Hưng Nhượng vương định rời chùa Tây Thuỷ rồi khởi hành về Trường Yên ngay, ngặt nỗi đến giờ cơm trưa, Hưng Đạo đại vương cũng có công vụ cần bàn, đành nán lại đến chiều. Nếu buổi chiều mới bắt đầu đi thì phải ngồi thuyền qua đêm. Cân nhắc tới lui, ông quyết định ở lại thêm một buổi, sáng sớm mai mới về.
Trước lúc đi không tính chuyện giờ giấc thay đổi đột ngột, Tú không biết phải làm gì lúc ở Vạn Kiếp, thành ra rỗi rãi đi quanh phủ suốt buổi. Đi chán, nàng dẫn Quang Triều ra đồng chơi. Lúc còn bé, mùa hè nàng hay về Vạn Kiếp, mấy thửa ruộng luôn chốn đắc địa cho mấy trò nghịch phá của nàng và lũ trẻ trạc tuổi. Bây giờ, bên ruộng chiêm đã vàng ruộm và ngan ngát hương lúa chín, vẫn thoăn thoắt bóng lũ trẻ và bọn mục đồng chạy giỡn, tiếng í ới vang từ bờ ruộng này đến bờ ruộng kia. Chúng giống bọn nàng xưa kia, nhưng không ai thật sự giống ai trong số bọn nàng.
Bọn nàng bây giờ hình như cũng không còn là bọn nàng xưa kia, mà dần biến thành những cánh chim toả ra muôn phương. Có người quanh quẩn với ruộng nương, có người đi buôn những chuyến dài, có người lên kinh, tòng quân vì mộng công hầu khanh tướng. Chỉ mình nàng chưa phải đi đâu, chưa phải lao vào bất cứ thứ gì, cũng không có giấc mơ nào đáng giá.
Có lẽ vì nàng trầm lặng hơn mọi ngày mà Quang Triều cũng ít nói hơn, ngoan ngoãn nắm tay chị suốt từ nhà ra đồng mà không vùng ra chạy đi đây đó như nó thường hay. Phải đến lúc nghe tiếng sáo vi vu nó mới bắt đầu rề rà, liên tục nhìn quanh. Ở bãi cỏ đằng kia, nơi chân trời lộng gió là những cánh diều vải có chiếc đuôi dài lượn lờ bắt mắt dềnh dàng trôi trên nền trời xanh. Nhưng tiếng sáo trầm bổng, trong veo thu hút Quang Triều lại phát ra từ những chiếc sáo diều khác.
Thằng bé lắc lắc tay nàng, mê mẩn nhìn theo rồi kéo nàng chạy đến bãi cỏ. Ở đó lũ trẻ đang ngẩng nhìn đám diều bằng vẻ ngưỡng vọng. Chúng thi nhau chạy xồng xộc kéo cho diều bay lên, rồi lại nô đùa ầm ĩ tranh nhau cầm cuộn dây diều. Nổi bật giữa những mái tóc trái đào là mái tóc búi tó của một người thanh niên. Y mặc áo xám, ngồi xổm giữa lũ trẻ, tay cầm dây một chiếc sáo diều dạy chúng thả, dạy chúng chọn chỗ neo dây. Thấy có người đến, y ngẩng đầu nhìn rồi đưa dây diều cho một đứa bé để đứng dậy vái chào.
Nàng kéo Quang Triều đến chào y rồi xua thằng bé đi chơi, xong mới hỏi:
– Ta cứ tưởng thầy Thăng Phủ đang bàn công vụ với ông và bố, hoá ra thầy trốn ra đây thả diều.
Từ lúc đưa nhà nàng về phủ Trương Hán Siêu đã bận việc khác, không biết chuyện nhà nàng ở lại đây đêm nay. Giờ này còn gặp chị em nàng nhẩn nha ngoài đồng, y không khỏi ngạc nhiên:
Tú kể y nghe chuyện mình ở Vạn Kiếp đêm nay, y nghe xong tặc lưỡi tiếc rẻ:
– Biết cô ở đây tôi đã tìm món gì ngon để biếu. Toàn món ngàn vàng khó cầu, có khi phủ đức ông cũng không có đâu nhé.
Nàng nói đến đây thì dừng, ngượng ngùng cười ý bảo cho qua. Chuyện của nàng y đã biết toàn bộ nên không thắc mắc, đang tìm chủ đề khác để lảng đi thì nghe nàng hóm hỉnh hỏi:
– Thầy rảnh rỗi dạy bọn nhóc thả diều, sao không để thì giờ ấy tính chuyện công danh?
– Cô hỏi tôi y hệt như người ta hỏi đám cháu trai "Chừng nào mới chịu lấy vợ?" vậy. – Y ngẩn ra, phì cười. – Đức ông rộng lượng nuôi kẻ vô công rỗi nghề như tôi, nhưng tôi bất tài, tính mãi không xong. Mấy năm nay chưa báo đáp được gì cho đức ông, tôi cũng hổ thẹn âu sầu lắm chứ, nên phải tìm chuyện làm cho đỡ âu sầu.
Kỳ thật Thăng Phủ không phải người vô công rỗi nghề hay bất tài như y tự nhận. Tuổi còn nhỏ y đã được nhận vào trường học do Trần Ích Tắc mở trên kinh, là người học một hiểu mười, lại hòa đồng nên được lòng cả bề trên lẫn chúng bạn. Trưởng tràng khi ấy là Nguyễn Văn Long vì ghen tị nên đặt điều vu hãm y ám sát Trần Ích Tắc, y phải trốn chui trốn nhủi dưới quê mấy tháng ròng. Trước khi chiến tranh năm Thiệu Bảo thứ bảy [2] nổ ra, y chạy lên Vạn Kiếp xin làm quân hậu cần. Hưng Đạo đại vương giúp y rửa oan rồi cho ở lại phủ làm môn khách, mấy lần binh biến đều tin dùng y. [3]
Mấy năm nay Thăng Phủ đã chín chắn nhưng không chịu vào triều làm quan. Tuy y không giải thích lý do nhưng người xung quanh đều ngầm cho rằng y còn nhớ chuyện cũ nên không muốn qua lại với người trên kinh. Tú lại ngờ rằng còn lý do khác liên quan đến ông cụ nhà mình, nhưng không biết chính xác là gì. Về phần Hưng Đạo, ông cụ không mảy may thúc giục y mà vui lòng giữ lại lo liệu việc công của Vạn Kiếp. Thế nên bất tài, nhàn rỗi chỉ là những cái danh y tự gán cho người ngoài xem thôi.
Chuyện này Tú đã biết sẵn, chẳng qua thầy trò lâu ngày gặp mặt nên tìm chuyện hàn huyên. Thấy y có ý muốn lảng đi, nàng xua tay, nhanh chóng kết chuyện:
Thăng Phủ cười cười, không đồng ý hay phản bác, lại tiếp tục thả diều với bọn trẻ con. Tú tìm chỗ cỏ thấp ngồi xuống xem Quang Triều tranh nhau cầm dây sáo diều với đám con nít, đến khi chiều muộn, mặt trời gác núi mới ra về.
Thăng Phủ ngỏ ý "hộ tống" chị em nàng về phủ, dọc đường, y hỏi nàng:
Biết y hỏi mình chuyện vào cung, nàng nghĩ ngợi rồi lắc đầu, trả lời đại khái:
– Người này dặn ta chuyện này, người khác lại dặn chuyện kia, không ai giống ai, ta còn chưa biết nên nghe ai. Đủ thứ chuyện phải nhớ, còn phải học cung quy. Bấy nhiêu đã choán hết thời gian rồi, còn dự tính gì được nữa.
Thăng Phủ im lặng gật gù. Nàng cứ tưởng y hiểu ý mình rồi qua loa cảm thán cho xong, nào ngờ lúc tạm biệt nhau trước cửa phủ, y chợt nghiêm túc dặn dò:
– Bậc đại nhân nói không cần thế nào cũng phải tin, làm không cần thế nào cũng phải quả quyết, cứ hợp nghĩa thì thôi [4]. Mong cô hai giữ lấy điều này, tuỳ thời mà lui tiến, không phải câu nệ lời ai.
Nhà Hưng Nhượng vương ra bến thuyền vào tờ mờ sáng hôm sau. Hôm ấy trời mát dịu thưag mây, ngoài bến thuyền càng quang đãng, cả một vùng trời nước xám xanh, bao quanh là những bụi cỏ, rặng cây vẫn còn lánh mình trong bóng đêm đen thẳm. Giữa tiếng ếch nhái râm ran thiu thỉu buồn, một tiếng gà gáy sớm gõ vào không gian, khua khoắng lòng sông làm nhấp nhô vài cơn sóng nhỏ. Đứng trên bến, gió sông se lạnh lồng tay áo, mới đầu hạ mà không khí như đã chớm thu.
Hưng Đạo đại vương và Thăng Phủ tiễn đoàn người ra tận bến thuyền. Ông cụ bận dặn dò vợ chồng con trai vài điều, còn Thăng Phủ đến chào tiễn biệt Tú, đưa cho nàng vài quyển sách, bảo là quà biếu trước khi nàng lên kinh. Y kể lại, giọng đầy hoài niệm:
– Nhớ hồi đó Siêu hứa biếu hai cô một vò rượu hoa cúc ở quê, giờ cô với tôi xem như cùng quê, món ấy đành đổi thành sách vậy.
Nàng đón lấy chồng sách, giở xem sơ qua. Hầu hết là sách du ký, tạp lục và một quyển chép thi ca từ các lộ Đại Việt, hao hao Kinh Thi, tất cả đều do Thăng Phủ biên chép. Nàng lắc lắc một quyển trên tay, dở khóc dở cười:
– Học sĩ trong cung đưa xuống vừa cho ta một chồng sách bảo đọc, ta còn chưa xong một quyển kia.
– Vậy cô để chồng này vào cung đọc dần. – Y cười xởi lởi. – Sau này muốn đi đâu, làm gì cũng khó.
Có lẽ biết mình lỡ lời, y ngại ngùng thở dài. Đoạn y lùi về sau một bước, khom người vái chào:
Hai ngày sau khi trở về từ Vạn Kiếp, Tú đến biếu quà xin lỗi nữ học sĩ, giờ học thì đột nhiên chăm chỉ hẳn lên. Học sĩ hãy còn giận vì chuyện hôm nọ, lúc dạy càng lúc càng nghiêm khắc, lạnh lùng, cũng chẳng đặt nhiều hy vọng. Thế mà thấy nàng học ngày học đêm, tốc độ tiến bộ ngày một nhanh, ngày càng nhạy bén sáng suốt, bà không khỏi hài lòng khen đôi câu.
Thiếu nữ hành xử tuỳ tiện đến mức sỗ sàng ngày trước giờ đã ra dáng khuê các đoan trang, bao giờ cũng xuất hiện trước mặt bà trong bộ dáng đi nhẹ nói khẽ cười duyên, nhưng đôi môi không còn dẩu lên hờn dỗi, ương bướng, ánh mắt cũng không còn lấp lánh như chứa cả bầu trời sao. Lần cuối cùng bà thấy nàng cười thoải mái và tự hào là buổi học cách ngày tiến cung ba ngày. Sau khi ôn tập lại cung quy, nàng gọi bà, giọng đầy vẻ hối lỗi:
– Lần trước học sĩ bảo ta ngâm bài thơ của Lý Thương Ẩn mà ta không thuộc, cứ canh cánh mãi. Giờ ta đã thuộc rồi, muốn đọc để vẹn lòng, cũng để xin học sĩ thứ lỗi cho ta.
Lòng như mặt hồ xao động trước gió thoảng, bà ngạc nhiên gật đầu, hơi rưng rưng:
– Chuyện ấy tôi đã cho qua rồi, nhưng biết cô còn nhớ, tôi lấy làm mừng lắm. Cô cứ đọc, tôi xin được rửa tai lắng nghe.
Giọng ngâm thơ uyển chuyển trầm bổng, vẫn chưa ra nét buồn sầu như tứ thơ Lý Thương Ẩn nhưng có vẻ thanh thoát và vô tư rất riêng, có khi như đứa trẻ hồn nhiên đọc mua vui, có khi giống người đã luống tuổi bàng quan nhìn xuống dâu bể tầm thường.
"Chiếu lương sơ hữu tình,
Xuất thuỷ cựu tri danh.
Quần xái phù dung tiểu,
Thoa nhung phỉ thuý khinh.
Cẩm trường thư trịnh trọng,
Mi tế hận phân minh.
Mạc cận đàn kỳ cục,
Trung tâm tối bất bình." [5]
[1], [4] Trích sách Mạnh Tử quyển hạ, thiên Ly Lâu hạ: Đại nhân giả, ngôn bất tất tín, hành bất tất quả, duy nghĩa sở tại. Nghĩa là: Bậc đại nhân nói không cần thế nào cũng phải tin, làm không cần thế nào cũng phải quả quyết, cứ hợp nghĩa thì thôi.
[3] Toàn thư chỉ chép Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, là môn khách của Trần Hưng Đạo. Các hành trạng khác của ông như việc học ở trường của Trần Ích Tắc, bị Nguyễn Văn Long hãm hại phải lẩn trốn, tham gia hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông II và III đều là ghi chép chưa được xác thực, đọc thấy trong Sử ta chuyện xưa kể lại tập II, Lược truyện các tác gia Việt Nam (lập được nhiều công trạng trong hai trận đánh giặc Nguyên) và Từ điển văn học (có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai và thứ ba). Ngoài ra, Tư ước làng Phúc Am viết Trương Hán Siêu sinh năm 1274, căn cứ theo đó, ông chỉ mới 11 tuổi và 13-14 tuổi vào hai cuộc kháng chiến nêu trên.
Các thông tin về Trương Hán Siêu trong truyện được tổng hợp từ các thông tin trên, có điều chỉnh cho phù hợp với các mốc thời gian (ví dụ, năm Thiệu Bảo thứ bảy là năm 1285, nếu Trương Hán Siêu sinh năm 1274 thì lúc này mới 11 tuổi, liệu có thể tham gia chống giặc được không?). Do truyện còn tiếp diễn, các thông tin này sẽ còn để ngỏ. Mình sẽ cố gắng lập bảng tổng hợp về các nhân vật ngoài đời thực và trong truyện để độc giả tiện theo dõi.
[5] Dịch nghĩa bài thơ Vô đề (Chiếu lương sơ hữu tình (Soi xà nắng hữu tình)) - Lý Thương Ẩn:
Hữu tình như ánh bình minh chiếu vào rường nhà,
Xinh đẹp như đoá sen ló khỏi mặt nước.
Chéo quần thêu cánh phù dung nhỏ,
Đầu cài trâm phỉ thuý nhẹ xinh.
Bao lần dệt bức thư dài gởi người,
Nỗi sầu hiện rõ trên nét mày thanh mảnh.
Khuyên người chớ lại gần cuộc cờ,
Trong lòng sẽ buồn khi thấy chuyện bất bình.
Bình luận
Chưa có bình luận