Tư liệu tham khảo:
Đại Việt sử ký toàn thư - Nhiều tác giả
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục - Quốc sử quán triều Nguyễn
Đại Nam quốc sử diễn ca - Lê Ngô Cát
An Nam chí lược - Lê Tắc
Binh thư yếu lược - Trần Quốc Tuấn
Truyện “Bên bờ Thiên Mạc” - Hà Ân
Đoạn trích “Bóp nát quả cam” - Nguyễn Huy Tưởng
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13 - Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/83051)
Giới thiệu:
Ý tưởng chính lấy cảm hứng từ hình tượng Trưng Trắc, Trưng Nhị cùng hai câu thơ:
“Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.”
Gia đình ông quan tri huyện Phạm Đình Thạch ở Thanh Liêm, châu Lý Nhân (1) vốn thuộc dòng dõi võ tướng, có công lớn từ thời vua Trần Thái Tông. Qua vài lần cơ duyên đưa đẩy, ông và vợ trở thành chỗ thân cận với Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng (2). Được sự giúp đỡ tận tình của chàng, ông Thạch đã cùng chàng đến tìm gặp giáo thụ Lê Tần (3), nhờ thầy chỉ dạy, bảo ban ái nữ nhà mình khi gửi nàng lên kinh đô học chữ.
Phạm Đình Thư, con gái duy nhất của ông tri huyện, là một thiếu nữ xinh đẹp nhưng tính tình cổ quái. Lên bảy tuổi, vì đem lòng ngưỡng mộ Hai Bà Trưng năm xưa dẹp yên nhà Hán, lại có chí khí sánh ngang với đấng nam nhi, nàng tiểu thư này ngoài việc học tập kinh sách còn rất hăng hái rèn luyện võ nghệ, những mong khi thành tài sẽ được cất nhắc gia nhập đội quân Thánh Dực Dũng Nghĩa (4).
Năm 1285, quân Nguyên - Mông phát động tấn công vào Đại Việt lần thứ hai. Dưới sự dẫn dắt của vua tôi nhà Trần cùng các tướng lĩnh tài ba như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… nhân dân cả nước đã chung sức đồng lòng, tiếp tục đứng lên chống giặc ngoại xâm. Mang theo tinh thần quật cường, ý chí sắt đá và lòng yêu nước không gì lay chuyển, những chiến binh nhà Trần từ khắp các mặt trận, bất kể già hay trẻ, gái hay trai, đều không tiếc thân mình xông pha chiến trường, quyết tâm bảo vệ non sông.
Đứng trước đại cục của đất nước, rốt cuộc nàng Thư cũng tìm thấy cho mình một cơ hội.
Chú thích:
1, Thanh Liêm, châu Lý Nhân: Châu Lý Nhân gồm 6 huyện: Thanh Liêm (Thanh Liêm hiện nay), Bình Lục (Bình Lục hiện nay), Cổ Bảng (Kim Bảng hiện nay), Cổ Lễ (một phần Lý Nhân), Lý Nhân (Lý Nhân hiện nay), Cổ Giả (một phần Lý Nhân hiện nay). Địa danh nhắc trong truyện cũng là quê hương của danh tướng Trần Bình Trọng.
2, Theo thiết lập truyện, gia đình tri huyện là đồng hương, có mối giao tình sâu đậm với vị tướng này.
3, Lê Tần: hay Lê Phụ Trần, là một danh tướng thời Trần, giữ chức Ngự sử trung tướng tri Tam ty viện sự, sử sách không ghi chép cụ thể về năm sinh, năm mất của ông.
4, Thánh Dực Dũng Nghĩa: nhiều ghi chép cho biết họ là những người không gốc gác, mồ côi, cùng đinh, bần cùng trong xã hội. Trong đạo quân này còn có những người từng là trộm cướp, tội phạm vì lý do nghèo khó. Họ được triều đình trưng dụng, đào tạo, cấp bổng lộc ngang bằng với cấm quân (Thánh Dực quân). Là đội quân thiện chiến, một phần do Trần Bình Trọng chỉ huy.
Lưu ý:
Truyện viết hư cấu dựa trên việc tổng hợp và dung hòa thông tin từ nhiều nguồn sử liệu thông dụng, uy tín khác nhau. Các tình huống phần lớn là giả tưởng, đã được sắp xếp, sáng tạo và hình tượng hóa nhiều lần. Dòng thời gian trong truyện đi theo mốc được chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục”, ngoài ra có tham khảo thêm từ các trang tin, báo chí chính thống do Nhà nước công nhận. Truyện là sản phẩm kết hợp của trí tưởng tượng và tinh thần yêu nước, không phải tài liệu nghiên cứu, không có giá trị tham khảo như một nguồn tư liệu. Nếu có sai sót, rất mong sẽ nhận được sự góp ý từ quý độc giả để tác phẩm được hoàn thiện hơn! Xin chân thành cảm ơn mọi người!
I, Thư
Tháng Mười, tiết trời đương độ thu phân. Từ mạn Đông Bắc, gió heo may chầm chậm thổi tới, xua bóng mây ngàn đổ xuống dòng Lục Đầu Giang [1]. Trên bến Bình Than [2], màu nắng của thu đã phai nhạt dần.
Đứng ngấp nghé gần bờ sông, Đình Thư hơi cúi người, tay cầm ngọn lau nhúng vào mặt nước đục ngầu, đôi mắt to tròn khẽ chớp. Được một lát, nàng nhấc tà váy, cất bước chạy lại chỗ cậu thiếu niên đang nằm vắt chân chữ ngũ trên bãi cỏ, cười phá lên:
“Triều rút rồi, anh Toản ơi!”
Nghe tiếng gọi, thiếu niên ấy chống tay đứng dậy, phóng tầm mắt ra xa. Khoảnh khắc trông thấy từng đợt sóng nước mênh mang kéo nhau về phía đường chân trời, đôi mắt cậu lập tức sáng rực, sáng còn hơn mặt trời ban trưa:
“Rút rồi, thế là chú sắp về đấy.”
Rồi hai đứa nhấm nháy nhìn nhau cười, vẻ tinh quái hiện trên mặt chúng khiến mấy tay lính gác đằng sau sợ toát mồ hôi. Linh cảm có điềm chẳng lành, một gã lẩm nhẩm trong miệng:
“Đừng gây chuyện, xin đừng gây chuyện gì nữa…”
Thấy gã vậy, ba gã bên cạnh cũng khấn trời theo. Không phải ngẫu nhiên, bọn họ bị đích thân tướng quân cử ra đây trực bến. Lúc trước, ở thành Thăng Long, văn võ bá quan ai cũng từng vài lần bắt gặp cảnh công chúa Thụy Bảo tất tả chạy đi “lùa” hai đứa trẻ này. Chúng thường chơi chung với lũ trẻ được Hưng Đạo vương nhận nuôi - toàn nhân tài song đứa nào đứa nấy nghịch như quỷ!
Mấy gã không nhớ tên đứa con gái, nhưng thằng nhóc... à không, phải là vị Hoài Văn hầu tên Trần Quốc Toản kia vừa mới sáng nay suýt gây đại họa: giữa lúc bề trên luận bàn chính sự, chẳng hiểu cậu ta ăn gan hùm ở đâu mà dám liều mạng chạy đến xô xát với quân cấm vệ, sau lao ra mũi thuyền rồng đòi bệ kiến.
“Cho giặc mượn đường là mất nước, mong Quan gia minh xét!” [3]
Hình như, Toản đã nói vậy trước bậc cửu ngũ chí tôn. Hành động của cậu hết sức bốc đồng, lẽ thường phải bị trừng trị theo đúng phép nước. May mắn thay, Quan gia khi biết được tâm ý của Toản liền có lời ngợi khen, tha cho lần này [4]. Sau đó, dù không phủ nhận tài năng của Toản, nhưng trong mắt mọi người, bao gồm cả đám lính gác, Hoài Văn hầu vẫn còn quá nhỏ để can dự chuyện lớn.
“Phải chi cậu ta trầm tính được như Hoài Nhân vương thì hay rồi.” Mấy gã lắc đầu ngao ngán, nghĩ đến tình cảnh trước mắt chỉ đành buông một tiếng thở dài. Ngày hôm nay, Quan gia cho vời đủ vương hầu tôn thất cùng trăm quan đến Lục Đầu Giang chính là để bàn kế sách đối phó với lũ giặc Nguyên. Lính canh phòng bọn họ theo xa giá về đây, ngoài việc hộ tống Quan gia còn giúp tăng cường thêm lực lượng vào hàng ngũ cấm quân bố trí dọc các bến thuyền, đảm bảo hội nghị trên sông diễn ra an toàn, bí mật tuyệt đối. Mấy gã ban đầu được phân gác ở vũng Trần Xá [5]. Sau vụ ẩu đả với Hoài Văn hầu, họ phải chuyển sang canh chừng cậu ta ở bến Bình Than, chán không để đâu cho hết.
Liếc thấy mấy tên lính gác mặt mày ủ ê, chốc chốc lại ngó qua phía mình, Đình Thư bật cười thúc eo Quốc Toản, kín đáo ra hiệu:
“Chà, giờ anh nổi tiếng quá! Đoán xem lát về chú có mắng chúng ta không?”
“Nếu có thì Thư cứ năn nỉ chú là được. Em giỏi nhất chuyện này mà?” Cậu chàng khịt mũi, biết tội mình to nhưng vẫn tự tin đáp lại.
Đình Thư bĩu môi: “Nhưng nay họp lớn, còn có cả Thượng hoàng đến dự. Nhỡ chú mà đánh thì em chạy trước nhé.”
“Thế anh sẽ mách chú là em cũng…”
Không để Quốc Toản kịp nói hết câu, nàng Thư nhanh nhảu chen vào: “Ơ nào, anh Toản, ai lại như thế nhờ? Thôi em không chạy đâu, hứa nhá? Hứa là anh không mách nhá?”
“Em ngoan thì anh sẽ xem xét!”
Toản mỉm cười ranh mãnh, đưa tay xoa đầu nàng. Biết cậu nói đùa, Đình Thư phồng má, giọng phụng phịu ra chiều hờn dỗi: “Anh mách chú là chết cả đôi đấy, mình cùng phe mà!” Vế sau nàng nói rất khẽ, chỉ đủ để cậu nghe được.
Thực tế, trong phi vụ “đại náo” sáng nay, Trần Quốc Toản không đi một mình. Vì cần xuất phát sớm, cậu chọn lên chung thuyền cùng Hoài Nhân vương Trần Quốc Kiện. Khi đến nơi, cả hai tình cờ gặp Đình Thư - cháu gái nuôi của Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng, cũng là người em vô cùng thân thiết với Toản. Nàng theo chú đi dự họp, do không có phận sự nên quanh quẩn dạo chơi gần đó.
Đã nửa tháng không gặp, Quốc Toản cố ý nán lại với Thư một lát rồi mới vào trong. Tuy nhiên, lúc vừa đặt chân xuống bến, cậu chợt thấy Quốc Kiện đứng to tiếng với đám cấm quân. Hỏi ra mới biết, Kiện muốn đường đường chính chính vào dự, nhưng dù có nói thế nào, bọn họ vẫn một mực từ chối, còn bảo các cậu tuổi nhỏ chưa đủ tư cách.
“Nhỏ tuổi ư?” Cảm thấy bản thân bị coi thường, Quốc Toản bấy giờ lửa giận bừng bừng, tuốt gươm xẵng giọng. “Bọn ta mang tước vương hầu. Nay triều đình họp trăm quan bàn việc nước. Lẽ nào các ngươi lại muốn cản đường?”
Một cấm vệ quân bước lên chắp tay hành lễ. Hắn nhìn thẳng cậu, mặt lạnh tanh không chút biến sắc:
“Bẩm hầu gia, bẩm vương gia, xin các ngài thứ lỗi cho. Đây là ý của Quan gia, quân lệnh như sơn, chúng thần không thể làm khác!”
Đã nghe câu này đến mòn cả tai, Quốc Kiện phát nản vỗ vai cậu, nhỏ giọng can ngăn:
“Bỏ đi Toản, nói nhiều mệt hơi! Đợi Quan gia hồi kinh chúng ta sẽ diện kiến ngài.”
“Như thế muộn mất.” Toản bực bội thầm nghĩ. “Chẳng lẽ phải hạ hết bọn họ thì mới vào được?”
Nhắc chuyện đánh nhau, tuy võ thuật của cả hai rất khá, nhưng trông Quốc Kiện không có vẻ gì là muốn xung đột. Vốn lành tính, Kiện chỉ lẩm bẩm nói hỗn đôi câu rồi tức tối bỏ về trước. Thân cô thế cô, Quốc Toản ngó đám quân binh cầm theo khí giới, tự dưng thấy cũng... hơi khoai.
Mang mọi thứ kể lại với Đình Thư, nàng biết không thể dùng lời lẽ thuyết phục cấm quân, bèn nghĩ ra một kế. Hai đứa kiên nhẫn chờ sang giờ Ngọ, khi binh lính đã vãn và thuyền Quan gia trở về bến. Đợi phu lái neo thuyền xong, Đình Thư tháo giày trèo lên cây ngồi, không quên thả xung quanh mấy con sâu rau nhặt được hồi sáng. Rồi nàng bắt đầu khóc, khóc rất thê thảm. Vài binh lính nghe động vội chạy ra xem, sự chú ý dồn cả sang chỗ Đình Thư. Ngay lúc ấy, cậu lao vào đẩy đám cấm quân ngã nhào, thành công tiếp cận Quan gia.
Nói tóm lại, Đình Thư chính là “đồng phạm” tiếp tay cho Trần Quốc Toản.
“Này, kể ra cũng sợ Thư nhỉ?” Đang ngẩn ngơ, nghĩ thế nào, Toản bỗng kéo tay áo nàng, giọng hơi chùng xuống. “Nhỡ có ai thấy em rồi nói lại với chú…”
“Anh không mách thì chú không biết đâu.” Đình Thư cười xòa, nháy mắt lém lỉnh. “Vả lại, em giúp anh một tay vì anh có lý do chính đáng! Chuyện tên Hữu thừa tướng Toa Đô đem năm mươi vạn quân, lấy cớ đánh Chiêm Thành để mượn đường nước ta đã truyền đi khắp Đại Việt. Sau bao lần gây hấn không thành, ý đồ xâm lược của chúng lộ liễu đến mức cỡ em còn nhìn ra được, anh sốt ruột muốn tập hợp binh sĩ là điều dễ hiểu thôi!”
Quốc Toản sững sờ nhìn cô bé trước mặt, lời của nàng khiến tâm tư cậu như nổi lên từng đợt sóng ngầm.
Đúng như Đình Thư nói, sau lần thất bại vào năm Nguyên Phong thứ bảy [6], quân thù vẫn luôn tìm đủ mọi cách để chèn ép nước Nam. Mới độ năm ngoái, vua nhà Nguyên đòi quan gia sang chầu. Thừa biết âm mưu của chúng, ngài vờ cáo bệnh, rồi cử chú mình là Trần Di Ái cùng Lê Tuân và Lê Mục đi thay. Nhưng giặc nào có ngồi yên chịu phép. Đầu năm nay, chúng lại rục rịch đưa quân sang, tính lập gã Trần Di Ái đã bị mua chuộc làm thiên tử, cố tình gây sức ép buộc Quan gia thần phục. Trước động thái ngông cuồng ấy, triều đình kiên quyết không nhún nhường, cho người qua tận nơi chặn đánh và thành công phá vỡ thế trận của chúng. Kể từ đó, mối quan hệ giữa đôi bên chính thức lao dốc, không cách nào vãn hồi.
Và sớm mai đây thôi, khi vó ngựa Nguyên - Mông tràn tới, chiến tranh sẽ lại nổ ra, muôn dân bách tính lại rơi vào đau khổ lầm than. Nghĩ đến cảnh dầu sôi lửa bỏng ấy, cậu thật sự không thể chờ đợi thêm nữa. Với nhiều người, họ cho rằng việc cậu làm hôm nay đơn thuần chỉ là phút bồng bột, nông nổi tuổi trẻ. Nhưng sâu trong thâm tâm, cậu luôn mong Quan gia sẽ hiểu cho lòng mình. Ở tuổi mười lăm, khát vọng lớn nhất của Trần Quốc Toản là được cùng ba quân tướng sĩ đứng lên bảo vệ non sông đất nước.
“Mấy chục năm rồi, lũ giặc kia có khi nào từ bỏ tham vọng thôn tính nước ta đâu.” Thở hắt ra một hơi, cậu nhắm mắt, ngả lưng xuống bãi cỏ xanh rì. “Cái giống sói đói phương Bắc đấy, đã bị đánh cho tan tác thế mà vẫn còn nhiễu nhương.”
“Sói gì chứ, chúng chỉ ngang với đỉa thôi!” Đình Thư phe phẩy cọng lau trên tay, không nhanh không chậm sửa lời cậu. “Mà đã là đỉa, cứ phải cho tí vôi nó mới chịu được.”
“Ha, em nói hay lắm! Vậy anh sẽ về gom đủ cả vôi lẫn muối, đợi ngày đổ vào cho chúng biết mặt.” Quốc Toản ôm bụng cười sặc, cười đến nỗi hai vành tai đỏ ửng lên. Đình Thư này ít tuổi hơn cậu mà khẩu khí lúc nào cũng như giấu dao bên trong vậy. Thật không uổng công Bảo Nghĩa hầu năm xưa lặn lội đường xa, tìm đến tận nơi nhờ cậy giáo thụ Lê Tần để thầy dạy chữ cho nàng. Bảy tuổi theo chú về Thăng Long, Phạm Đình Thư đã bộc lộ những tư chất xuất chúng khiến ai nấy kinh ngạc. Lắm khi, chính bản thân Toản cũng quên mất, nàng Thư năm nay chỉ mới… mười một tuổi.
“Phải rồi, có cái này anh chưa hỏi em.” Sực nhớ chuyện quan trọng, cậu liền quay sang Đình Thư, ánh mắt đầy nghi hoặc. “Rốt cuộc, em làm cách nào mà chú lại đồng ý cho đi cùng thế?”
Để tránh tai mắt của bọn nội gián, sẵn tiện khảo sát địa hình phục vụ cuộc chiến, Quan gia đã quyết định tổ chức hội nghị ngay tại Lục Đầu Giang thay vì ở Thăng Long hay hành cung Tức Mặc - Thiên Trường. Khu vực này nằm cách xa kinh thành, có vị trí đặc biệt giữ vai trò như một mắt xích quan trọng đối với chiến sự sắp tới. Là tướng thống lĩnh đạo quân tinh nhuệ nhất thuộc Thánh Dực Dũng Nghĩa [7], Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng nay không chỉ đến dự họp mà còn kiêm luôn nhiệm vụ cảnh giới, bảo vệ Quan gia. Lúc (lao) vào diện kiến, Quốc Toản có thấy chú mang kiếm đứng hầu phía sau ngài, bèn lấy làm lạ. Vì lẽ, ông chú Trọng đây tuy dễ tính nhưng đặt nặng quân tình. Thường những khi bận việc như thế, chú sẽ không để Đình Thư chạy theo quấy rối mình.
Nghe Toản thắc mắc, khóe môi Thư vô thức cong lên thành một nụ cười mơ hồ. Nàng toan đáp lời cậu, nhưng cùng lúc đó, một chiếc thuyền lớn từ xa lặng lẽ tiến lại, thu hút ánh nhìn của hai đứa trẻ. Dưới bóng hoàng hôn, lá cờ phướn cắm gần cột buồm thêu độc một chữ “Trọng” bay phấp phới giữa ráng chiều đỏ rực. Không giấu nổi sự phấn khích, Thư khẽ reo:
“Chú Trọng về kìa!”
Nàng vội kéo tay Toản chạy ra phía bụi lau. Hai đứa ngồi thụp xuống, mắt chăm chú dõi theo chiếc thuyền khi nó cập bến.
II, Chí anh hùng
Tiếng trống dồn canh vừa điểm, chiếc mỏ neo nặng trịch rời tay gã phu lái, chìm dần rồi mất hút dưới lòng sông. Sau vài lần kéo thử để kiểm tra độ bám, gã trụ vững chân, tay gồng sức siết sợi thừng vào phần móc gắn trên mạn thuyền. Xong xuôi, gã quay người lại, hồ hởi nói với vị tướng trẻ đang đứng ngay cạnh: “Bẩm tướng quân, thuộc hạ đã thả neo rồi ạ.”
“Ta thấy rồi, cho ngươi lui.” Vị tướng nhẹ giọng đáp lời gã. Rồi chợt nhớ còn việc cần căn dặn, chàng liền gọi với theo. “Đừng quên cử người ở lại trông thuyền, sáng sớm mai khởi hành.”
Gã phu lái cúi đầu vâng lệnh rồi mau chóng rời khỏi. Đợi bóng gã khuất hẳn, bấy giờ chàng mới rảo bước xuống thuyền, tranh thủ vươn vai, làm vài động tác nắn xương, chỉnh khớp. Đầu gối hơi nhức, sống lưng mỏi nhừ, hai mắt trĩu nặng… đó là tất cả những gì Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng cảm nhận được khi chàng đặt chân lên bờ. Nhiều năm trời vừa rèn luyện, vừa cầm quân, đêm ngày suy tính việc nước, chưa bao giờ chàng thấy người ngợm uể oải như bây giờ. “Có lẽ là tại mất ngủ.”, chàng gật gù, tự đưa ra một câu trả lời mà bản thân thấy hợp lý.
Trở về từ hội nghị, Trần Bình Trọng đã nắm trong tay kế sách chiến lược mà triều đình thông qua, đồng thời xác định đâu là những nơi trọng yếu cần chia người trấn giữ. Quan gia và các tướng cũng bàn bạc rất kỹ, tính toán làm sao để ngoài tuyến phòng thủ chính còn bố trí thêm nhiều hướng tấn công và đường tiếp viện, sẵn sàng ứng phó tùy vào tình hình thực tế.
Nhìn chung, mọi phương án đều đã được dự liệu tỉ mỉ đến từng chi tiết. Điều đó giúp gánh nặng trong lòng chàng nhẹ đi phần nào. Nhưng nhẹ đi không có nghĩa là biến mất hẳn. Từ ngày hay tin lũ giặc phương Bắc lăm le xâm chiếm bờ cõi, những ưu tư, trăn trở của người làm tướng vẫn luôn quẩn quanh tâm trí Trần Bình Trọng, khiến chàng bao đêm liền thức trắng vì lo nghĩ. Trải qua đôi lần binh biến, chàng biết rõ ranh giới sinh tử ở nơi chiến trường mong manh như ngọn đèn trước gió. Kế hoạch chuẩn bị dẫu có hoàn hảo tới đâu thì con người cũng không lường hết được trăm sự biến thiên của trời đất. Và đôi khi, chỉ vài thứ nhỏ nhặt, tưởng chừng vô hại lại trở thành mấu chốt làm xoay chuyển cục diện, gây ảnh hưởng lớn đến vận mệnh dân tộc. Thân là tướng lĩnh, trên phụng mệnh thiên tử, dưới bảo hộ muôn dân, chàng thường nhắc nhở bản thân phải thật cẩn trọng, không được phép lơ là hay phạm sai lầm…
“Hửm? Cái gì thế nhỉ?”
Mạch suy nghĩ bỗng bị cắt đứt bởi cảm giác nhồn nhột lạ lùng sau gáy, Trần Bình Trọng hơi cau mày, đưa tay lên sờ thử. Rất nhanh, chàng nhận ra đấy không phải thứ cảm giác tạo nên từ vật thể hữu hình, nó thực chất là loại linh cảm chỉ xuất hiện khi người ta bị kẻ khác theo dõi!
Thoáng giật mình, chàng liền đảo mắt nhìn quanh một lượt. Trong trí nhớ của Trần Bình Trọng, bến thuyền này thường đông đúc vào mỗi buổi sáng và trở nên vắng vẻ khi chiều tà, nay cũng không ngoại lệ. Trước mặt chàng, nền trời đã chuyển dần sắc tím. Vài mảnh nắng cuối ngày nằm rải rác, lẫn trong những triền mây không ngăn nổi bước chân bóng tối âm thầm phủ lên vạn vật. Trên thân cổ thụ đằng xa, ánh sáng yếu ớt từ ngọn đuốc cắm hờ cháy leo lét chực tắt vô tình điểm thêm vào không gian cái nét u hoài, tịch mịch đến rợn ngợp. Giữa cảnh tranh tối tranh sáng, Trần Bình Trọng phát hiện ở chỗ bụi lau nằm chếch hướng tay phải, cách chàng vài bước chân có hai đứa trẻ đang giương mắt lên nhìn chằm chằm. Khoé miệng bỗng co rút như phải gió, chàng vuốt mặt, tự nhiên thấy mệt hơn hẳn:
“Hoá ra là hai đứa chúng bay…”
Biết chú đã trông thấy mình, Đình Thư thích chí cười rộ đoạn chạy ào về phía chàng, vừa chạy vừa gọi lớn: “Chú Trọng ới ời ơi!”
“Nó tới rồi.” Chàng khẽ thở dài, cõi lòng ảo não không thôi. Xưa nay, Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng nổi tiếng can trường, bất khuất. Chàng không sợ kẻ địch mạnh, cũng chẳng ngại giáo gươm sắc bén. Thế nhưng, có một điều khiến vị mãnh tướng này phải nhức nhức cái đầu, ấy là giọng nói lanh lảnh như tiếng chim oanh, chim ca suốt ngày ra rả bên tai của cô cháu gái Đình Thư. “Và cả mấy trò nghịch rách giời nó bày ra nữa.” Chàng ngầm bổ sung thêm.
“Chú Trọng, nay chú đi họp Quan gia đã nói những gì thế?” Trần Quốc Toản nhanh chân đến bên cạnh chàng, gương mặt cậu đầy vẻ mong chờ. “Chú mau kể đi chú!”
“Đúng rồi, chú Trọng kể chuyện đi ạ, Quan gia có nói khi nào sẽ cho quân đánh không?”
“Chú Trọng…”
“Chú…”
Như sợ lỡ mất chuyện quan trọng từ triều đình, Quốc Toản và Đình Thư thi nhau bám riết lấy chàng, đứa lớn quàng vai bá cổ, đứa bé thì níu tay, quyết hỏi cho kỳ được. Chàng nghe tiếng chúng léo nhéo mà ù hết tai, bèn giơ tay lên ngăn lại:
“Trật tự!”
Nói rồi, chàng nghiêm mặt hướng về phía nàng Thư, giọng trầm xuống: “Cái đó để sau, ta phải hỏi tội con trước đã, Đình Thư.”
“Sao lại là con!” Nàng há hốc miệng, giả vờ ngơ ngác. “Con có làm gì đâu ạ?”
“Còn dám nói không làm gì.” Chàng nheo mắt, bật ra một tiếng cười lạnh. “Thế trả lời ta nghe thử, ai là người tết dải lụa vào đuôi con ngựa chiến của Thượng tướng Thái sư [8]?”
Không ngoài dự đoán, gương mặt Thư lập tức ngẩn ra. Hình ảnh con chiến mã oai dũng với bộ lông đen tuyền buộc dưới gốc đa bất chợt hiện về trong tâm trí, Thư mấp máy môi, định lấp liếm nhưng ánh mắt sắc bén của Bảo Nghĩa hầu đã khiến những lời bao biện nghẹn cứng ở cổ họng. Rốt cuộc, nàng đành lí nhí thừa nhận:
“Dạ, là con ạ.”
“Tốt lắm.” Trần Bình Trọng gật gù, chắp tay sau lưng. “Vậy ai là người rải cánh hoa lên thuyền của Nhân Huệ vương [9]?”
“Dạ, cũng là con ạ.” Thư ỉu xìu đáp, tay mân mê vạt áo. Chú Trọng đã hỏi tới nước này, nàng tự biết có trăm cái miệng cũng không chối tội nổi. Thôi thì thành thực nhận lỗi, chí ít còn vớt được chút khoan hồng.
Đứng cạnh nàng, Trần Quốc Toản nín thinh, vừa thấy buồn cười vừa lo ngay ngáy. Cái lo của cậu đột nhiên nở rộng rồi vỡ tung khi Bảo Nghĩa hầu lấy từ túi áo ra một chiếc giày thêu hoa lấm lem bùn đất, chậm rãi đưa đến trước mặt Đình Thư. Chẳng biết vô tình hay hữu ý, bên trong giày ấy vẫn còn nguyên một cặp sâu rau béo mập đang ngoe nguẩy… ngoe nguẩy…
Bằng sự bình tĩnh mà đến chính mình cũng phải kinh ngạc, Trần Bình Trọng hít vào một hơi, đoạn mỉm cười nói:
“Sau làm việc xấu thì giấu cho kỹ vào, nhớ chưa Thư?”
Ôi chao ôi, có mà nhớ đến già luôn ấy chứ!
Sẽ sàng “vâng” một tiếng, Đình Thư xụ mặt nhận lấy chiếc giày, bụng bảo dạ thôi thế là xong. Kỳ này chú Trọng đã biết hết chuyện, vậy xem ra nàng khó tránh khỏi cảnh ngồi chép phạt binh thư tới mòn nghiên rạn bút. Ông chú nhà nàng hiền như ông Bụt, đối với nàng và Chiêu Hiến [10] chẳng bao giờ quát tháo, mắng mỏ nghiêm khắc giống lúc chú cầm quân. Thay vào đó, nếu nàng phạm lỗi, chú sẽ cho nàng chép phạt, chép hết non nửa thỏi mực thì ngưng. Thư không đếm nổi số lần mình bị chú phạt, chỉ nhớ đống sách từng chép xếp lên sắp sửa cao ngang vai nàng.
“Hình như là tầm này?” Thư trầm ngâm, xòe mười ngón tay ra ước chừng thử.
Trong lúc nàng mải tính toán, Bảo Nghĩa hầu dời sự chú ý sang Trần Quốc Toản. Cậu chàng nãy giờ im thin thít, thấy chú nhìn mình thì nhe răng cười sượng. Cái tội của cậu mới thực là to, nhưng Quan gia đã bỏ quá cho rồi. Trần Bình Trọng không định nhắc lại hay trách mắng thêm, chỉ lãnh đạm hỏi:
“Trần Quốc Toản, chú mày có nhớ năm nay mình bao tuổi không?”
Câu hỏi bất ngờ nằm ngoài dự tính của Toản, cậu sửng sốt, ấp úng nói: “Dạ, mười lăm ạ…”
“Ừ, mười lăm tuổi.” Chàng gật đầu, tay choàng qua vai kéo Toản lại gần, thủ thỉ vào tai cậu. “Nam nhi chí lớn là lẽ thường tình, chú mày vội chút cũng không vấn đề gì! Nhưng nghe Hưng Đạo Vương nói đấy, phàm là người tướng quên mình để báo ơn vua mà không làm cho lòng sĩ tốt cũng như mình thì tướng ấy chưa phải tướng lập công giỏi… [11]”
“Ý chú là sao?
Quốc Toản lặng người, nhất thời không hiểu ẩn ý đằng sau câu nói của Bảo Nghĩa hầu. Cậu hoang mang ngước lên, cố tìm đáp án trong mắt người bên cạnh nhưng chỉ thấy bóng tối mịt mùng. Im lặng hồi lâu, Trần Bình Trọng đưa tay xoa đầu Toản, ôn tồn giảng giải: “Ý của ta là, muốn làm nên chuyện lớn thì phải đắp được cái nền chắc chắn kia đã. Có nền rồi hãy tính đến chuyện dựng cột, mà phải dựng sao để dẫu mưa giông bão bùng, đất trời ngả nghiêng thì cột cũng không nghiêng ngả theo.”
Ngừng lại đôi chút để Toản có thời gian suy nghĩ, chàng nói tiếp: “Giờ chú mày về rèn cho tốt phận mình, rèn mình xong thì rèn binh, rèn lính. Rèn cho bền gan vững chí, cho lòng sĩ tốt trăm người như một, hướng về đại nghĩa. Chuẩn bị kỹ càng bao nhiêu, phần thắng trong tay càng lớn bấy nhiêu, rõ chưa?”
Quốc Toản không vội đáp ngay, cậu yên lặng nghiền ngẫm từng lời chú nói. Lát sau, Toản chắp tay vái tạ Bảo Nghĩa hầu, chừng như đã thông suốt điều gì.
“Chú Trọng dạy phải, cháu quả thực có phần nóng vội nên cư xử lỗ mãng.” Cậu mỉm cười, đáy mắt thấp thoáng ánh lửa. “Từ nay xin vâng lời chú, lấy đó làm gương ạ!”
Gió lạnh thổi tới, luồn qua tán cây, nhẹ lay bóng đuốc lập lòe. Nguồn sáng tù mù như có như không chẳng thể giúp Toản trông rõ biểu cảm trên mặt Bảo Nghĩa hầu. Chợt, cậu nghe tiếng chú thở dài: “Thế giặc lần này vừa mạnh vừa đông, cũng chưa biết chúng định giở trò gì tiếp nên chú mày cứ bình tĩnh, sau không thiếu phần đâu mà lo. Nào nó đến rồi đánh thoải mái, mà đánh thì nhớ tóm thằng cầm đầu ấy!”
“Vâng, thế để nào cháu tóm được nó rồi chú thưởng cho cháu nhé!” Toản nửa đùa nửa thật, xoa xoa hai bàn tay vào nhau. “Thưởng lớn thì càng thích ạ.”
“Đánh giặc còn nghĩ đến thưởng thế này thì chết, chú mày to gan quá rồi đấy.”
“Thế gian sợ nhất thằng liều mà chú, giờ có mười tướng giặc cháu cũng đánh hết!”
Những tràng cười của hai chú cháu phút chốc xua tan đi bầu không khí nặng nề. Cùng lúc ấy, Đình Thư vừa từ bỏ công cuộc liệt kê tội lỗi bản thân. Hai bàn tay nàng tính nhõn ra chỉ có mười ngón và hai mươi tám đốt, cộng luôn cả chân vẫn chưa bằng hai phần ba chồng sách ở phủ. Thư ngó sang, thấy chú và anh bàn chuyện vui quá bèn lân la góp giọng vào:
“Chú Trọng ới, chú cho con đi đánh giặc với…”
Chẳng để nàng nói đến lời thứ hai, ông chú đã thẳng thừng gạt phắt ngay: “Không được.”
Đình Thư nhoẻn miệng cười, sớm biết kết quả nên nàng không cố chấp cự nự. Thay vì khóc lóc rồi ăn vạ như mọi khi, nàng bắt đầu đặt câu hỏi cho những điều thắc mắc bấy lâu: “Nhưng tại sao thế ạ? Chú và cha đưa con lên kinh, cho con học binh thư ở chỗ giáo thụ Tần, cho con học võ cùng chị Dương, chị Khánh thuộc quân Ngũ Yên, cũng cho con theo chân đến xem quân Thánh Dực Dũng Nghĩa luyện tập. Vậy mà con xin đánh giặc thì chú lại không cho…”
Những câu hỏi dồn dập của Đình Thư vô tình xuyên trúng tim đen, chạm vào nỗi niềm canh cánh trong lòng Trần Bình Trọng. Ký ức cũ dần hiện lên, kéo tâm trí chàng trôi về một ngày xa lắm. Là ngày mà nữ ân nhân từ thuở thiếu thời trước khi tạ thế đã gửi gắm đứa con gái duy nhất cho chàng, nhờ chàng bảo vệ nó nếu mai đây đất nước loạn lạc. Ngày hôm ấy, chàng đã tự hứa với chính mình, hứa với cả ông tri huyện Thanh Liêm, tức cha của Thư rằng sẽ xem nàng giống như con đẻ mà tận tình đối đãi, so với Chiêu Hiến không có nửa phần thiệt hơn. Phận con cầu tự [12], sinh ra sở hữu thiên phú khác thường, chàng biết Phạm Đình Thư từ lâu thầm nuôi chí lớn tung hoành thiên hạ. Hiểu điều đó nên chàng không ngại cho con bé theo học đủ loại kinh thư, võ nghệ; cũng dung túng để nó thỏa sức phá phách hết lần này đến lần khác. Ở cương vị của mình, Bảo Nghĩa hầu có thể chiều ý nàng nhiều chuyện, nhưng riêng chuyện xung quân thì không, chắc chắn không!
Trầm mặc giây lát, chàng quyết định chốt lại thế này:
“Ta không đồng ý đâu, con còn đòi nữa là ta đem con gả đi đấy.”
Những tưởng Thư nghe vậy sẽ sợ, nào ngờ nàng như đã chờ câu này của chú từ lâu, chớp mắt nói ráo hoảnh: “Thế chú gả con cho anh Toản đi ạ, con về ở với anh Toản cũng được!”
Trong trí óc non nớt của nàng, cái sự “gả đi” đơn thuần là việc con trai đến đón con gái về nhà mình ở, giống như công chúa Thụy Bảo về nhà chú Trọng hồi mấy năm trước. Thư thì thích chơi với anh Toản lắm, vì những trò nghịch của hội các anh khiến nàng hứng thú hơn cả. Nếu về nhà anh, nàng không lo bị ai bắt phạt nếu có lỡ đùa vui quá trớn. Chưa kể, mai này anh ra biên ải, thể nào cũng sẽ đưa nàng theo cùng. Thư chỉ nghĩ tới vậy, nhưng lời nàng nói làm ông chú Trọng và Trần Quốc Toản được một phen choáng váng.
“Em… em bảo gì cơ Thư? Em muốn lấy anh thật á?” Quốc Toản mặt mũi nóng bừng, ấp a ấp úng mãi không ra một câu hoàn chỉnh. “Thế… thế khi nào… anh qua…”
“Qua gì mà qua! Ta có đồng ý gả cháu cho chú mày đâu?” Nghe chừng mọi thứ sắp đi hơi xa, Trần Bình Trọng ngắt ngang lời Toản, lảng nhanh sang chuyện khác. “Để hai đứa chúng bay lấy nhau rồi gây họa thì khéo ta phải tội với ông giời. Thôi, về nghỉ hết cho ta, trời tối như hũ nút mà còn đứng nói mãi.”
“Chú khó tính quá, cái này không được, cái kia cũng không được.” Nàng ca cẩm bằng cái giọng nhão nhoẹt hệt bà cụ non sau khi thuyết phục chú thất bại. “Hời ơi, anh hùng thiếu đất dụng võ thì khác gì anh hùng rơm đâu?”
Để ngăn Thư kì kèo dông dài, Bảo Nghĩa hầu một mực xua hai đứa trẻ về quán trọ, chấm dứt cuộc trò chuyện bằng sự im lặng và tảng lờ như thói quen. Hành động của chàng khiến Thư ngày càng nảy sinh thêm nhiều nghi vấn. Nhưng dù con bé có tò mò, tìm đủ mọi cách để đoán ý chú thì kết quả nhận về vẫn luôn là một dấu hỏi to đùng. Bây giờ và cả sau này, đó mãi mãi là bí ẩn mà Thư chẳng thể tìm thấy câu trả lời ở bất cứ đâu. Bởi lẽ, người duy nhất biết sự thật sẽ mang nó đi theo mình tới tận giây phút cuối cùng.
Dẫn:
Tháng mười hai, năm Thiệu Bảo thứ sáu 1284 (Nguyên, Chí Nguyên năm thứ 21), giặc Thát xâm phạm lãnh thổ Đại Việt, cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần hai chính thức bắt đầu.
(Đây chỉ là một phần nội dung, toàn bộ nội dung sẽ được in đầy đủ vào sách khi tác phẩm được lựa chọn.)
Chú thích:
1, Lục Đầu Giang: Sông Lục Đầu hay Lục Đầu Giang là một đoạn sông bao gồm 6 con sông, mang tên sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy, sông Thái Bình gặp nhau tạo thành.
2, Bến Bình Than: bến Bình Than thuộc hữu ngạn sông Lục Đầu, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Hiện còn nhiều nghi vấn về địa điểm diễn ra Hội nghị Bình Than nên tác giả phóng tác dựa theo giả thuyết hội nghị được tổ chức trên sông, gần khu vực vũng Trần Xá.
3, Phỏng theo câu nói trong đoạn trích “Bóp nát quả cam” - Nguyễn Huy Tưởng
4, Phỏng theo đoạn trích “Bóp nát quả cam” - Nguyễn Huy Tưởng
5, Một địa điểm liên quan đến Hội nghị Bình Than
6, Năm Nguyên Phong thứ bảy chỉ năm 1258
7, Trần Bình Trọng chỉ huy một phần của đạo quân này
8, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải
9, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư
10, Quận chúa Chiêu Hiến, con gái danh tướng Trần Bình Trọng, sau là Huy Tư hoàng phi - Chiêu Từ Hoàng thái hậu, bà là phi tần của vua Trần Anh Tông, mẹ của vua Trần Minh Tông
11, Trích “Binh Thư yếu lược” - Trần Quốc Tuấn
12, Con cầu tự: nghĩa là con cầu ở chùa, con cầu tự thường là những đứa trẻ được sinh ra từ cha mẹ hiếm muộn
__________
Nếu bạn yêu thích tác phẩm này, hãy bình luận nêu cảm nhận cho chúng tớ biết nha.
Bình luận
Chưa có bình luận