Chương 2: Chuyện Cũ Khôn Nguôi



Đoàn truyền chỉ đi vào sáng hôm sau, để một nữ học sĩ ở lại dạy cung quy. Học sĩ đã gần ba mươi, là người kinh thành, rất trọng lễ nghi và nghiêm khắc. Bà từng dạy chị Khuê trước lúc chị theo Vua, thuở ấy rất mến chị, giờ lại chẳng nhắc đến người học trò yêu quý nửa lời.

Tuy không nhắc nhưng bà thường ngầm có ý so sánh nàng với chị. Chị cả sáng dạ bao nhiêu thì nàng chậm chạp bấy nhiêu. Cung quy học mãi không thuộc, hỏi đến cầm kỳ thi họa mới hay sở học mười năm của nàng gần như trống rỗng, khiến bà đau đầu không thôi. Câu cửa miệng của bà mỗi ngày lên lớp là "Thế này làm sao vào cung? Thế này làm sao hầu quan gia?". Tú nhủ thầm, chị nàng thuộc làu sử sách, cầm kỳ thi họa không thứ gì không tinh thông, cuối cùng thế nào? Mãi đến một hôm, khi nữ học sĩ bảo ngâm bài "Chiếu lương sơ hữu tình" của Lý Thương Ẩn đời Đường, nàng lắp bắp không thuộc, bà lại phạt khẽ tay rồi chép thơ, nàng buột miệng lầm bầm:

– Đến giờ vẫn còn cầm kỳ thi họa cầm kỳ thi họa...

Học sĩ lạnh mặt ngắt lời nàng:

– Tôi không dạy cô hai cầm kỳ thi họa, tôi dạy cô hai những thứ mà Quan gia thích để hầu hạ ngài. Quan gia thích bài nào cô phải thuộc bài đó cho bằng được chứ?

"Chát!" Vừa nói bà vừa giáng thước xuống, lòng bàn tay trắng mềm của nàng chẳng mấy chốc đầy lằn thước đỏ. Tuy không đau lắm nhưng Tú vẫn không dám nhìn, nheo nheo mắt đáp:

– Không lẽ ngày nào Quan gia cũng đến bảo ta đọc thơ?

– Không riêng gì thơ! Làm sao cô biết chính xác hôm đó Quan gia muốn nghe đàn hay nghe ngâm thơ, muốn xem vẽ tranh hay chơi cờ vây, cờ tướng gì? Không học hết, đến khi cần thì lại bị trách phạt.

Lại một thước nữa giáng xuống, Tú xuýt xoa, cố tình nghĩ đến chuyện khác để dời sự chú ý đi. Người không may lần là Quan gia – Trần Thuyên.

Xét theo vai vế, Thuyên là anh họ của nàng. Bọn nàng biết nhau từ tấm bé, hễ gặp mặt là cãi nhau, nhẹ hơn thì nói kháy, nghịch bẩn, nghịch dại. Nàng không dám tưởng tượng đến cảnh đứa con trai lăn lộn tẩn nhau dưới bùn với mình năm xưa trở thành chồng mình, rồi cuộc trò chuyện giữa hai người sẽ từ nắm đấm biến thành gió trăng cảnh vẻ. Suốt quãng đời còn lại, nàng phải xem người con trai đó như bầu trời, như mặt đất. Ngày qua ngày, nàng phải vắt óc tìm cách lấy lòng chàng để giữ lại đường lui cho mình và vinh quang cho cả họ Vạn Kiếp.

Hốt nhiên nàng lại nghĩ đến chị. Lúc lấy chồng, lên kinh, có phải chị cũng lạ lẫm, tức cười, hốt hoảng và lạc lõng như nàng bây giờ không?

Trận phạt cuối cùng cũng kết thúc. Tú rùng mình rụt hai tay đỏ ửng ra sau lưng, vẫn còn cứng đầu bảo nữ học sĩ:

– Học sĩ thấy chị cả ta không? Chị ấy biết hết mà vẫn bị phế! Chính học sĩ còn nói không đoán được ý Quan gia, biết đâu giờ ngài ấy đã đổi ý rồi, không còn mê mấy bài mà học sĩ dạy ta nữa. Vậy thì học có ích gì?

"Rầm!" Lần này bà không đánh tay nàng mà dằn mạnh chiếc thước xuống án thư. Sách vở nảy lên, bút treo trên giá đung đưa khe khẽ. Tú ngẩng đầu, thấy lồng ngực bà phập phồng và đôi mày đang cau rất chặt. Bà không nói không rằng chất hết sách vở dạy học lên kệ rồi rời khỏi nhà trung đường một mạch. Ra đến cửa bà chợt quay lại, nói với Tú đang ngồi thất thần trên ghế:

– Cô hai đừng tưởng thế là hay! Cái tính cãi chày cãi cối mà không sửa đi thì vào cung chỉ có chết.

Cửa đóng sầm, Tú vẫn đang lặng người ngồi đó, xung quanh là những giá sách cao quá đầu đổ những chiếc bóng dài và lỗ chỗ ánh sáng xuống sàn nhà. Trong ánh sáng mờ mờ, hai bàn tay nàng lúc nhòe lúc rõ. Chúng nóng dần lên, kéo nàng về từ cảm giác bồng bềnh, hoang hoải như vừa sực tỉnh cơn mơ. Cảm giác buồn bã lạ lùng lại dồn dập xô về như sóng biển. Lồng ngực nặng trịch, người rã rời, uể oải. Nàng co chân, cúi rạp người ôm đầu gối, rồi ngồi thu lu như thế đến tận chiều.

Việc truyền đến tai Bảo Huệ quốc mẫu rất nhanh. Trước giờ cơm bà đến phòng tìm nàng nhưng phòng ốc im lìm, cửa nẻo đóng kín. Cả Quang Triều cũng không biết chị đi đâu, nghe mẹ hỏi thì xông xáo đi tìm khắp làng. Chạy từ lúc thưa nắng đến khi nhá nhem, từ làng Phúc Am sang tận làng Gầu Quang Triều đã mệt bở hơi tai, định bụng quay về thì thấy ngoài đồng hơn chục người túm tụm chắn hết lối đi, ồn ào chỉ trỏ. Dưới ruộng lúa nước ùng ục lõm bõm, hai bóng đen vần nhau tới tấp, tiếng đàn bà con gái la hét váng trời. Luồn lách qua đám đông, càng đến gần Quang Triều càng thấy rõ hai bóng đen kia. Là chị nó! Áo váy nàng xộc xệch đầy sình đất, một bên má sưng vều, mái tóc ngắn xổ tung rối bù bị một đứa con gái khác tóm lấy. Một tay nàng giật tóc đứa con gái kia, tay còn lại xô đánh túi bụi vào người cô ả. Vừa đánh nàng vừa thét:

– Mày nói gì? Nói lại xem!

Cô ả ngửa đầu né tránh, lúc này Quang Triều mới nhìn rõ, cô ả là cháu gái của Trung Thành vương [1] dạo này đang làm khách ở phủ mình. Lòng thầm hô toi rồi, thế nào bố cũng đánh chị, nó định kéo gia đinh vào ngăn thì nghe cô ả kia chanh chua đáp:

– Tao có nói sai đâu! Ngày xưa cướp vợ người ta, sau này vợ của con trai bị nẫng tay trên, giờ đến cháu cũng bị ruồng bỏ...

"Chát!" Tú giật ngửa đầu cô ả về sau giáng xuống một bạt tai. Nàng xỉ trán cô ả, hổn hển bảo:

– Cho mày nói lại lần nữa.

Cô ả cũng chẳng vừa, lồng lên hất tay nàng, chân còn loạng choạng đã nghển cổ câng câng:

– Con gái vương gia cũng là đàn bà. Đàn bà bị bỏ thì là cây độc không trái, lăng loàn trắc nết chứ lạ gì! Báo ứng cả đấy!

Tú lừ mắt toan lao lên, nhưng chưa kịp xô vào đứa con gái kia đã nghe tiếng Quang Triều hốt hoảng gọi giật lại. Nó lách người vừa chạy vừa bò xuống ruộng ôm lấy eo chị, òa lên nức nở:

– Chị ấy từ nhà Trung Thành vương sang, chị quên rồi đấy hả? Bố đánh chị chết mất! Về! Về...

– Về cái gì? – Tú giãy khỏi tay em, quát. – Không nghe nó nói à? Mày nghĩ bố dung cái loại đơm đặt này ở lại à?

Cô ả còn muốn tiếp tục nhưng đã bị thị nữ và gia đinh trong phủ kịp kéo lại can ngăn. Quang Triều vẫn ghì Tú lại, van lơn:

– Trời ơi! Mẹ biết chuyện chị với bà học sĩ trưa nay rồi, đang nổi cơn tam bành ở nhà. Giờ chị còn đánh nhau với chị ấy... Chị không về thì bố mẹ đốt rụi cái lộ Trường Yên này mất.

Lời Quang Triều như châm dầu vào lửa. Tú thở hổn hển, bụng bảo dạ hôm nay phải đánh đuổi đứa con gái này khỏi Trường Yên chứ chẳng kể gì phủ nhà mình. Nhưng nàng vừa sấn lên bọn thị nữ đã vội lao vào ôm nàng chặt đến khó thở, vừa ôm vừa vuốt giận, van xin. Nghĩ đến bố mẹ ở nhà, vả lại dù sao ả cũng là cháu gái Trung Thành vương, mà sau xích mích đời ông, mãi hai nhà mới hòa hoãn lại được, Tú đành bấm bụng ra về, hậm hực bỏ lại một câu:

– Liệu hồn đấy!

...

Quang Triều lẽo đẽo theo nàng quay về, đọc đường mấy lần muốn hỏi sao chị lại đánh nhau, rồi liệu bố có cho đứa con gái đó tiếp tục ở đây làm khách không, nhưng lại thôi. Nó sáu tuổi, tuy chữ nghĩa lờ mờ nhưng vẫn hiểu cô ả kia đang mắng cả họ nhà nó, phải là nó nó cũng cho cô ả biết tay.

Nhưng bố mẹ không giống nó và nàng. Không ngoài dự liệu, hai chị em vừa về đến đã thấy bố cầm roi mây ngồi chờ ở nhà trước, mặt mũi hầm hầm tức giận. Mẹ nó cũng không khá hơn, nhác thấy bóng hai người đã mắng oang oang:

– Chúng mày đi đâu mới về?

Đến khi cả người Tú đã rõ ràng dưới ánh đèn đuốc sáng trưng, người đầy bùn đất, đầu tóc như tổ quạ, mặt mũi lại xước mấy mẩu, bà hãi hùng kêu lên:

– Khiếp cái bọn trời đánh thánh đâm nào làm con tôi ra nông nỗi này? Trời ơi cái mặt thế này làm sao vào cung?

Hưng Nhượng vương nhíu mày:

– Đánh nhau à?

Tú chỉ gật đầu trả lời bố mà không hé nửa chữ về câu hỏi của mẹ. Thật ra mẹ nàng đâu cần câu trả lời! Cái bà cần bây giờ đoán chừng chỉ là nàng thuận lợi nhập cung thôi!

Nhìn gương mặt bướng bỉnh của cô con gái, Hưng Nhượng vương cắn răng bạnh chặt quai hàm, hất mạnh cằm chỉ vào sập ở gian bên:

– Cãi lời học sĩ, ra khỏi nhà không báo, tối muộn mới về, đánh nhau, tội đáng mấy roi?

Nàng không qua sập nằm sấp chờ ăn đòn như mọi khi, cứng cỏi đứng yên đó, ngang bướng trả lời:

– Bố muốn mấy thì mấy.

Tức thì ông sải bước đến gần quật ngay một roi vào sau người Tú. Nàng mím chặt môi, gồng cứng người, ông lại đánh thêm mấy roi nữa. Bà Bảo Huệ và Quang Triều hoảng hốt đến im thin thít, cả gian nhà chỉ có tiếng Hưng Nhượng vương ồm ồm giận dữ và tiếng roi mây vun vút. Tú không nhịn được nữa, ngã quỵ xuống đất. Nàng khàn giọng nói nhỏ, cuối cùng hét lên:

– Con không muốn vào cung! Con không muốn vào cung!

Dứt lời nàng bật khóc tức tưởi:

– Chị theo Quan gia từ hồi ở Đông cung, Quan gia vừa lên ngôi là phế chị ngay, sống chết đau bệnh thế nào không ai biết. Cả cái lý do rõ ràng cũng không có! Người ta đồn ầm ngoài kia kìa bố, nói chị ra nông nỗi đấy là quả báo của nhà mình. Bố biết ai nói không? Cái Thanh cháu ông Trung Thành đấy!

Ông ngỡ ngàng, vứt mạnh chiếc roi xuống đất, quát:

– Ăn nói xằng bậy mà mày cũng tin! Mày không vào cung để cả nhà gánh tội khi quân phỏng?

– Người ta đồn bậy, nhưng bố tưởng con không biết gì hết à? Tại sao không phải là chị họ con chú con bác mà lại là chị và con? Vì con là con của bố! Bố...

Tiếng bạt tai chát chúa vang lên cắt đứt lời nàng, nàng ôm mặt rưng rưng, môi bặm đến tím tái, nhìn bố chằm chằm. Bàn tay bỏng rát vì cái tát của Hưng Nhượng vương bấy giờ buông thõng, khe khẽ run. Ông nhìn tay mình, vô thức ngoảnh đi né tránh ánh mắt của con. Ông im lặng quá lâu, nàng mới nhắm mắt, sụt sịt nói:

– Giờ bố mẹ còn bắt con vào cung hầu hạ cái người gây ra mọi chuyện, khiến chị con nên nông nỗi này.

Giọng Hưng Nhượng vương nhỏ dần, đầy bất lực:

– Bố mẹ không muốn, bố mẹ cũng không bắt, mày phải hiểu đây là thánh chỉ! Hơn nữa,  người gây ra mọi chuyện đã chắc là Quan gia đâu...

***

Chú thích:

[1] Nhân vật thị Thanh, cháu gái của Trung Thành vương là nhân vật hư cấu. Các tình tiết liên quan đến nhân vật này cũng là hư cấu.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout