Xẩm tối y như lời dặn, Tú dẫn theo Thủy đến cung Dực Ninh xin gặp Thái phi Tuyên Từ. Hậu cung chia làm hai nửa tả hữu, ngăn cách bởi tường bao. Nửa bên trái là nơi ở của hậu phi Quan gia, nửa bên phải là nơi ở của hậu phi Thượng hoàng, chiếu theo vị trí của hai cung Quan Triều và Thánh Từ [1]. Từ nhỏ đến lớn, số lần nàng đến tả hậu cung chỉ đếm trên đầu ngón tay. Tả hậu cung ít cung điện hơn phần hữu, hậu phi càng thưa thớt hơn, dù đèn đuốc dọc đường vẫn sáng nhưng cảm giác lạ lẫm, vắng vẻ khiến nàng vừa tò mò vừa dè dặt.
Nghĩ tới lát nữa gặp Thái phi, không biết người xử trí chuyện sáng nay ra sao, có dự tính gì cho chuyện sắc phong chưa nàng mới đỡ chùn chân chút ít. Thế mà quãng đường đi vẫn heo hút, xa ngái. Khi đến nơi, tim nàng đập như trống bỏi, hơi thở dồn dập, hai tay mướt mồ hôi, phải dừng ngoài cửa cung chỉnh trang chốc lát mới xin vào trong.
Bà Tuyên Từ trước đây là Tuyên Từ phu nhân, lúc Quan gia lên ngôi chỉ tấn tôn mẹ đẻ làm Khâm Từ Thái thượng hoàng hậu, nên danh xưng Thái phi của Tuyên Từ hiện giờ chỉ là để gọi chung phi tần của Thượng hoàng. Bởi vậy, kết cấu và bày trí cung Dực Ninh không theo quy chế hàng phi mà thuộc vào bậc phu nhân. Trong lúc ngồi chờ triệu kiến, nàng quan sát xung quanh, thấy cung Dực Ninh và cung Lục Hoà có phần giống nhau, chỉ khác ở chỗ hai bên chính điện có hai ngôi nhà nằm vuông góc thay vì một như ở chỗ nàng. Chưa kịp nhìn ngó gì thêm nàng đã nghe Thái phi truyền gọi vào chính điện.
Bà Tuyên Từ ngồi trên sập ở gian bên, xung quanh không kê thêm ghế thấp nào nhưng lại thừa một chiếc đệm quỳ. Lòng Tú thầm run, cơn bất an không rõ vì sao lại trỗi dậy. Nàng đến quỳ hành lễ trên đệm, len lét ngước mắt nhìn gương mặt giống bố mình đến bảy, tám phần trên kia. So với bác Khâm Từ, người cô Tuyên Từ này của nàng nhỏ hơn nhiều tuổi nhưng lại nghiêm nghị hơn, nên trông hai người chẳng chênh lệch bao nhiêu. Bẵng một thời gian không gặp, hình như bà lạnh lùng hơn, ánh mắt nhìn nàng cũng chẳng còn chút hoà ái hiếm hoi dành cho bọn vãn bối.
Cũng có lẽ do chuyện sáng nay làm bà phật ý, nàng chột dạ, cúi đầu tự nhủ. Không ngoài dự đoán, vừa bắt đầu bà đã hỏi:
Tú biết bà đã biết chuyện rồi, hỏi vậy chỉ để khảo xem nàng có thành thật hay không. Nàng kể thật tường tận, chỉ trừ việc mình hỏi về Chương Thành hầu vì đoán chừng Thái Bình cũng không dám bẩm lên. Đoán là đoán thế, sâu trong lòng nàng vẫn thấp thỏm lo âu, sợ bà biết rồi lại trách phạt mình. May thay, hình như câu trả lời của nàng vừa khớp với những gì bà biết. Bà gật đầu, gương mặt thoáng vẻ hài lòng, lại hỏi:
Tú cất tiếng vội vàng, đổi lại là ánh mắt không vừa ý của bà. Nàng nuốt khan, cân nhắc rồi vái nhẹ, thưa:
– Bẩm Thái phi, con vào cung đã một tuần trăng mà chưa có sắc phong, không rõ phân vị, bất tiện trăm bề. Thấy sự tình chậm trễ khác thường, con muốn bẩm lên để người soi xét.
– Con có biết người ban phẩm trật, phong hào cho con là ai không?
– Quan gia đúng là người ban sắc chỉ. Nhưng con có biết ai là người ra quyết định hay không?
Nàng khó hiểu, ngập ngừng ngước nhìn bà, song ánh mắt bà vẫn hờ hững, buộc nàng phải tự suy nghĩ. Người ra quyết định là Thượng hoàng? Tú thầm lắc đầu bác bỏ. Nếu không phải Thượng hoàng thì càng không phải Thái hậu hay Thái phi, dù thể nào Quan gia cũng sẽ bàn bạc với bề trên rồi mới quyết định. Đầu óc nàng rối bời, nghĩ một hồi lại thấy câu hỏi của bà vô lý nhưng không dám phản bác lại. Nhất thời chính điện im phăng phắc, chỉ có tiếng nước nhỏ tong tong từ lậu hồ như giục giã. Nàng cố phớt lờ âm thanh ấy nhưng càng tập trung lại càng phân tâm, lòng dạ càng bồn chồn, đến nỗi quên cả lễ nghi mà xoắn rịt hai bàn tay vào nhau. Sau cùng, nàng dập đầu với bà, dè dặt nói:
Chờ đứa cháu gái suy nghĩ hồi lâu, dường như bà Tuyên Từ không còn kiên nhẫn nữa. Bà khoát tay, ngờ vực hỏi:
– Cả chuyện này cũng không biết? Trước khi vào cung không ai bày cho chị à?
Mặc kệ trán đang nhói lên, nàng run rẩy lạy thêm một lạy, giọng điệu thành khẩn:
– Chị thật tình không biết vì sao cháu gái nhà Chiêu Đạo vương lại nhập cung ngay lúc này ư? Chuyện hai nhà Chiêu Minh, Chiêu Đạo chị không mảy may biết một chút nào à? Thế từ bé đến lớn chị đi nhà nọ phủ kia làm gì? Để ngắm cảnh? Để kết giao bằng hữu đấy phỏng? Chị lớn đến từng này tuổi mà mỗi cái sự cỏn con ấy cũng không biết thì còn vào đây làm gì!
Nàng rúm ró không dám nhúc nhích, không dám thở mạnh, người gồng cứng rịn đầy mồ hôi. Chờ bà nói xong nàng mới dám lí nhí lên tiếng:
– Bẩm Thái phi, ông có từng nhắc chuyện này với con, nhưng bảo từ từ hẵng biết... Xin Thái phi bớt giận.
– Mở mồm ra là bớt giận bớt giận, chị không nói được câu nào khác à?
Thái phi nhìn kẻ đang quỳ dưới đất, tức đến mức lồng ngực phập phồng. Người hầu đến vuốt giận, vỗ lưng, khuyên nhủ bao nhiêu câu bà cũng chẳng lọt tai, chỉ thở hắt từng hơi, gắt gỏng:
– Vạn Kiếp có thiếu người đâu, sao lại đưa một đứa ngu dốt vô tích sự vào cung thế này!
Ngu dốt? Vô tích sự? Người nàng cứng đờ, đầu óc trắng xoá, tầm nhìn toàn nước mắt là nước mắt. Không hiểu thế cuộc trên triều là lỗi của nàng, nhưng nàng còn chưa nói gì Thái phi đã hỏi những câu khó hiểu, gắt gỏng một tràng dài. Nàng vừa hoang mang vừa ấm ức lại không dám khóc, phải rụt người kìm lại tiếng nấc, cổ họng nghẹn đau như xé. Nhưng tiếng thút thít vẫn rỉ ra từng đợt. Thái phi nghe được ghét bỏ ngoảnh mặt đi, chờ cơn giận nguôi bớt mới quay đầu lại, bảo:
– Biết là được. Đã biết thì thôi những trò vặt vãnh đó đi, trở về chăm tìm hiểu những chuyện hệ trọng khác, may ra còn có ích.
Lời này không khiến nàng quá bất ngờ, vả lại, sau những câu nhiếc móc kia chắc không còn gì ở người cô này làm nàng ngạc nhiên hơn được nữa. Nàng cúi đầu, cam chịu xin vâng. Có lẽ biết nàng hiện giờ không nghe lọt tai thêm lời nào, bà thở dài, quyết định kết thúc câu chuyện ở đây, lời lẽ lại lạnh nhạt như lúc đầu:
– Không biết tôn ti, gây trò nhiễu loạn, nghĩ tình nhỏ dại phạm lỗi lần đầu, phạt về chép Nữ Giới [2] một trăm lần. Về việc phong cho chị bậc nào, bao giờ ta không can dự được. Chị cứ thuận theo thánh ý thì hơn.
Đoạn bà đảo mắt qua hết thảy người trong chính điện một vòng, giọng hơi nâng lên ra chiều răn đe:
– Chuyện này đến đây kể như xong. Nếu không còn gì nữa thì lui xuống đi.
Nàng không nói thêm lời thừa thãi nào, quỳ lạy tạ ân rồi cúi mặt rời đi, chân bước nhanh như bị ma đuổi. Sau lưng, cánh cửa chính điện rầm rầm đóng lại. Đỏ hoe mắt nhìn quanh, biết chắc không ai theo mình nàng mới che miệng bật khóc tức tưởi. Thuỷ vừa rồi cũng hoảng sợ không kém, không biết khuyên nhủ ra sao, đành ôm vai dìu chủ đi, vừa đi vừa giúp nàng lau nước mắt, nhỏ giọng dỗ dành mãi mới thôi. Chân vừa bước khỏi ngưỡng cửa cung Dực Ninh, hai chủ tớ không ai bảo ai buông thõng vai như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, đồng thanh thở phào nhẹ nhõm.
Canh hai. Tiếng cửa khép lại khẽ khàng cứa một vết mờ lên màn đêm tĩnh mịch. Trong phòng, Tú vừa ngủ say sau trận khóc thỏa thuê và mệt mỏi. Cái Hà không được cho vào, đứng ngoài sân nghe tiếng nức nở đã bồn chồn không yên từ lâu. Nhác thấy Thuỷ bước ra, nó sán đến gần hỏi:
– Cô mình tối nay làm sao đấy chị? Lúc ở cung Dực Ninh có chuyện gì à?
– Trước nay nghe đồn Thái phi nóng nảy, nhưng mấy lần cô vào cung xin gặp lệnh bà vẫn từ ái lắm, quan tâm thăm hỏi mọi bề, dịp nào cũng gửi quà xuống Trường Yên. Cô còn cười bảo cái bọn trà dư tửu hậu trong cung rõ vớ vẩn. Hoá ra là thật.
– Vậy là cô bị lệnh bà mắng thật à? Chuyện sáng nay với bà Cung tần phỏng?
Thuỷ nặng nề gật đầu, tuần tự thuật lại mọi chuyện. Hà nghe đến đâu nhíu mày đến đó. Nó cố gắng liên kết lời Thủy và những việc mình gặp gần đây trong cung, cẩn trọng nói:
– Mấy hôm trước em với hai đứa nữa vào Vườn Ngự mang cây cảnh về đây, ngang qua thủy tạ, thấy Quan gia và các ông đang họp mặt nhau. Có Nhân Thành vương, một vương ông khác trạc tuổi em không thấy mặt, với một vương ông trông có vẻ là Chiêu Văn vương.
Hà lắc đầu, toan giải thích lý do thì chợt nghe một giọng đàn bà vang lên từ phía sau:
– Cái Thủy cái Hà đấy à? Sao giờ này còn chưa ngủ, trốn trong xó mà làm gì?
Tiếng bước chân sau lưng cả hai ngày càng gần, bóng người cầm đèn dưới đất theo đó loang dài ra, nhập vào hai chiếc bóng dưới đất. Hai người giật bắn mình quay đầu lại. Hoá ra là Phù. Giờ này bà còn đi vòng quanh, hẳn là kiểm tra cửa nẻo, lửa đèn trước khi đi ngủ.
– Vâng, chị Thuỷ vừa hầu cô đi ngủ xong. Chiều giờ chị ấy chưa ăn, bọn cháu định tìm ít thứ cho chị ấy bỏ bụng.
– Giờ này đi Ngự thiện phòng xa lắm, mà chưa chắc đã còn gì. Chỗ cô còn bánh, cô xong việc rồi, hai đứa theo cô qua đấy lấy ăn tạm đi.
Chỗ của bà là chái nhà nhỏ phía bên trái nội tẩm, cũng là vị trí phòng của trưởng cung nữ các cung. Vậy là ba người lại trở vào trong, dò dẫm đi trong ánh nến tù mù, chân nhón nhẹ sợ làm Tú thức giấc. Bà lấy bánh giò đưa cho Thuỷ, thấy nó chần chừ thì ra chiều thông cảm:
– Ngồi đây ăn đi, ra ra vào vào lại đánh thức lệnh cô. Cái Hà theo cô qua lấy đồ này.
Bà vẫy tay bảo Hà theo mình đến kệ gần giường, trên kệ chất la liệt lọ to lọ nhỏ và mấy đồ dùng lặt vặt, thứ gì cũng có, như thể bà đã sống ở đây lâu năm chứ không phải mới đến ngày một ngày hai. Hà chưa hết cơn trầm trồ đã bị bà dúi một vật tròn nhỏ, mát lạnh vào tay. Nó ngạc nhiên xòe tay ra. Là một chiếc lọ tròn bằng gốm sứ, bóng loáng như mỡ và ánh màu xanh ngọc nhạt. Mở vải bịt ra ngửi thử, nó càng ngạc nhiên hơn, hỏi:
– Ừ, trong này có nghệ, chờ vết thương trên trán của cô lên da non thì bôi, đừng để thành sẹo. Nếu dùng thử mà không được thì tìm nghệ tươi đắp cho cô.
Rồi bà lại dặn nó sáng mai đun nước sớm để Tú có nước ấm rửa mặt. Hôm nay nàng khóc nhiều, ngủ dậy thể nào mắt cũng sưng, nhiều gỉ. Hai mí mắt dính chặt, không có nước ấm mà cố bóc gỉ thì đau.
Thuỷ đang ăn dở cái bánh, nghe vậy thì khẽ nhướng mày nhìn Hà. Đáp lại, Hà cũng lén lút tròn mắt ra chiều ngạc nhiên không kém. Từ đó đến lúc về ngủ cả hai không nói gì, nhưng đều ngầm ngờ vực Phù, muốn tìm đường dò xét bà. Bà nhìn chúng, ánh mắt in bóng nến dao động càng sáng quắc, tinh tường. Song suốt buổi chúng không dò la được gì, mà bà vẫn điềm nhiên, chừng sắp đi ngủ còn dặn dò cẩn thận:
– Mấy ngày nữa là Tết Đoan Dương, trong cung bận rộn nhiều người, nhớ nhắc lệnh cô đừng đi lung tung. Hai đứa cũng vậy đấy.
[1] Cách bố trí hậu cung thành hai nửa trái phải là hư cấu của tác giả, không có thật trong lịch sử. Về sau, hai nửa hậu cung sẽ được đề cập là tả hậu cung và hữu hậu cung.
[2] Nữ Giới là quyển sách khoảng 1800 chữ, nội dung về giáo dục đạo đức chuyên dành cho nữ giới, viết bởi Ban Chiêu thời Đông Hán (Trung Quốc).
Bình luận
Chưa có bình luận