Những chuyện kì quái



Ông Chín nằm trên giường thêm độ nửa tiếng, chắc mẩm vợ con đã đi xa, mới ngồi dậy xỏ dép, thủng thẳng đi ra vườn. Ổng hết lấy cớ này tới cớ nọ, đuổi hết kẻ ăn người ở ra xa, một mình một gậy đi vào giữa vườn trái cây. Rồi cũng từ dạo đó, một tháng cũng có mấy ngày ông nhân lúc vợ con vắng nhà, thay Hai Kỳ ra ngoài chòi canh cây trái thay cho nó. Còn bà Chín mỗi bận đi xa về, thể nào cũng gặp ác mộng hai ba ngày, bà ăn không ngon ngủ không yên một thời gian dài, cả người cũng héo queo héo quắc, tới mức ai dòm cũng quở.

Ông bà Chín là vợ chồng già, ổng còn đương độ sung mãn mà bả đã hết hứng thú nên ổng đã sớm chán vợ mình tới cổ, nghe bả than thở cũng coi như không nghe, lựa lời lấp liếm cho qua rồi đâu lại vào đó, lấy hết cớ này tới cớ nọ để chôn chân trong nhà, việc mần ăn bỏ phế hết cho vợ con muốn làm gì thì làm. Cậu Hai Kỳ cũng vì mệt nhọc quá độ, người càng ngày càng xơ xác.

Lâu dần bà Chín sinh nghi, linh tính đàn bà mách bảo cho bà biết là trong nhà có chuyện chẳng lành, nhân lúc Hai Kỳ không để ý, tới bữa cơm len lén đi sau thằng con ra vườn đặng ngó coi. Trước mặt ông bà, cậu Kỳ lúc nào mặt mày cũng rầu rầu không vui như có bệnh, lúc này vừa ăn vừa cười phớ lớ, lâu lâu gắp vào miếng đồ ăn bỏ vô cái chén đối diện. Mà bà có thấy ai đâu? Còn thêm ông chồng gần đây ham ăn biếng làm, mặt mày phơi phới, nói không có sự lạ thì bà đi đầu xuống đất.

Bà trằn trọc lăn tới lăn lui cả đêm không ngủ được, bụng dạ cứ bồn chồn. Không biết là giờ nào mà con gà trống nuôi sau nhà gáy tiếng một, tiếng ngáy o o bên tai bà im bặt ngay sau đó. Bà nghe người bên cạnh trở mình bật dậy bước xuống giường, đến guốc cũng không mang, mở cửa phòng rồi mấy lớp cửa nhà, đi thẳng ra sân. Bà len lén chạy theo ông nghe tiếng cửa keo kẽo cất lên trong bóng tối mà tim đập thình thình như sắp vọt lên cổ họng. Nhoáng một cái, ông Chín đã biến đâu mất tăm, bà Chín hoang mang dáo dác kiếm chồng trong bóng tối, nhưng dù cho bà có cố thế nào thì ổng cũng như bốc hơi, không thấy người chỉ nghe từ phía vườn thơm có tiếng ai hát lên đồng chập chờn trong gió:

Một may cho mắt khỏi nhìn

Hai khâu tai khỏi nghe mình kêu đau

Ba may mũi để cho giàu

Bốn khâu năm vá môi đào chân tay

Chỉ hồng vá mắt khâu mày

Biến tao thành quỷ tháng ngày than van

Bao năm trăng lặn trăng tàn

Bao năm bây đã giàu sang vô cùng

Máu tao bây uống bằng chung

Thịt tao bây lại nhắm cùng rượu ngon…

Trù bây chết mẹ lìa con

Trù bây cả họ không còn một ai…

Bà Chín thấy máu mình đông cứng, mắt trợn tròng, khóe môi giật giật, bả ôm tai, quỳ mọp xuống đất, bả thấy mình hèn mọn cầu xin nhưng không có ai trả lời, chỉ có tiếng cười ma quái từ bốn phương tám hướng truyền về.

Bà hét lên, mồ hôi đổ ướt gối nằm. Tới khi thằng quý tử đạp cửa lao vô phòng, bà mới hoàn hồn nhận ra mình lại nằm mơ. Chưa kịp thở phào thì tay đã quơ trúng một cái lá bưởi còn dính bùn đất nằm ngay trên chiếu, bà la hoảng lần hai, ôm cứng thằng con mà run như cầy sấy.

Hai Kỳ lựa lời an ủi, kêu người ở đem nước vô cho bà rửa mặt rồi dặn bà nghỉ ngơi, sau đó mới đi ra tiệm. Còn về lời của má thì cậu xem như gió thoảng mây bay, trong bụng rõ ràng mười mươi là má biết chuyện cậu làm, bà không thích cô Ba nên mới kiếm cớ ma quỷ để đuổi người.

Bà Chín bất lực nhìn thằng quý tử đi xa, nằm vật xuống giường, cả người xụi lơ. Nghĩ kĩ, từ thời điểm ông Chín gặp nạn ong xong tỉnh lại, bả vẫn thấy trong nhà có gì khang khác, từ cái bàn thờ gỗ quý tự dưng bị khói ám đen chỉ sau một đêm tới chuyện con gà con vịt nuôi trong nhà đôi ba bữa lại lăn ra chết một bầy, ngay cả mấy con chó Tây quan cho mọi khi khôn lanh mà dạo gần đây cũng thường lên cơn, hung hăng cắn người thì thôi, đôi ba bữa tới nửa đêm lại thi nhau sủa tiếng một. Chỉ là việc bán buôn bận rộn, ông Chín với Hai Kỳ cứ chối bay chối biến, hai người cùng nói không có chuyện bất thường nên bà còn tưởng mình lo lắng quá độ nên không truy tới cùng.

Bây giờ mới thấy sợ, càng chắc rằng con mình đi tỉnh về bị thứ không sạch bám theo, thứ đó ám nó, rồi ám tới chồng bà, nếu cứ để vậy không màng thì gia đình này chết chắc. Nhưng có cái gương quỷ ám của ông chồng trước mắt, bà cũng không dám ra vườn dòm ngó hay nói gì đánh động tới nó, chỉ âm thầm sai người đi tìm thầy về trấn yểm. Người đầu tiên bà nhớ tới là ông thầy pháp đã thi phép cho nhà bà năm xưa, vất vả tìm tới nơi mới hay ổng mới vừa thăng thiên cách chừng hơn tháng. Bắt đắc dĩ, bà phải bí mật đánh tiếng cho người quen, nhờ tìm giúp thầy bà cao tay về làm việc giúp mình.

Đâu tầm bảy ngày sau, người nhà thay bà thỉnh được thầy Năm Cô Hồn ở tỉnh kế bên, thầy ngó chừng hơn sáu chục tuổi, dáng người quắc thước đĩnh đạc, râu tóc bạc hết, nổi tiếng xưa nay là một tay trừ yêu ma quỷ quái nứt danh, không có quỷ có yêu nào thoát được tay thầy. Bà Hai nhìn dáng vẻ tiên phong đạo cốt trước mắt, nghĩ thầm cũng phải, chớ thầy bùa thầy ngãi mà làm không lại thì quỷ nó vật trào hèm, chớ có đâu thọ vậy, bởi vậy bà Chín tiếp thầy chu đáo hơn cả tiếp quan Tây ở tỉnh về. Vừa lúc chồng con đều có nhà, bà định bụng để cho thầy Năm làm phép cứu họ luôn một lượt.

Ông Chín ban đầu khó chịu ra mặt, nhưng khi nghe thầy phán mình bị quỷ ám lâu ngày, ấn đường đã xám đen, nếu không cứu chỉ còn đường chết thì ổng sợ, chắp tay vái thầy lia lịa như bửa củi, hứa hẹn tiền vàng đủ thứ. Chỉ có cậu Hai Kỳ là sa sầm mặt mũi, bỏ vô buồng nằm, tỏ ý không tin, cũng không thèm đếm xỉa.

Thầy cũng kiệm lời, gật đầu chào hỏi chủ nhà xong thì cầm kiếm Thất Tinh được ghép lại từ mớ tiền xu với chỉ đỏ dẫn theo mấy thằng đệ tử đi vòng vòng. Ngoài ý muốn của bà Chín, không chỉ riêng cái vườn trái cây của nhà mà thầy đi đến đâu mặt mày khó coi tới đó, nhất là ở những chỗ góc đất, góc nhà, mặt thầy hết đỏ lại đen, rồi sầm sầm nghén răng keo kẽo, mỗi lần thầy đen mặt thì tim gan của ông bà Chín cũng muốn treo ngược lên cây, đưa mắt nhìn nhau, lòng bồn chồn như kiến bò chảo nóng. Bởi hơn ai hết, họ biết rõ cái gì được chôn dưới ba tấc đất ở những chỗ đó.

Thầy Năm Cô Hồn dừng lại trước phòng cậu Kỳ, cây kiếm trong tay rung lên bần bật, trời đứng gió mà râu tóc thầy như có người quạt, bay tứ tung. Cái nón đạo đang đội trên đầu cũng vèo một phát bay ra giữa cái ao ngoài sân rồi chìm nghỉm, lá bùa vàng kẹp giữa hai ngón tay không ai đốt tự dưng bốc cháy dữ dội. Thầy Năm nheo mắt, gằng giọng nói thầm hai chữ “oan nghiệt” rồi phất đạo bào, quay đầu muốn bỏ đi.

Ông bà Chín thấy cảnh li kì, lại thấy thầy Năm dự định thấy chết không cứu nên không màng người ăn kẻ ở trong nhà đang hàng hàng lớp lớp đứng nhìn, quỳ xuống lạy thầy Năm như tế sao. Thầy nghe xong chỉ nhìn, không nói. Nhưng người đứng gần thính tai nghe được tiếng thở dài, trong bụng thầm hiểu phen này khó cứu. Có người sợ, cũng có người dửng dưng coi thường, người không tin, kẻ lại tin nhưng thấy chuyện cũng có liên quan gì tới mình đâu mà phải sợ.

Họ thấy thầy Năm bị vợ chồng bà Chín níu níu kéo kéo, rồi nghe ổng mắng nhiếc họ cái gì đó với vẻ mặt rất tức giận. Hai ông bà bình thường mắt cao hơn đầu, lúc nào cũng trịch thượng bây giờ lại cun cút vâng lời, hèn mọn không sao tin được. Hai bên giằng co hết nửa ngày, cuối cùng thầy Năm chịu thua, lại cầm kiếm đi tới trước cửa phòng cậu Hai.

Cánh cửa gỗ chạm cảnh liễu nguyệt bị đẩy ra, căn phòng mọi khi vẫn thường có người lui kẻ tới, không ai thấy sự lạ kì gì lúc này lại như bị người đặt thêm bên trong một tảng nước đá, hàn khí âm u phả ra khiến người ta không rét mà run. Mấy thằng làm công cho nhà ông bà Chín lúc nãy còn hiếu kì đứng trên, lúc này không ai nói ai câu nào đều lui hết về sau, cách xa cửa phòng mấy thước.

Thầy Năm Cô Hồn sắc mặt nghiêm trọng, cầm kiếm đi vào bên trong, kiếm thất tinh trong tay thầy lần nữa rung bần bật, ông bà Chín nín thở theo sát phía sau. Căn phòng này đích thân bà Chín chọn lựa kĩ càng từng cái bàn cái ghế, cho tới tranh thư pháp treo tường, sau này cậu Hai học trường Tây trên tỉnh về lại đem thêm không ít đồ chơi lạ nhưng trong ngoài đều mang vẻ sáng sủa, tươi mới. Còn bây giờ, tuy bài trí không có gì thay đổi nhưng lại u ám lạ lùng. Hai Kỳ là người ưa sạch sẽ nhưng trong phòng lúc này chuột gián lại trơ tráo bò láng đất láng tường, thấy người cũng không thèm bỏ chạy, tụi nó tụm năm tụm ba kêu lích chích, lại vì tranh giành thức ăn mà lao vào xâu xé lẫn nhau. Cảnh tượng trước mắt khiến cho bà Chín ói ra mật vàng. Đám chuột vừa thấy, mắt đã sáng rỡ, hăng hái lao tới ngấu nghiến bãi ói làm cho bả hoảng hồn hét toáng lên. Âm thanh chói tai làm lũ gián trong phòng giật mình bay tán toạn, thầy Năm xám mặt vung kiếm, lửa cháy giữa không trung đem tụi nó đốt sạch, cháy đến tro cũng không còn.

Ông bà Chín xanh mặt, lảo đảo muốn té nhưng nhớ tới đám chuột đầy nhà lại cắn răng đứng vững, không dám hó hé nửa lời. Họ càng đi về hướng giường ngủ thì rung động trên thân kiếm càng mãnh liệt, đến nỗi hai tay thầy Năm đều tấy đỏ, nổi gân xanh, chân mày thầy gần như dán chặt vào nhau, nghiến từng chữ qua kẽ răng:

- Âm khí và oán khí tích tụ nhiều nhất là ở chỗ này, ẩn ẩn còn chứa đựng sát khí, phen này…

Vợ chồng bà Chín sợ sệt nhìn nhau. Họ nhớ rõ năm xưa nghe lời lão thầy pháp đem những bộ phận được khâu vá kĩ càng bằng chỉ đỏ của Hồng Nương chia ra chôn xuống những chỗ cố định trong nhà để làm trận phép tụ tài tụ phúc. Tứ chi chôn ở bốn góc vườn, bà Chín muốn có con trai nên đã đem hạ thân Hồng Nương chôn dưới phòng ngủ của hai ông bà, thượng thân đem trấn dưới phòng khách, riêng phần thủ cấp thì chôn dưới phần đất bây giờ là phòng ngủ của cậu Hai, mục đích là cầu cho đứa con họ sinh ra sẽ thông minh sáng dạ, tài giỏi hơn người. Không lẽ vì vậy mà những thứ dơ bẩn mới tụ đến chốn này? Nói vậy không phải thằng quý tử của bà cầm chắc cái chết hay sao? Bà Chín níu áo thầy Năm, khóc không ra nước mắt:

- Không phải… không phải đây là trận phép tụ tài tụ phúc sao thầy? Sao lại… sao lại tích tụ âm khí oán khí, rồi còn sát khí? Rõ ràng… rõ ràng ngày xưa cái ông thầy pháp đó đã nói là không hại gì. Cho nên… cho nên nếu con biết ra cớ sự này, con đâu dám…

Thầy Năm hung tợn trừng mắt nhìn bà Chín, trầm giọng quở trách:

- Giàu nghèo là số, người ta dùng đức thắng số, còn tụi bây vì ham mê giàu sang phú quý mà phạm phép trời, hại mạng người còn muốn ngồi không hưởng phước? Người chết thảm, oán khí nặng nề, chưa kể trước khi chết… - thầy Năm nheo mắt liếc ông Chín, quái gở nói tiếp - vật tế đã không còn nguyên vẹn thì làm sao phép có thể trọn thành? Tài, vận, mệnh, phúc, hỉ sau hai mươi năm đã hóa thành nộ, oán, hận, bi, sát. Đừng nghĩ họa từ ngoài tới, họa từ chính các người mà ra.

Bà Chín thỏng tay buông áo thầy Năm, tuyệt vọng giải thích:

- Thầy ơi, năm đó tụi con vì tham cuồng ngu muội mới ra tay làm bậy, tụi con biết lỗi rồi, hai chục năm nay tiền kiếm được đem đi bố thí, cúng cho chùa chiềng miếu mạo không biết bao nhiêu mà kể, thầy không tin có thể đi hỏi dân xứ này. Thầy nể tình vợ chồng con sai biết sửa, cứu vớt tụi con lần này đi thầy, con van thầy, con lạy thầy… còn thằng Hai, thằng Hai nó không biết gì, thầy cứu nó đi thầy…

Thầy Năm lắc đầu thở dài, cũng không nói gì nữa mà lấy thêm một lá bùa kẹp ở hai đầu ngón tay, vừa tiến vào bên trong vừa lầm thầm niệm phép.

- Người chết như đèn tắt, ác quỷ hôn ma sao còn chưa siêu thoát đầu thai, còn vấn vươn nhân thế hại thân hại người, ma quỷ ở đâu, còn không mau mau xuất hiện…

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout