người xung quanh tôi kỳ vọng, và cả hắn. Mình chắc chắn sẽ làm được điều ấy. Tôi chỉ xin, chỉ xin rằng mình hãy giữ một chút của tôi, một chút của nó. Cái chần chừ của tôi và nó, trong những quyết định đầy thách thức. Tôi không muốn mình làm sai và lấn sâu một cách không lối thoát vào cái tuyệt đối ấy. Lúc đó, mình sẽ khẳng khác gì tôi và nó cả. Sẽ đau đớn như thế. Tôi không mong thế. Tôi mong mình có một đời bình an, để không có một mình khác, hay một hắn khác có thể khiến cậu gục ngã. Cậu sẽ không tình nguyện chết đi. Tôi hy vọng thế. Mình không đáp lời. Tôi không tìm thấy nó. Hắn cũng chẳng thấy đâu. Văn đứng phía ngoài một chiếc xe buýt chạy dầu cũ kỹ, dường như đã bỏ hoang, cách cái bến xe cũ nát mấy chục mét. Văn thấy Han Kang dường như đã mô tả đúng. Những linh hồn sau khi rời khỏi thân xác kia vẫn cứ phải lởn vởn quanh thân xác đó, cho đến khi thân xác đó thực sự tan biến. Nó cười lớn vì đến tận cuối cùng tôi vẫn phải diễn lấy một vở kịch để tôi có một đoạn kết cho chính vai diễn về tôi. Một kẻ đang cố gắng chiến đấu đến tận giây phút cuối cũng cho những giá trị mà tôi nhận thấy là đáng bảo vệ thông qua những màn trình diễn trong các quyển sách mà tôi đọc. Tôi vẫn cố giữ cái vẻ đạo mạo kể cả khi tôi đang dần chẳng còn là tôi nữa. Nó càng ghét tôi tợn. Tuy thế, một vở diễn ấy không khiến tôi có thể lưu lại bất kỳ thứ có giá trị nào trên đời cả. Tôi vẫn chẳng thể hoàn thành câu chuyện của hắn. Tôi bất lực trước chuyện ấy. Giá mà tôi viết về tôi với vai diễn tôi mà hắn đang cố diễn đến tận lúc lâm chung thì tốt biết mấy. Câu chuyện ấy thú vị hơn nhiều so với những điều nó thấy tôi viết. Một sự trình diễn cái chết ấy đẹp hơn, thú vị hơn, và có một cái kết thúc nhiều dư vị hơn rất rất nhiều. Văn ở phía ngoài xe. Cậu không vào trong, cậu không thể mở cửa. Cậu nhìn thấy chồng lấp vô số hình ảnh. Một Văn đang ôm một vali tiền ngồi thu lu nơi cuối xe. Một thế giới thủng lỗ chỗ, đầy dòi bọ. Nó đã qua quá trình trương phồng, và giờ đến lúc cái thân xác ấy tan ra thành những màu xám xịt bám dính nơi mặt sàn. Phần lưng đã bị đục khoét hết. Phía trên mặt, trên bụng, dưới lớp da, mọi thứ lúc nhúc, như gương mặt đang méo mó từng biểu cảm. Rồi lỗ chỗ, những cái hố lớn xuất hiện. Nước nhầy lợm nhợm. Mùi hôi nồng nặc. Văn thấy một Nam Anh đang ngồi lắng nghe một vị giáo sư người Nhật nói những điều mà cậu không hiểu. Trên bảng ngoằn ngoèo một đống kí hiệu. Văn chỉ nhận ra cái tích phân mà cậu đã được học từ ngày phổ thông. Cái xe buýt là một cái hộp sắt. Có lẽ đâu đó có những nguyên tử đang chơi trò chơi của con mèo mà Schoedinger miêu tả. Số tiền, hay một cái xác, hay những tiết học khó hiểu, hay bay lên, hay sở hữu những loại pháp thuật kỳ ảo. Đáng lẽ nên là Văn trúng số độc đắc và đang cố gắng nghĩ cách tiêu số tiền của mình thật cẩn thận và không gây chú ý quá lớn. Đáng lẽ nên là một cái xác trong một cuộc đấu tranh vệ quốc hoặc một cuộc diệt chủng tàn bạo, nơi cái xác ấy trở thành một dấu vết có ý nghĩa trọng đại trong quá trình tiến triển của một dân tộc, một quốc gia, hay cả nhân loại. Đáng lẽ nên là một Nam Anh thấu đạt, tích cực thảo luận và tìm cơ hội làm việc cùng các giảng viên trong khóa học ngắn hạn ấy. Hay một nhân vật chính, một kẻ kiệt xuất, một kẻ tồi tệ đến cực điểm. Một kẻ xấu xa nguy hại toàn thế giới. Một phát kiến vĩ đại. Một tư tưởng to lớn. Một cái cây đâm mãi lên trời xanh, băng qua Ngân Hà, xa tít vào vũ trụ vô tận với vô vàn những thiên thể đang ngày một xa nhau nhanh hơn. Cái cây ấy sẽ giữ lấy mọi thứ, đưa chúng về một trạng thái bình hằng lớn nhất trong toàn cõi vũ trụ. Nhưng Văn sẽ không mở cánh cửa của cái xe buýt tồi tàn kia ra. Chắc chắn có một sự thật đằng sau cánh cửa ấy. Có một đáp án thực mà Văn chẳng thể nắm bắt. Rằng cậu thực sự là ai.

Cuối cùng, nó xin nhắc nhở đôi điều: một "văn bản" bê vài thí nghiệm khoa học, hoặc kết quả khoa học vào không khiến nó trở nên có giá trị hơn. Một đống hổ lốn ở trên đây không hơn gì một nồi cám lợn.


-

* Chỉ số SJR là thước đo mức độ ảnh hưởng khoa học của các tạp chí khoa học, bao gồm cả số lượng trích dẫn mà một tạp chí nhận được và tầm quan trọng hoặc uy tín của các tạp chí đã trích dẫn các tài liệu của tạp chí ấy. SJR của một tạp chí ở năm được tính toán là một giá trị số biểu thị trung bình trọng số các trích dẫn cho mỗi tài liệu được xuất bản trên tạp chí đó trong vòng ba năm trước đó.

Mỗi danh mục tạp chí theo chủ đề được chia thành bốn phần: Q1, Q2, Q3, Q4. Q1 thuộc về 25% tạp chí hàng đầu trong danh sách; Q2 thuộc về các tạp chí trong nhóm 25 đến 50%; Q3 thuộc về các tạp chí trong nhóm 50 đến 75% và Q4 thuộc về các tạp chí trong nhóm 75 đến 100%.

** Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu viết tắt của Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire

*** Thật ra thì rất nhiều ngành hiện nay đã xếp theo alphabet chứ không để người đầu tiên là người quan trọng nhất nữa. Hoặc nếu là một kiểu dự án lớn, với lượng collaborators cực kì nhiều thì người ta mới để tên head đầu tiên. Đây là hư cấu, là hư cấu.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout