Cách kinh thành Thăng Long khoảng hai trăm dặm [1] về phía Đông Nam là lộ Trường Yên [2], có dòng Sào Khê như dải lụa đào vắt qua muôn trùng non nước. Cuối xuân, nước sông bắt đầu dâng cao nhưng chưa chảy xiết, là chốn "đắc địa" cho trò thủy chiến của bọn trẻ các làng. Một ngày cuối tháng Ba, nắng chưa lên quá ngọn tre, tiếng kẻng, tiếng chập cheng và tiếng con nít hò reo đã ầm ĩ một quãng sông vắng và hẹp. Liền sau đó, từng tiếng "ầm", "rào" trầm đục cùng tiếng bì bõm vang lên, bầy trâu to khỏe hai bên bờ thi nhau lao xuống nước.
Người đi đồng về ngang qua thấy cảnh ấy thì lắc đầu ngao ngán. Lạ gì cái lũ quỷ sứ làng Phúc Am và làng Gầu, suốt ngày đánh nhau vì ganh mấy chuyện con nít. Người cầm đầu lũ ấy là con trai Hưng Nhượng vương ở làng Phúc Am [3], Quang Triều. Thách cả cái thái ấp này tìm được đứa dân đen nào dám mắng mỏ hay mách bố nó. Gặp nó người ta chạy còn chẳng kịp, phải đi đường vòng vì sợ vạ lây. Nhưng cũng thách cả cái thái ấp này tìm được người trừng trị "tên đầu sỏ" ngay tại trận ngoài cô Tú chị nó, con gái thứ của Hưng Nhượng vương.
Nhắc đâu có đó, hình như người ta vừa thấy bóng cô Tú chạy vụt qua, hướng đến khúc sông ồn ào nọ. Quả nhiên ngay sau đó, họ nghe tiếng con nít hãi hùng hét toáng lên:
Tú xắn cao quần lội xuống sông, xách tai Quang Triều lên bờ. Nó kêu oai oái xin tha, cơn tam bành của nàng càng bùng lên, bèn quát:
- Tao tìm mày giáp làng, mày thì mới bảnh mắt đã ra đây tụ tập!
Quang Triều bỗng im bặt, không phải vì cái tin bố nó Hưng Nhượng vương vừa trên kinh về, mà vì bố về đột ngột vào sáng sớm, cái giờ mà đáng nhẽ vừa chầu vua xong, đức ông còn phải gặp mặt bạn hữu và anh em chốn kinh kỳ. Lần này bố lên kinh sái giấc để hỏi tin thăm tin tức chị cả, lẽ nào...
Trí óc của một đứa bé lên bảy còn quá non nớt để đoán ra tin này là xấu hay tốt, nhưng từ ánh mắt vừa giận dữ vừa lo lắng của chị, Quang Triều biết chuyện lần này phải nghiêm trọng lắm. Nó lén lút quay ra chào đám bạn rồi tiu nghỉu cúi đầu, lẽo đẽo theo chị về phủ.
Dọc đường về, Tú đưa Quang Triều cho gia đinh đi theo trông nom, không có tâm trạng đoái hoài bộ dáng như từ dưới bùn chui lên của nó. Nàng đi xăm xăm, mặt cắm về phía trước, trông có vẻ còn giận em trai nhưng thật ra đầu toàn nghĩ chuyện chị cả. Bố nàng Hưng Nhượng vương có bốn đứa con, thảy đều là con đích do mẹ nàng Bảo Huệ quốc mẫu thân sinh. Chị cả nàng tên Khuê, mùa xuân năm mười bảy tuổi được ban hôn cho Hoàng thái tử. Một năm sau, tức là xuân này, Hoàng thái tử lên ngôi, trở thành quan gia, phong cho Khuê làm Văn Đức phu nhân. Chưa đầy một tháng, đột nhiên có tin đồn Khuê phạm lỗi bị Vua phạt cấm túc, lỗi gì thì không ai biết [4].
Bố mẹ không nói chuyện gì đang xảy ra với chị, phủ Hưng Nhượng vương vẫn sinh hoạt bình thường, thậm chí còn mời cháu gái họ nội đến chơi, nhưng hai người cứ chạy vạy giữa kinh thành, Vạn Kiếp và thái ấp suốt thời gian qua. Lâu dần, trong làng nảy ra đủ thứ tin đồn về chị cả, nào là gặp chuyện không may, nào là bị thất sủng, nào là đồi phong bại tục. Người ta càng đồn càng hăng, đến mức không dập tắt được, trở thành cái tát giáng thẳng vào mặt cả nhà Vạn Kiếp. Giữa lúc này, bố nàng lên kinh hỏi thăm tin tức lần nữa, còn nhắn nhủ với cả nhà rằng không có tin thì không về.
Bố đi về mất hai ngày, giờ Tú không còn sốt sắng như trước, trái lại bất an đến mức chỉ muốn bịt tai trốn biệt vào xó. Càng về gần phủ, tảng đá trong lồng ngực nàng càng nặng, ghì chân nàng lại, ghim xuống ngay trước cửa.
Quang Triều rón rén đến bên cạnh lắc lắc tay chị. Tú nhìn nó định nói gì đó, chợt nghe tiếng thút thít từ trong nhà vọng ra. Bố mẹ nàng đang ngồi ở trường kỷ trước sảnh nhà, mẹ mím chặt môi, mặt đỏ bừng, giàn giụa nước mắt. Bố nàng còn nguyên áo mão cân đai ngồi đối diện, tay chống lên trán, giọng trầm tư:
Hưng Nhượng vương vừa tức vừa thương mà không làm gì được, đứng phắt dậy đi qua đi lại, thở dài thườn thượt. Bấy giờ Quang Triều nhân lúc bố quay mặt đi thì chạy tót vào nhà, nhưng vẫn bị bố bắt gặp, quát:
- Đi đâu về đấy? Người không ra người ngợm không ra ngợm! Chị mày đâu?
Nó đứng sững như trời trồng trước sân, lấm lét ngó sang Tú đang chậm chạp bước vào. Nàng liếm đôi môi khô khốc, nuốt khan, vừa nhanh tay đẩy em trai cho người hầu tắm rửa vừa dè dặt hỏi:
Nhắc đến con gái cả, cơn giận của Hưng Nhượng vương chùng xuống, điệu muốn nói lại thôi. Thình lình, tiếng nấc lớn của bà Bảo Huệ làm hai cha con quay sang nhìn. Bà đón ánh mắt nghiêm khắc của chồng, nguýt đi, sụt sịt. Tú khó hiểu cười gượng:
- Sao thế bố mẹ? Chưa có tin chị con à? Vừa nãy bố mẹ nói định bảo con chuyện gì mà.
Hưng Nhượng vương lắc đầu rồi lại gật đầu, ra hiệu cho Tú tìm chỗ ngồi, chần chừ nói:
Giọng ông không cao không thấp, không giống câu hỏi hay lời đề nghị, cũng không đủ sức nặng để thành mệnh lệnh. Nàng đan hai tay vào nhau, siết chặt, vừa quan sát bố mẹ vừa ướm hỏi:
- Chị bảo con vào chơi cùng mấy hôm ạ, hay là bác cả và cô út muốn con vào hầu chuyện?
Tú bật thốt, nụ cười tắt ngấm. Điếng người mất một lúc nàng mới kéo được hồn vía từ chín tầng mây về nhưng giọng nói vẫn run rẩy:
- Còn chị thì sao bố? Con nhớ lúc trước bố mẹ không để con bồi giá theo chị... Mới đầu năm chị còn bảo với mẹ sẽ chọn mối cho con, giờ sao tự nhiên... Sao thế ạ? Chị cả còn chưa có tin, nhà mình phải tính sao?
Nàng nhìn mẹ, mẹ vẫn vùi mặt vào tay khóc lóc. Nàng nhìn bố, bố chỉ rầu rĩ tặc lưỡi, lảng tránh ánh mắt hoài nghi của nàng. Ông buồn rầu kể lại chuyện sớm nay khi yết kiến Quan gia, chàng không giải thích nhiều, chỉ bảo muốn nạp con gái thứ của ông vào cung và rằng: "Ý của Thượng hoàng là ý của trẫm. Còn chuyện trẫm với cô cả Khuê là chuyện vợ chồng trong nhà, không tiện tỏ bày cặn kẽ với vương."
Hưng Nhượng vương siết chặt nắm tay, giọng kìm nén: "Thưa vâng. Nhưng ít ra thần nên được biết sau này con bé ra sao chứ ạ?"
"Còn Văn Đức... Trẫm sẽ truyền chỉ phế vị của nàng, nàng đi đâu thì sắp xếp sau." Chàng quay đi, áy náy thở dài, đoạn sai người tiễn Vương ra về.
Hồi ức của Vương kết thúc bằng tiếng thút thít đầy kìm nén của bà Bảo Huệ. Ngồi cạnh mẹ, Tú rệu rã ngả người ra ghế, hai tay buông thõng trên đùi, thất thần không nói lời nào. Rõ ràng hồi Quan gia và chị thành hôn, cả Thượng hoàng, Thái hậu, Thái phi đều tỏ ra hài lòng, mãn nguyện. Rõ ràng suốt một năm nay chị đã khiêm cung giữ phận, tiếng thơm đồn xa, càng không nghe giữa hai vợ chồng có gì xích mích. Chiếc ghế hoàng hậu đã được nhắm cho chị từ bé, mới rồi còn ngay tầm tay với, ai ngờ nháy mắt đã trở thành giấc mơ hoang đường. Hoang đường hơn cả là người ấy tuyên nàng vào cung ngay sau khi phế chị để nàng thay thế chị, hoặc thậm chí là trở thành một phi tần khác, giống như Văn Đức phu nhân.
Thiều quang chín chục còn chưa qua, người Tú đã rét lạnh. Lệnh vua là mệnh trời, từ thái độ của bố mẹ, việc nàng vào cung là chắc chắn. Cả chị lẫn nàng đều không có đường lui.
Thánh chỉ đến phủ Hưng Nhượng vương vào một ngày trời nồm nhạt nắng. Quan hành khiển truyền chỉ đi ngựa đã mấy ngày đường, người đầy gió bụi, mồ hôi nhễ nhại nhưng sợ lỡ giờ lành nên không dám nghỉ ngơi quá lâu. Bấy giờ ngồi ở chiếu khách nhà trước của phủ Hưng Nhượng vương, y dỏng tai nghe đồng hồ nước, chốc chốc lại ngóng ra ngoài hiên. Bà Bảo Huệ nhìn thoáng qua chồng, nói bâng quơ:
Đoạn bà quay sang Quang Triều đang ngồi một mình trên sập thấp, nhỏ giọng dặn:
- Vào xem chị con đến đâu rồi, rề rà nữa thì muộn giờ quan đọc chỉ.
Quang Triều vâng dạ, vừa buông một chân xuống sập đã thấy Tú đang đi tới ngoài hiên. Nàng mặc áo váy tối màu, trừ đôi mày hơi chau thì thần sắc bình thường, trông không có vẻ gì là bệnh tật. Vái chào bố mẹ và quan hành khiển xong, nàng lên sập ngồi cạnh Quang Triều. Còn hai khắc nữa mới đến lúc đọc chỉ, vợ chồng vương và quan hành khiển trò chuyện đôi câu. Quan hành khiển [5] là một nội thị tuổi luống ba mươi, mặt mày sáng sủa hồng hào, thái độ khiêm cung, chỉ có giọng nói không trầm không bổng lạ tai. Khi đã đẩy đưa gần một khắc, Hưng Nhượng vương chợt ngoắc tay với quan hành khiển, người rướn về trước, hỏi nhỏ:
- Ông là hành khiển cung Quan Triều, chẳng hay có biết thánh chỉ phế truất Văn Đức phu nhân hay không?
- À, chuyện cô cả Khuê đấy ạ... - Y thở dài. - Bầy tôi không dám tọc mạch lời vua, chỉ cả gan nói với đức ông rằng hai vua nhân từ, thánh ân mênh mông, giờ cô cả vẫn bình an khỏe mạnh.
Tú nghe vậy thì ngoảnh mặt nhìn Quang Triều, nhún vai, bĩu môi. Thằng bé chỗ hiểu chỗ không, trông điệu bộ chị khoa trương thì bật cười khúc khích. Quốc mẫu hắng giọng lừ mắt, nó rụt cổ, ngồi ngay ngắn nhưng thỉnh thoảng lại bật ra tiếng khục khặc, vẻ tức cười trên mặt hồi lâu mới tan.
Đến giờ, quan hành khiển húng hắng ho, hạ giọng cho oai nghiêm rồi mới giở thánh chỉ ra đọc. Thánh chỉ toàn lời khen tặng, câu nào câu nấy như dát vàng nạm ngọc, nhưng thỉnh thoảng cái giọng ra vẻ oai nghiêm của y lại lạc đi, méo mó, nghe đến là ngộ. Phải đến khi y hô "Kính thay" thật to Tú mới giật mình dập đầu nhận chỉ. Nàng nhìn cuộn lụa thêu chỉ vàng trong tay, người chợt bần thần, nao nao, tâm trạng săm soi quan hành khiển không còn, người xung quanh trò chuyện cũng chẳng lọt tai nổi.
[1] Hai trăm năm mươi dặm tức khoảng 92km (theo Từ điển tiếng Việt, 1 dặm = 444,4m). Đây là con số ước tính của tác giả theo bản đồ hiện na khi đối chiếu với Đại Nam nhất thống chí, nhưng không phải con số chính xác.
[3] Làng Phúc Am xưa thuộc tổng Yên Đăng, huyện Yên Khánh, phủ Yên Khánh. Thông tin này và việc thái ấp của Hưng Nhượng vương ở làng Phúc Am được tham khảo trong bài viết "CHÙA ĐẨU LONG - Phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình" trên website Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình ().
[4] Toàn thư chỉ chép việc phế Văn Đức phu nhân, đưa em gái Văn Đức vào thay, phong là Thánh Tư phu nhân vào tháng Ba và Tư năm 1293. Các tình tiết khác về sự kiện này trong truyện đều là hư cấu.
[5] Hành khiển là chức quan thuộc Hành khiển Tả ty (thuộc cung Quan Triều của Quan gia) hoặc Hành khiển Hữu ty (thuộc cung Thánh Từ của Thượng hoàng). Các chức quan này thường dùng vào việc tuyên sắc chỉ (tham khảo Từ điển chức quan Việt Nam và Trùng Hưng thuở ấy).
Bình luận
Chưa có bình luận