Sau hôm đó, Tú bị bố phạt cấm túc năm ngày. Dư âm đòn roi vẫn còn, khắp người nàng ê ẩm, chỉ toàn ngả nghiêng sấp sải trên giường. Trời nồm, chăn đệm ẩm ướt dấp dính, nàng lại đâm bực dọc. Chuyện đáng mừng duy nhất là việc học cung quy bị hoãn cho đến khi nàng khoẻ hẳn. Nhưng nữ học sĩ vẫn muốn nàng tranh thủ thời gian đọc sách, thế là để lại cả chồng sách to, bảo nàng đọc đến đâu chú đến đó, khi nào lên lớp lại bà sẽ xem.
Ngày thứ năm, Quang Triều đột nhiên tới tìm nàng giữa trưa. Lúc đầu nó đứng thập thò ngoài cửa, gọi nàng lí nhí như mèo kêu. Thấy nàng mải nằm đọc sách không nghe gì, nó đánh liều chạy tót vào phòng, gấp gáp hô:
– Chị ấy về Vạn Kiếp rồi, mới sáng nay, nhưng nhà mình mới hay tin. – Nó liến thoắng một tràng, chợt hạ giọng ra chiều bí ẩn. – Còn chuyện khác nữa, chị đoán xem.
Nàng tròn mắt, gạt sách vở bút mực la liệt qua một bên, kéo Quang Triều ngồi xuống cạnh mình, hỏi dồn:
– Bố mẹ định đưa em theo, nhưng nhắc đến chị thì ngập ngừng lắm.
– Em nghe lén bố mẹ, sao mà hỏi được. Nhưng sau đó học sĩ đến tìm mẹ hỏi khi nào tiếp tục dạy chị học, mẹ bảo gượm đã. – Nó dẩu môi. – Chị nghĩ mà xem, có lý gì mà bố mẹ không cho chị đi cùng. Thể nào chị cũng được đi.
Nói xong, nó kể thêm mấy chuyện vặt vãnh xảy ra trong phủ mấy ngày nay, bao gồm cả việc thị Thanh, cháu gái Trung Thành vương đã được người nhà đến đón rồi. Sau trận ẩu đả, cô tơi tả chẳng kém nàng, nhưng vì cô ả là đầu sỏ nên bố cô ả nhún nhường đòi tạ lỗi mãi. Hưng Nhượng vương không đồng ý, cũng không làm khó gì, nhưng mối giao tình khó khăn lắm mới nối lại được kia lại trở thành lễ chủ khách đơn sơ.
Tú nghe xong gật gù đồng ý. Con cháu hoàng thất chớm lớn thường được gửi đi nhà họ hàng để học hỏi, có khi ở lại vài ngày, có khi vài tuần trăng hay tính bằng năm [1]. Thị Thanh kém nàng ba tuổi, giờ đã mười hai, phủ Hưng Nhượng vương là nhà họ hàng đầu tiên cô ả đến làm khách, thế mà để xảy ra việc này. Bố mẹ nàng khách sáo đã là tốt tính, nếu lan truyền ra ngoài, người thiệt thòi là cô ả chứ chẳng ai. Bố cô ả nhún nhường quả không có gì lạ. Chỉ mong sau này nhà nàng không phải gặp lại cô ả nữa thôi.
Quang Triều ngồi lại đến chiều, sắp tới giờ cơm vẫn không chịu đi, cố ý kéo dài thời gian bằng mấy câu hỏi ngớ ngẩn:
Tú bật cười. Nó ăn cơm với bố mẹ, nàng không ra cùng nghĩa là phải ăn một mình ở đây, có thế mà cũng hỏi. Nhưng nàng chưa kịp trả lời nó đã tự thấy phi lý, vỗ trán thở dài như ông cụ non:
– Không có chị mà bố mẹ còn hậm hực, đến ăn em còn chẳng dám ăn.
Tú cười cười, chợt ngơ ngẩn. "Sau này cũng thế". Nó nhìn bố mẹ cau có mỗi ngày thì đã thấm thía vào đâu. Nàng phải ăn một mình, học một mình, làm mọi thứ một mình giữa bốn bức tường cung cao và rộng mới là điều đáng sợ. Lẽ nào quãng đời còn lại của nàng trôi đi đơn côi và tẻ nhạt như thế?
Đến khi Tú hồi thần, trời bên ngoài đã nhá nhem. Đèn đuốc sáng choang, cơm nước dâng đầy bàn, mà Quang Triều đã rời đi từ lúc nào không biết.
Chuyến về Vạn Kiếp của nhà Hưng Nhượng vương được định vào đầu tháng Tư, khoảng mười ngày sau khi Tú hay tin chị. Suốt mười ngày ấy nghiên mực nàng để khô cong, sách đọc chưa được mấy dòng, người đã hết đau nhưng đi đứng nằm ngồi gì cũng không yên được. Phải khi bố mẹ thông báo cho nàng và Quang Triều và dặn dò ngày đi nàng mới ngủ được một giấc thẳng.
Mồng Bốn tháng Tư, trời quang đãng nhiều gió. Vợ chồng Hưng Nhượng vương dẫn theo ba đứa con và đoàn gia nô rời bến thuyền ở Trường Yên lúc tờ mờ, giờ Thân mới đến Vạn Kiếp. Từ bến thuyền vào phủ lại mất thêm một khắc ngồi võng. Phủ của Hưng Đạo đại vương nằm sâu sau những khúc quanh và những cánh đồng chiêm dài đã vào mùa gặt, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra dòng sông êm ả in bóng hoàng hôn. Rõ là cảnh đẹp, tâm trạng Tú lúc khởi hành cũng xem là tốt, nhưng càng đến gần phủ lại càng nặng nề khó chịu. Bảo Huệ quốc mẫu dặn dò nàng và Quang Triều đủ chuyện, nàng lơ mơ không nhớ bao nhiêu, chỉ gật đầu lấy lệ.
Vào phủ, men theo lối đi qua vài lớp bình phong bằng đá và mấy khoảnh sân tập mới đến gian nhà tiếp khách. Cụ Hưng Đạo, ông nội nàng, đang ngồi trên bộ trường kỷ ở gian chính. Ở tuổi sáu mươi ngoài, mái tóc ông đã hai màu, gương mặt rám đen đầy vết thời gian nhưng ánh nhìn vẫn còn sáng quắc. Từ bé đến lớn Tú đã trộm nhìn đôi mắt ấy không biết bao nhiêu lần. Lần nào nàng cũng lấm lét, sợ bố mẹ thấy rồi quở mình bất kính, thế mà nhìn suốt mười lăm năm vẫn chưa hết tò mò.
Trời đã muộn, nhà nàng ăn cơm rồi nghỉ lại phủ một đêm, sáng mai mới đi thăm chị cả. Ăn uống xong đã là giữa giờ Dậu, ông cụ bảo bố và nàng ra nhà trước hầu chuyện. Bấy giờ ông cụ ngồi trên sập gỗ ở gian bên, cạnh sập chỉ bày một chiếc ghế. Nàng chào xong thì được bảo đến trường kỷ ngồi chờ, để ông và bố trò chuyện riêng với nhau.
Rỗi rãi không có việc gì làm, nàng dỏng tai nghe xem ông cụ bảo bố việc gì. Đầu tiên ông hỏi hết thảy việc trong nhà, đến bố mẹ và việc học của hai chị em rồi lại đến mùa màng ở thái ấp. Được một lát, câu chuyện dời sang các ông Chiêu Minh, Chiêu Đạo vương hay chuyện Chiêu Lăng và Vạn Kiếp. Toàn những việc mà chẳng mấy khi nàng để tâm tới! Không còn hứng thú nữa, cơn mệt mỏi vì đường xa thấm dần, nàng bắt đầu nghe chữ được chữ chăng, rồi gục gặc ngủ mất.
Đột nhiên ông cụ cao giọng, Tú giật mình bừng tỉnh. Nàng quay lại nhìn, vừa hay thấy bố ghé người lên sập thì thầm điều gì đó. Ông cụ nghe xong thì khoát tay, sai người hầu mang thêm ghế thấp đặt cạnh Hưng Nhượng vương rồi cho gọi nàng qua, nói:
Tú vẫn còn ngái ngủ, chân đi như đạp trên mây rồi "phịch" một tiếng ngồi xuống ghế. Người hầu nhanh nhảu dâng nước lên, nàng nhận lấy, hớp một ngụm, nháy mắt thêm mấy lần mới tạm xem là tỉnh táo. Nàng ngồi thẳng lại, hai tay ôm gọn cái chén gốm chân cao nhỏ đặt vững trên đùi, cúi đầu nhìn chằm chằm chén nước chè trong tay. Hưng Nhượng vương hài lòng liếc nhìn con, đoạn hắng cho nhuận giọng, kể:
– Cháu gái của cụ Chiêu Đạo vừa vào cung sáng nay, con nghe nói Quan gia phong cho làm cung tần.
– Vâng. Vừa bỏ cái Khuê là nạp ngay người nhà Chiêu Lăng vào, con sợ cái Tú không được phong hậu trong năm.
Nước chè trong chén của nàng hơi sóng sánh. Nàng siết chặt chiếc chén, ánh mắt cúi gằm loé lên chút bất nhẫn. Hưng Nhượng vương liếc qua con, nhướng mày:
– Giờ mới biết lo lắng à? Chưa vào cung đã có đối thủ rồi đấy, lo dần đi là vừa.
– Đối thủ gì đâu bố! Con đã bảo muốn tranh cái gì với ai đâu.
Biết mình quá trớn thật, nàng thè lưỡi chữa ngượng rồi lại yên lặng nghe tiếp cuộc trò chuyện. Câu chuyện vẫn chỉ xoay quanh thế cục triều chính, nàng nghe tai này lọt tai kia, càng không thể hiểu hết mưu lược của người lớn. Duy chỉ có hai chuyện nàng hiểu được nhưng không thể bàn luận gì. Thứ nhất là chuyện bố xin rời Bàng Hà, xuống Trường Yên lập thái ấp mới năm nàng tám tuổi [2]. Sau này vào những ngày hội hè rỗi rãi, bố mẹ nàng thường ôn chuyện cũ, lần nào cũng cảm thán quyết định năm ấy quả là đúng đắn.
Chuyện thứ hai là gửi Quang Triều đi thái ấp khác lịch luyện. Giữa năm nay thằng bé vừa tròn bảy tuổi, ở nhà chỉ tổ phá phách, đánh nhau, bố muốn đưa nó đi nhà họ hàng học hỏi sớm hơn vài năm. Hưng Đạo đại vương không quyết định vội vàng nhưng hồ như đã tính toán từ lâu, nhẹ nhàng nói:
– Chờ qua chuyện trong cung rồi gửi nó đi. Còn về đi đâu, con để ta xem kỹ đã.
Nghe vậy Tú thầm thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất chị em nàng vẫn được ở cạnh nhau trong những ngày cuối cùng trước khi nàng nhập cung. Nghĩ đến nhập cung, nàng lại phiền chán nhíu mày. Mấy ngày nay nàng bồn chồn muốn gặp ông và chị cả, dù không tự thừa nhận nàng cũng lờ mờ hiểu, thẳm sâu trong mình còn đang hy vọng không phải tiến cung. Thế nhưng tối nay ông và bố toàn nói những chuyện triều chính, hậu cung rồi bè phái mà nàng chưa từng muốn hiểu. Người xung quanh hình như biết nàng đang sợ hãi và né tránh một cách ngây thơ, nên cố ý nói cho nàng hiểu, phơi bày cho nàng thấy, nhưng chỉ khiến nàng muốn phớt lờ chúng hơn. Thậm chí tưởng tượng đến cảnh gặp chị cả ngày mai, nàng như bị ai rút cạn sức sống, không còn chút háo hức nào nữa.
Dòng suy nghĩ bị tiếng gọi bất ngờ của Hưng Nhượng vương cắt ngang. Ông mím môi, tỏ ra phật ý:
– Vâng gì mà vâng! Mấy hôm nay bị phạt ở trong phòng, còn chưa tỉnh táo lại à? Nuông chiều mày quá nên sinh hư rồi đấy phỏng?
– Ông và bố thứ lỗi cho cháu. Vừa rồi cháu nghĩ linh tinh thôi ạ.
– Mày đấy! – Hưng Nhượng vương rướn người về phía nàng, giọng đột ngột cao lên. – Sắp vào cung rồi, ông gọi đến nghe chuyện để còn biết mình biết ta, thế mà chểnh mảng suốt...
Đang ngồi im lặng ngồi xem hai bố con đối đáp với nhau, đột nhiên ông cụ Hưng Đạo bật cười. Ông thong thả ngắt lời con trai:
– Thôi anh Tảng ạ. Anh dạy con gái mà hơi tí là quát, nó sợ rúm ró rồi kia kìa.
Tú hơi ngẩn ra. Thấy ông làm dấu với mình, nàng "ồ" lên trong lòng, thức thời co rúm người lại, làm bộ sợ sệt.
Ông cụ buồn cười lắc đầu, trông đến là bất đắc dĩ. Cô cháu gái nhỏ làm ông nhớ hai đứa con gái mình ngày đó, cũng ngây thơ và nghịch ngợm biết bao. Vừa rồi rõ là nàng không tập trung nhưng ông cụ không nỡ la rầy, mà dù nỡ lòng đi nữa ông cũng không gào lên như thằng con trai thứ tư quý hoá. Nghĩ rồi ông cụ tự bật cười khùng khục, thoải mái phất tay:
– Ta với anh cũng không còn chuyện gì, anh cứ về nghỉ, để con bé lại, ta bảo một lát.
Vừa rồi rõ là Hưng Nhượng vương không vui quát con, giờ nghe bố mình bảo nàng ở lại một mình, ông lại sững người, lo lắng. Ông cụ xem giờ rồi lại giục, Hưng Nhượng vương đành trừng nhẹ mắt ra hiệu với con gái. Thấy nàng nhắm mắt nhắm mũi gật đầu, Vương không yên tâm nhưng cũng đành thở dài lui xuống.
Còn lại hai ông cháu, Hưng Đạo đại vương ngoắt tay bảo Tú lại gần. Nàng dè dặt mang ghế đến, khép nép ngồi, đầu vẫn không dám ngẩng cao. Ông cụ bật cười:
Sao mà không sợ được? Tú rụt vai, mấy ngón chân cuộn lại bấm chặt xuống đất, đầu vẽ ra hàng chục câu răn dạy ông cụ có thể nói. Càng nghĩ đầu nàng càng cúi thấp, tai lùng bùng nghe được cả tiếng tim đập. Nàng không đáp, ông cụ cũng không nói gì, chỉ ra hiệu nàng đưa cái chén không cho người hầu rót nước. Chờ nàng nhận lại chén ông cụ mới bảo:
– Cháu biết ngày xưa đứa nào thường cãi lời ông nhất không?
– Ừ. Cãi thì cứ gọi là chem chẻm, ngày nào cũng ăn roi, có ngày không phải roi mây mà là nhánh tre gai ấy chứ.
Tú hít một hơi sâu, nghĩ thầm nếu thứ mấy hôm trước bố dùng để đánh mình là tre gai chứ không phải roi mây, chắc giờ nàng đã thân tàn ma dại, không bước xuống giường nổi rồi. Mới nghĩ thôi đã sởn da gà, nàng nhe răng xuýt xoa:
– Ta đánh vẫn đánh, mắng vẫn mắng, nó bướng thì vẫn bướng. – Ông cụ cười khà, ánh mắt đã mờ đượm màu hoài niệm. – Sau này ta không đánh mắng nhiều nữa, tự nhiên nó lại "ngoan" ra, giờ cũng coi như biết tính toán trước sau, bớt bốc đồng đi nhiều. Nhưng "báo ứng" là nó gặp bọn cháu đấy! Chị cháu thì vâng lời, thằng Quang Trạch bé quá, mỗi cháu với Quang Triều, hễ ta nhắc chúng bay là nó than vãn kêu trời kêu đất.
Nàng len lét nhìn ông, người thì vẫn rướn tới gần sập chờ nghe kể chuyện.
Chết chửa! Thế là bố mách cả chuyện dạo trước nàng cãi lời học sĩ dạy cung quy rồi trốn đi đánh nhau với cháu gái Trung Thành vương. Tú chậm rì rì thu người về, nuốt khan chờ nghe ông cụ dạy bảo. Chắc phải là một trận ra trò, bụng nàng bảo dạ. Nhưng ông cụ không nhắc đến chuyện đó mà kể:
– Có chuyện này ta nhớ như in. Năm ngoái Quang Triều không chịu học cưỡi ngựa, nằng nặc đòi bố cháu dạy cưỡi trâu. Té ra đám con nít chơi chung bảo nó cả cái thái ấp không ai cưỡi ngựa đánh nhau, phải cưỡi trâu mới cho vào đánh cùng. Ông nhõi ham vui, vâng theo răm rắp.
– Cháu nhớ rồi. – Tú khoa trương reo lên. – Lúc đấy bố cháu mắng nó té tát, nó vâng dạ rồi lại lén lút bày trò với đám chăn trâu ngoài đồng cả tháng. Phải đến lúc nó cưỡi trâu làm tướng đánh nhau bố cháu mới phát hiện cơ.
– À, đấy! – Ông cụ nhướng mắt, gật gù tán đồng. – Lần sau đến lượt cháu ra sông xách cổ nó về, bố cháu hỏi đã phạt nó chưa, cháu chỉ vào mông nó thưa rồi. Bố cháu chả tin, lúc kể còn bảo với ta: "Chả nhẽ con lại vạch áo thằng cu lên giữa nhà." Đúng là nghi đâu có đó, cháu bao che thằng nhóc chứ đã phạt nó roi nào.
Tú mất tự nhiên lảng mắt đi, bưng chén nước vờ uống để che gương mặt ngại ngùng. Hưng Đạo đại vương nhìn thoáng qua nàng, còn định nói gì đó, chợt ánh mắt ông cụ dừng lại rất lâu. Trông nàng giống hai đứa con gái ông cụ quá, từ cái vẻ thoắt rụt rè thoắt láu lỉnh, đến nụ cười tinh nghịch và ánh mắt lấp lánh mỗi khi nghe ông cụ kể chuyện. Hai người một là bác, một là cô của Tú, đều đã vào cung hầu Thượng hoàng gần hai mươi năm rồi. Hai mươi năm trôi đi như một cái chớp mắt. Giờ vợ ông cụ đã mất, hai đứa con gái đã có con. Con chúng đã trưởng thành, đứa làm vua, đứa làm vương, phía Vạn Kiếp lại thêm có vài đứa cháu làm phi, làm tần, nhưng thỉnh thoảng bắt gặp hình bóng chúng đâu đó, ông cụ lại thấy ký ức cũ ùa về lấp đầy ngôi nhà bấy lâu trống trải.
Gió đêm lùa ký ức thành bụi, ánh đèn càng tù mù, bốn vách tường càng cao nghều nghệu, ba gian nhà càng rộng thênh thang...
Hồi thần, Hưng Đạo đưa tay xoa đầu đứa cháu nhỏ, giọng nói vẫn nhẹ như còn kẹt trong miền xa thẳm:
– Chị em cháu y hệt các cô các bác với bố cháu hồi còn nhỏ. Bây giờ mỗi đứa một nơi, họa may lễ Tết hội hè mới được gặp nhau, nói vài câu...
– Cháu vào cung cho ta gửi lời hỏi thăm cô út của cháu nhé. Giờ nhà ta còn mình con bé trong ấy.
– Cô út... Thái phi Tuyên Từ đó hở ông? – Nàng lấy làm lạ hỏi. – Nhà mình còn Thái hậu Khâm Từ nữa mà...
– Con bé ấy xuống hành cung Lỗ Giang, đâu còn dính dáng nhiều với chuyện trên kinh nữa.
Trước nay Tú không quá để ý những việc xảy ra trên kinh thành, phải giáp năm nàng mới gặp lại họ hàng, và chỉ gặp đơn sơ vậy chứ ít khi tìm hiểu sâu. Lời ông nói làm nàng phải lần hồi nhớ lại từng sự kiện một từ mấy năm trước. Nửa khắc sau, trí nhớ nàng dừng ở việc năm ngoái Thái hậu Khâm Từ bác gái của nàng đột ngột ngã bệnh, phải về hành cung Lỗ Giang ở phủ Long Hưng tịnh dưỡng [4]. Lúc bà đi trời đã cuối thu, gió cuối mùa se sắt quẩn quanh thềm điện, cuốn theo những tiếng xì xào chẳng biết bắt đầu từ đâu đến. Lỗ Giang gần lăng tẩm các đời tiên đế, ai bệnh nhẹ mà lại cần về đấy tịnh dưỡng. Nếu bệnh nhẹ sao không ở lại kinh thành để thái y chẩn trị? Nhưng dẫu bệnh nặng, bà vẫn là thái hậu Đại Việt, vợ cả của vua, mẹ sinh ra hoàng thái tử sắp được tấn tôn, có lý nào lại bị đẩy về hành cung xa xôi như thế.
Tháng Ba năm nay, Hoàng thái tử Thuyên lên ngôi, Thái hậu Khâm Từ trở về dự lễ đăng cơ của con sau mấy tháng trời im hơi lặng tiếng. Thần sắc bà không được tốt lắm nhưng không có vẻ gì phải tính đến hậu sự như lời đồn. Sau đó bà lại về Lỗ Giang, Tú cũng chẳng nghe thêm tin tức gì về bà trừ vài tin vụn vặt về sức khỏe. Thật giả bây giờ càng thêm khó phân, một người ngoài cuộc như nàng làm sao hiểu hết nội tình của bậc tiền bối.
Thấy cháu gái nhăn nhó ngẫm nghĩ, Hưng Đạo đại vương tặc lưỡi:
– Bố cháu nói đúng, từ giờ phải năng nghe chuyện triều chính, không thì chẳng làm được trò trống gì đâu.
– Nhà mình... muốn cháu vào cung làm gì ạ? Đoạt sủng, nắm quyền, ngồi lên ngai hậu?
Ông cụ sửng sốt nhìn nàng, bất chợt bật cười khục khục đến mức vểnh cả râu lên:
– Trước mắt cháu cứ bình an, lo yên bề gia thất là nhà ta mừng lòng.
– Thì lại về đây giống cái Khuê, ông với bố chúng bay đủ sức nuôi chúng bay cả đời. – Nét cười trên gương mặt ông cụ dịu lại và hiền hậu. – Nhưng tạm thời cháu không bị gì đâu.
– Nếu cháu không còn, vậy Vạn Kiếp cũng không. Với thế cục hiện tại, hai vua phải làm sao?
– Thôi, mấy chuyện sâu xa ấy dần rồi hiểu. Cháu cứ biết cháu không đơn độc một mình là được. Vả lại trong cung còn cô út, có việc gì cần thì tìm cô út, nhé.
[1] Việc "Con cháu hoàng thất chớm lớn thường được gửi đi nhà họ hàng để học hỏi, có khi ở lại vài ngày, có khi vài tuần trăng hay tính bằng năm" là hư cấu.
[2] Vua Trần Anh tông có một Cung tần tên Trần Thị Thái Bình, được nhắc trong Toàn thư, nhưng không rõ xuất thân. Chi tiết Trần Thị Thái Bình là cháu của Chiêu Đạo vương là hư cấu.
[3] Việc Hưng Nhượng vương có thái ấp ở Bàng Hà, sau xin chuyển xuống làng Phúc Am hoàn toàn là hư cấu, dựa trên sự kiện năm 1284, vua Trần Nhân Tông sai Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Minh Hiến vương Trần Quốc Uất, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng và Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, nghe lệnh Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên (Toàn thư). Trong truyện, năm nhân vật Tú tám tuổi là năm 1286, tức là sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai năm 1285.
Bình luận
Chưa có bình luận