Canh ba, Tú vẫn còn trằn trọc. Lời ông nói vừa rồi như vẫn còn quanh quẩn bên tai. Tại sao nàng không còn thì Vạn Kiếp cũng không? Còn những người khác trong họ đâu? Nàng đâu phải cháu gái duy nhất, cũng đâu phải người Vạn Kiếp cuối cùng.
Nghĩ mãi không ra, nàng mơ màng thiếp đi, trôi vào một cơn mơ rất dài. Trong mơ, nàng thấy mình trèo tường bỏ thái ấp đi, lẩn trốn nhiều ngày đêm, cuối cùng cũng đến miền biên giới. Nơi đó xa xôi đến nỗi nàng tưởng mình đã lạc khỏi Đại Việt, không ai biết nàng là ai, cũng không có tin đồn nào truyền từ kinh thành đến. Rất lâu rất lâu sau, nàng mới biết cả họ nhà mình bị mang ra xét xử vì tội phạm thượng bất tuân.
Tội danh đã định, cả nhà Hưng Nhượng vương bị xử trảm, Hưng Đạo đại vương quản giáo không nghiêm, cam chịu dâng lại binh quyền, lui về Côn Sơn ở ẩn. Tú phi ngựa nước đại hồi kinh, đứng trước pháp trường chợ Bưởi đúng ngày hành quyết, không ngờ chợ vẫn họp phiên, người đi kẻ lại như mắc cửi. Quáng quàng, nàng kéo bừa một người lại hỏi. Người ấy đáp:
– Con của Hưng Đạo đại vương ở Kiếp Bạc chứ ai! Vạn Kiếp, nhớ không! Cháu của Yên Sinh đại vương Liễu ngày xưa, ông Yên Sinh là anh cả của đức Thái tông. Nhớ không, nhớ không?
– Yên Sinh thì biết, nhưng Hưng Đạo nào? Vạn Kiếp nào? Cô gì ơi, chuyện nhà vua, nói hươu nói vượn bay đầu như chơi đấy!
Lại hỏi thêm vài người nữa, nhưng những gì tôi nhận được vẫn là "Bố con Hưng Đạo nào? Vạn Kiếp nào?" Ông nàng không có thật, bố cũng không nốt, Vạn Kiếp thì như bốc hơi khỏi Đại Việt. Nàng gục giữa đám người, khóc gào không thành tiếng. Rồi nàng lơ lửng trên không, thấy "nàng" dưới mặt đất mờ dần, mờ dần...
Tú giật mình, thở hổn hển. Cơn bàng hoàng còn chưa lui hết, người nàng mềm oặt, chân tay run rẩy. Gian phòng trống huơ trống hoác, xa lạ. Nàng giãy ra khỏi chăn, xuống giường í ới gọi người hầu. Đứa hầu thân cận là Thám Thuỷ hô to chạy vào, nàng lao đến chộp tay nó, lắp bắp hỏi:
Bấy giờ Tú mới chú ý thau nước nóng nó đang bưng trên tay. Nước sánh ra ướt hết áo trung đơn, người nàng nóng bừng rồi buốt lạnh. Nàng ngồi phịch xuống, như sực tỉnh lần nữa.
Thuỷ hoảng hốt đóng kín cửa, kéo chủ vào thay áo. Trong lúc ấy, đầu óc nàng vẫn còn trên mây. Dường như nàng là Tú, Trần Thị Tú cháu nhà Vạn Kiếp, nhưng cũng không phải cô Tú đó. Dường như nàng là người chạy trốn ra biên giới, quay về mới phát hiện cả dòng họ đã biến mất trong mơ, nhưng rõ ràng người đó không có thực. Cảm giác nửa hư nửa thực chấm dứt khi Thuỷ mở toang cửa sổ ra. Gió sớm ập vào bọc lấy nàng, cả người lạnh toát rồi nóng hực lên, kéo tâm trí nàng ra khỏi dư âm của giấc mơ quái quỷ. Nàng ngồi phịch xuống giường, thở hắt.
Theo lời ông hôm qua, chị cả Khuê đang ở lại chùa Tây Thủy làng bên. Đường đi không xa nên đến đầu giờ Thìn cả nhà mới khởi hành. Người dẫn đường là Trương Hán Siêu, tên tự là Thăng Phủ, một môn khách của phủ Hưng Đạo đại vương, cũng là người sắp xếp mọi thứ cho Khuê từ ngày về Vạn Kiếp.
Trong số mười mấy môn khách của ông, y là người thân cận với mấy chị em nhà nàng nhất. Hồi chiến tranh, mẹ dẫn chị em nàng về Vạn Kiếp rồi mới di tản cùng bà nội. Trương Hán Siêu lúc ấy còn niên thiếu, phải ở lại hậu phương giúp đỡ. Tính y phóng khoáng dễ gần, lại học rộng hiểu sâu, thường dạy đám trẻ hậu phương học chữ hoặc kể chuyện cho chúng nghe. Chị em nàng gọi vui là thầy, mãi rồi thành quen. Sau này xuống Trường Yên nàng mới biết nhà y cũng ở làng Phúc Am. Nàng đoán Hưng Đạo đại vương giao chuyện chị cả cho y để sau này dễ bề đưa chị về thái ấp của bố.
Để tránh lời đàm tiếu, đoàn người không ngồi võng hay đi ngựa, cũng mang theo rất ít tuỳ tùng. Chùa Tây Thuỷ nằm cách phủ Hưng Đạo đại vương hai khắc đi đường, là một ngôi chùa nhỏ, cổng Tam quan nằm sau bóng cây hòe, cửa gỗ chạm hoa văn đã sờn, bức hoành sơn son trên cao cũng nhạt. Thăng Phủ gõ cửa, tức thì một sư cô trung tuổi ra đón như đã chờ sẵn từ lâu.
Chùa được xây theo lối chữ "đinh" (丁) sân trước sân sau trồng nhiều cây, bên trái chùa tuần tự là gác chuông, nhà khách và dãy tăng phòng. Sư cô đưa đoàn người vào chính điện và tiền đường thắp hương, lại gọi thêm một sư cô khác đến tăng phòng tìm cô Khuê.
Chờ nhóm người thắp hương xong, bà dẫn đường qua nhà khách. Thăng Phủ và nhóm tuỳ tùng ở bên ngoài chờ, chỉ có nhà Hưng Nhượng vương vào trong. Khuê mặc bộ áo nâu, tóc búi gọn gàng, đang mang khay ấm chén đặt ở trường kỷ. Thấy là bố mẹ đến, nàng vái chào thong thả, bình tĩnh như không có việc gì xảy ra.
Nhớ lại lời Hưng Đạo đại vương tối qua, Hưng Nhượng vương vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ. Ông nhận chén nước vối từ tay con gái cả, vừa định mở lời đã nghe tiếng sụt sịt của vợ mình vang lên. Nước mắt bà Bảo Huệ chảy không ngừng, ban đầu chỉ thút thít, càng về sau bà nức nở càng to, nghẹn ngào hỏi Khuê:
Bốn cặp mắt đổ dồn vào nàng, vẻ trông đợi. Nàng nhoẻn cười đáp:
– Lúc nghe bố bảo con vào chùa mẹ còn tưởng con xuống tóc thật. – Bà vừa nói vừa khóc. – Ôi con tôi, mới có mười tám chứ mấy...
Khuê nắm tay mẹ, hết lời an ủi bà, mãi bà mới chịu nín. Hưng Nhượng vương nhìn bà mà lắc đầu, đến thăm con, chưa nói một câu ra hồn đã khóc. Lại nhìn sang Tú và Quang Triều đã rưng rưng theo mẹ từ bao giờ, ông cũng lắc đầu, tặc lưỡi nốt. Khuê cười với bố, nhẹ giọng:
– Mẹ xót con quá rồi, chứ trông con đâu đến nỗi nào. Trước lúc về đây con vẫn sống trong cung bình thường, cơm bưng nước rót không sót một bữa, chỉ bị hạn chế đi lại mà thôi. Cũng nhờ Thượng hoàng và Quan gia nhân từ.
Đã là lần thứ hai Tú nghe người khác nói bề trên nhân từ, nhưng chuyện ra nông nỗi này, câu ấy chỉ để lấp liếm chứ ai lại tin bề trên nhân từ được. Chị nàng từ một phu nhân áo lĩnh quần hoa, tóa cài thoa tay đeo vòng, từng cái cười, ánh mắt toát ra vẻ cao quý, thong dong trở thành thiếu phụ áo vải bình thường, tiều tụy như bây giờ, sao lại bảo là "đâu đến nỗi nào" được. Nàng chép miệng cảm thán:
– Tú! – Hưng Nhượng vương lừ mắt nhìn con, gắt gỏng. – Hôm trước ăn đòn chưa no à?
– Lại gây sự đấy phỏng? Em sắp vào cung rồi, đừng để bố mẹ lo.
– Con với cái, có bớt lo được hôm nào. Học hành không đâu vào đâu, cãi lời học sĩ đã đành, đến ta mà nó còn cãi chem chẻm. Ông con bảo con khuyên nó mấy câu cho nên người đấy.
Tú dẩu môi, nghĩ bụng chuyện đấy có gì hay mà gặp ai bố cũng kể, đến chị cả nghe bố nói cũng cười trừ kia kìa. Khuê đưa tay xoa đầu em, tuy không nói câu nào nhưng nét mặt chị hiền hòa khiến Tú thấy mình được bênh vực. Lồng ngực khó chịu, nàng cười trừ rồi lại khóc, quệt mãi mà nước mắt không khô. Chị cả ôm nàng vỗ về, vẻ yêu thương và đầy bất đắc dĩ. Quang Triều cũng òa khóc, đến ngồi cạnh chị cả rồi sà vào lòng chị. Hưng Nhượng vương bất đắc dĩ cười:
– Chúng mày ấy... lúc vui không ai nhịn ai, có chuyện thì ôm nhau mà khóc.
Chợt nhớ đến lời bố dặn, ông ngoắc tay sai người hầu đóng kín cửa, thấp giọng hỏi Khuê:
– Chuyện này bắt đầu từ lúc nào, sao cả ông cũng không nghe phong thanh gì là con đã bị giam lỏng rồi?
Trước ánh mắt sốt sắng của bố mẹ, Khuê im lặng. Nàng buông hai đứa em ra, cúi mặt kể:
– Hồi Quan gia chưa lên ngôi con đã thân cận với Thái hậu, nên từ lúc người xuống Lỗ Giang con hay viết thư thăm hỏi, gửi cùng với đồ Quan gia biếu cho người. Mới đầu năm nay lúc hầu chuyện Thái phi, con vô ý nhắc chuyện làm mai cho cái Tú. Có lẽ bề trên biết hai việc ấy, lại thêm con theo hầu Quan gia một năm mà chưa có mang, nên... Cũng do con hết cả.
Bà Bảo Huệ dừng khóc, khó tin nhìn con gái. Hưng Nhượng vương siết chặt tay, phải nhắm mắt hít sâu mấy hơi mới bình tĩnh lại được. Giọng ông trầm xuống:
– Không trách con được. Hậu cung biến động theo tiền triều thôi.
Biết lại động đến cái gai trong lòng bố mình, Khuê khéo léo chuyển đề tài đi, hết dặn dò bố mẹ giữ gìn sức khoẻ đến bảo Quang Triều mau ăn chóng lớn, đừng la cà nghịch phá xóm làng nữa. Thằng bé ngượng ngùng dụi gương mặt lem luốc vào tay áo chị cả, Tú cằn nhằn nó mấy câu rồi lại bắt đầu lời qua tiếng lại, làm bố mẹ chúng cười rộn hết cả lên. Thấy chuyện phế truất cuối cùng cũng được cho qua, Khuê kín đáo thở phào nhẹ nhõm.
Gần trưa, Hưng Nhượng vương tiếc nuối bảo vợ dẫn Quang Triều sửa soạn ra về. Quang Triều nghệt mặt:
Chờ bố mẹ đưa thằng bé ra ngoài rồi, Khuê kéo tay em đứng cách xa cửa, giọng điệu gấp gáp:
– Trưa rồi, chị dặn em mấy chuyện thôi để em còn về. Chắc em có nghe ông và bố mẹ kể lại chuyện trên triều dạo này.
Tú dè dặt gật đầu rồi lại lắc đầu, đêm qua đúng là ông và bố có nhắc đến chuyện trên triều, nhưng không nhiều, ông cũng bảo nàng chưa cần biết. Khuê bất lực nhìn em, lại nói:
– Thôi, em cứ nhớ, được phong phẩm trật nào cũng được, bề trên bảo gì thì yên chí làm nấy. Trên khiêm cung, dưới nhường nhịn, bạn bè nhiều nhặn vẫn hơn. Dần dà khi nắm quyền trong tay, em sẽ có điểm yếu, mà mấy thứ này tốt nhất đừng để người khác biết...
Nhắc đến điểm yếu, Khuê dừng lại ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp:
– Đừng nhắc đến Thái hậu và chị nhiều, không khéo lại rước vạ vào thân. Còn thái phi Tuyên Từ... trước mắt cứ ít qua lại vẫn hơn.
Lời chị nói về Thái phi khác hẳn ông nội hôm qua, lòng nàng thầm hoài nghi, song chưa kịp hỏi gì chị đã nói tiếp:
– Thượng hoàng và Quan gia vẫn còn cần Vạn Kiếp, tạm thời em đừng lo chuyện nhà Chiêu Minh vương hay Chiêu Đạo vương đưa ai vào cung.
Chuyện này dù chưa hiểu lắm Tú vẫn gật đầu. Nàng trở lại chuyện trước đó:
– Ông dặn em có việc thì tìm Thái phi, sao vừa rồi chị bảo nên ít qua lại?
Có lẽ không ngờ nàng hỏi thế, Khuê sững sờ một chốc rồi thở dài:
– Nghe ông cũng được, nhưng phải nhớ, có việc quan trọng mới tìm. Ít tìm vẫn hơn nghĩa là thế đấy. Vào cung rồi em biết.
Tạm không thắc mắc chuyện ấy nữa, Tú lại sực nhớ ra việc khác, ngại ngần gãi đầu, hỏi:
– Quan gia bây giờ thế nào rồi chị? Lâu quá em không gặp ngài ấy, không biết tính tình ra sao.
Lời này gần như bật ra ngay lập tức. Kế đến là khoảng lặng, hình như Khuê đang lựa lời, lại hình như không biết nói gì cho phải. Sau cùng, nàng bỏ cuộc, nói ngắn gọn:
Kể cho Tú nghe thêm vài chuyện về Thuyên và sở thích của chàng nữa, Khuê mới kết thúc bằng một câu lí nhí, nhẹ tênh:
– Chắc ngài sẽ thương em lắm. Nếu được thương thì gắng sống cho tốt, rồi làm sao trở thành một người không ai thay thế được, nhé.
Lời vừa dứt, nước mắt Khuê đã vô thức lã chã tuôn đầy. Tú thấy chị khóc cũng không cầm được mà sụt sịt theo. Khuê giang tay ôm em, vít đầu em vào lòng, một tay vỗ về trên tóc, một tay xoa lưng em như ngày xưa dỗ em lúc em đòi mẹ. Tú là đứa em nàng yêu quý nhất. Nàng mong người mình tin tưởng nhất có thể chăm sóc cho người nàng yêu quý nhất cả một đời.
Lúc nhà Hưng Nhượng vương rời chùa, nắng trưa gắt gỏng dội xuống tăng phòng. Ngoài sân sáng rực, nóng như thiêu, mái hiên nơi Khuê đứng tiễn đưa nhờ nhờ tối. Gương mặt chị khuất khỏi tầm mắt Tú sau ngã rẽ, tiếng tiễn biệt dường tan vào thinh lặng, chỉ còn những bóng người lầm lũi dưới nắng trưa và tiếng bước chân lạo xạo lao xao trên đá sỏi dọc đường.
[1] Trích "Truyện Kiều": Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Bình luận
Chưa có bình luận