Gần đêm. Một vài cành hoa lê nở muộn trước nhà đơn độc đung đưa theo gió đêm tiêu điều, dậy lên trong lòng người một cảm giác ngơ ngác buồn rười rượi. Xuân đang ở đấy rồi, đang len lỏi từng chút, từng chút một, mà ai nấy chẳng sum vầy với ai.
Nam Phong hết mối đi buôn, tạm coi là được ngồi nhà thảnh thơi vài bữa. Y sang phòng, thấy Đông Vũ không có nhã hứng tiếp mình nên buồn chán bỏ vào phòng đọc sách. Tuy rằng đọc sách lúc dở đêm không phải là một cái ý hay ho gì, nhưng nói thật là y không biết làm chi cả. Nhà thì vỏn vẹn có hai người ở với nhau, chả có lẽ cậu phú lại ngồi nói dóc với mấy con hầu? Quả là không hợp lễ nghi. Ít ra ngồi phòng sách xem chừng còn đàng hoàng hơn một tí. Ồ, nhưng mà y đã quên – cái lệ thường của một nhà giàu xứ Bắc là vợ bồi chồng những chuyện sách vở và thi sĩ văn nhân. Thế là dù muốn hay không thì Đông Vũ cũng theo vào, đứng cạnh mà trưng ra cái vẻ mặt vô thưởng vô phạt. Nam Phong chợt e ngại, nhưng bây giờ lỡ vào phòng sách rồi, chả có nhẽ lại bỏ ngang ngay, thế thì người ta xem thường mình một trận ra trò mất! Cơ sự đã rồi, đành đâm lao theo lao vậy.
Dở buổi, y buông sách báo, định bụng cho đôi mắt nghỉ ngơi một chút. Hôm nay – để tỏ cái lòng hiếu học của mình – thì ít ra cũng phải đọc hết được một bài tản văn của một ông văn sĩ nào đấy mới nổi trên Thời báo chứ! Nhưng cũng mỏi mắt thật… Nghĩ thế, y ngẩng đầu, ánh mắt va vào gương mặt Đông Vũ đang quay đi hướng khác. Cậu chẳng có vẻ gì là để tâm đến những cái tri thức này văn học nọ mà y đang đọc. Giả dụ mà có ai nhìn thấy cảnh này trong nhà, khéo cũng chẳng dám nhận định họ là một gia đình mất. Gia đình nhà người ta thì chồng ngâm thơ đọc sách, vợ ngồi bên chăm chú lắng tai nghe, dù cho không hiểu cũng sẽ ngước nhìn chồng như vừa biết thêm cái gì mới mẻ hoặc dành cho chồng một cái cười nhẹ nhõm động viên. Thảng hoặc, người vợ sẽ nâng chén trà của chồng lên mà xem thử, xem trà có nguội mất không, nước đã vơi chưa để còn châm thêm chén mới. Đằng này, lại cứ không.
Người ta cũng có ngồi cạnh y, có để ý châm trà và giữ đủ lễ nghĩa nhưng ánh mắt lại đưa về xa xăm, vọng về đâu đó bên cửa sổ. Cái nhìn cứ như thể người đang kề cạnh chẳng phải là nghĩa tào khang cưới hỏi đàng hoàng vậy. Nam Phong dở khóc dở cười, không biết phải làm gì với cậu nữa. Kể thì cũng hơi bất lực. Y trầm mặc, mắt liếc sang chén trà mạn ướp hạt sen đã vơi một nửa nhưng khói vẫn còn lờ mờ vương khắp chung quanh. Trà uống dở mà vẫn còn thơm quá, nhưng sao thấy nhạt mồm nhạt miệng lạ. Cứ như từ nãy giờ mình uống không phải là trà, bao nhiêu vị ngọt đắng vừa qua từ bao giờ đã bay biến hết. Lại nhìn sang tập báo còn đang đọc dở, đánh dấu đến gần trang giữa, tự nhiên không biết phải làm sao. Ơ, té ra là nãy giờ mình có đọc sách không ấy nhỉ? Trong đầu cứ trống rỗng như chưa từng lướt qua một câu văn. Mơ màng, y bỗng nhiên thấy vừa mất một cái gì quý giá. Hóa ra, đây là cảm giác người thương bên cạnh mà lòng người ta cứ không đặt ở mình.
Bây giờ thì còn sách vở gì nữa. Gấp sách ngừng hẳn, y nhẹ nhàng rời ghế và xếp lại tất thảy sách báo lên cái kệ gỗ đàn hương loáng bóng. Đó là cái tủ sách quý báu mà y tưởng luôn luôn có thể giúp được y vượt qua bất cứ chuyện gì. Nhưng bây giờ thì lại không. Y đứng dậy, khoác chiếc áo choàng Tàu may bằng vải nhung, chậm rãi mở cửa bước ra ngoài. Trước khi đi, y chỉ để lại một câu:
- Đêm rồi. Chắc là em mệt, về phòng nghỉ đi. Tôi ra ngoài hóng gió tí rồi vào.
Rồi y rời đi thật. Không hỏi han. Không trách móc. Không thắc mắc gì về thái độ của cậu. Cũng không đòi hỏi thế này thế kia. Y chỉ nhẹ nhàng để lại một lời nhắc nhở, một sự quan tâm chăm sóc thường tình, như một hòn đá vụn ném xuống mặt hồ lặng gió, tạo cho một ít gợn sóng rồi biến mất. Đông Vũ không nói gì, chỉ lẳng lặng đóng cửa rời phòng sách. Hai bên mỗi người một ngả, quay lưng về phía nhau mà đi. Tất cả bình lặng đến đau lòng, như thể trong lòng người chưa bao giờ có một mối tơ vương.
Nam Phong bước ra ngoài sân, tiếng guốc vang lên lộp cộp trong đêm xuân lành lạnh. Ngước nhìn những cành lê trắng muốt ẩn hiện trong sương đêm, cảm nhận cái giật mình của một con gió xinh khéo léo luồn qua vạt áo, cậu phú chợt thấy nhẹ nhõm lòng, nhưng trong cái nhẹ nhõm ấy, có cái gì vẫn đang ren rối chưa thể gỡ ra. Em ơi em, người ta có thể nào nhìn thấy nhau một lần không, em? Không cần cảm tình gì sâu sắc, không cần những yêu mến, quan tâm – đơn giản là một ánh nhìn chân thật hướng về, khó đến vậy ư, em? Có người đến cả một ánh nhìn giả vờ cũng chẳng nỡ trao ra nữa.
Nam Phong thở dài. Trong cái tiếng thở dài ấy gói gọn tất cả những xót xa, buồn tủi, đau lòng, kể từ lúc mẹ cha đi, kể từ khi người ta tưởng đã tìm được một điều bất di bất dịch có thể tựa vào nhưng không phải.
“Có lẽ… tôi đã ép hôn em.”
Ngoài sân, bóng người lặng lẽ, sương đêm vương lên vạt áo đẹp trong trẻo như một bức họa mùa thu phảng phất chút run rẩy đượm buồn của cõi lòng giá rét.
Trong phòng ấm áp, cứ tưởng ai đã được yên thân.
Mùi chiếu chăn cứ quấn lấy người ta như một mỹ nhân yêu kiều quấn lấy vị anh hùng trong đêm đen, khiến cho người trong chăn ngủ không được, thức cũng chẳng xong. Ai mà tưởng được, ai lại vì ai mà trằn trọc giữa canh khuya. Tất cả vì một câu “Chắc là em mệt”. Có khi cái mệt không chỉ nằm về thể phách mà còn là nỗi nặng gánh tâm tình. Người ta đã mệt vì bám víu mình chăng? Hay người ta nghĩ rằng đã làm mình mỏi mệt vì những cảm tình người ta? Ôi, phải chi nói được với một người rằng mình không chê bôi, không ghét bỏ, mình chỉ e ngại và bất mãn với cái khác biệt xung quanh. Nó là cái vốn có; con người đều là vậy, ai mà chẳng sợ cảm giác bị coi thường. Mình chẳng thể nào cứ thế lao vào vòng tay của người ta như một người chết đuối vớ được cọc. Nếu như thế tất cả sẽ nhìn mình thành cái dạng gì? Nên có chi cũng là tránh đêm dài lắm mộng. Nhưng hỏng thật: chẳng ai chịu buông tha ai. Cứ nhất quyết phải dằn vặt nhau bằng cái dịu dàng đáng ra không nên có, cố chấp bắt đầu một câu chuyện mà lẽ ra phải bị đốt rụi từ thuở nguyên sơ.
Không được đâu, mà không đáng nữa.
Đông Vũ trở mình dậy, rót lấy một tách trà ấm từ bình mà con ở đã pha từ đầu chiều. Bình trà bằng sứ trắng có hoa văn rồng phượng màu lam tinh xảo đựng trong cái giỏ ủ bằng tre có lót vải xốp, dày dặn giữ nhiệt, làm cho trà gần như vẫn còn ấm nguyên. Phải nói là Đông Vũ cũng con nhà lính tính nhà quan đấy, nhà nghèo nhưng cái thú thưởng trà vẫn không bao giờ cậu quên. Dạo trước còn ở nhà, Đông Vũ được người ta cho một giống chè tươi độc đáo mà hay lắm. Lá thì cứ tấm tấm tí tí, nhưng lúc nào cũng xanh mươn mướt ra. Đất khô cằn cách mấy cũng sống được, mà vẫn cho lộc lá đều đều. Lúc nấu, bỏ một ít vào nước mưa, đã cho ra một mẻ trà đặc cắm tăm lên được.
Đó là thứ trà ngọt đã dùng để đãi cậu phú hôm tiếp chuyện nhà…
Nghĩ đến đây, chén trà trên tay Đông Vũ chợt dừng lại. Cảm giác thư thái chuẩn bị nhấp trà ban nãy tự dưng chẳng còn. Phải chăng, giá không có chén trà và cái chạm tay vô tình ngày ấy thì cậu sẽ không là cậu của hôm nay, giữa những tơ tình tơ tội, bối rối không lời này? Chúng ta đã vướng vào nhau theo cách không nên nhất, và bây giờ đã không thể quay về.
Vậy đi tiếp, liệu có được không?
Một đứa con gán nợ, một cậu phú hộ làng.
Một bần cố nông, một con quyền quý.
Hai đứa con trai.
Không thể nói có được hay không nữa. Không muốn nghĩ, hoặc là không dám nghĩ. Mẹ cha không dạy, thánh hiền không tâu. Trái gió trở trời như vậy.
Đông Vũ ngước mắt nhìn gương. Ngọn đèn măng xông trong nhà leo lét phản chiếu thứ ánh sáng vàng yếu ớt như chực tắt, khúc xạ lên gương mặt thanh tú, sắc nét từng dày gió dạn sương. Bây giờ, vẫn gương mặt ấy, nhưng lại được người ta chăm chút đến mức trắng trẻo hẳn lên, so với Trường Khanh, Tống Ngọc chỉ kém chút khí sắc. Tướng mạo ấy, nói là con nhà nông có còn ai tin? Tự nhiên Đông Vũ thấy hơi ghét. Sao lại càng ngày càng tốt mã như vậy? Chẳng giống người quyền quý, càng không giống con bần cố nông. Một vẻ hào hoa rất nửa mùa. Thật lạc lõng giữa dòng đời long đong.
Thế cũng nghĩa là không thuộc về đâu cả…
Đông Vũ chợt nhói lòng. Chén trà trên tay đã nguội hẳn mà tâm trạng cũng lạnh nguội cả đi. Cậu lẳng lặng đổ chén trà vào trong gốc hoa quỳnh mới trồng còn chưa lên lá, rồi thổi tắt đèn dầu, vặn nhỏ măng xông và về giường đi ngủ.
Tuy chẳng sống nơi cực hạn hàn đới, hai ta vẫn có một đêm trắng không lời.
Bình luận
Chưa có bình luận