Chương 3: Tương thành



    Tương thành là vùng đất phía nam kinh thành, là nơi đất đai trù phú, núi non trập trùng như tấm bình phong che chắn ánh nhìn, từng dòng sông xanh ngắt trải dài ôm trọn lấy bầu trời, uốn lượn bao quanh những thửa ruộng phì nhiêu. Sương sớm giăng nhẹ trên từng thửa ruộng, hương lúa non hòa cùng hương đất ẩm, hương cỏ xanh thành một mùi quê hương nhẹ nhàng, dễ chịu. Cảnh quan tựa như xé họa mà ra.

    Người dân nơi đây thuần hậu, chất phác mà siêng năng, phần lớn sinh sống bằng nghề trồng lúa, chăn nuôi trồng trọt, trồng dâu nuôi tằm, khung dệt vải theo đó mà kẽo kẹt từng ngày không ngơi nghỉ, tuy không giàu sang phú quý nhưng lại như sống trong một khúc Thanh Bình Nhạc. Vài hộ lành nghề có kĩ thuật cao thì mở cửa tiệm nhỏ, buôn bán hàng thêu, đồ gỗ, đồ gốm, phấn son hay những đồ trang sức tinh xảo... khiến cho ngày ngày đều có thương nhân bốn phương ra vào tấp nập.

    Sáng sớm tinh mơ, khi tiếng gà gáy vang vọng khắp trấn phá tan màn đêm tĩnh mịch hòa cùng tiếng guồng nước quay, tiếng mõ ba nhịp báo hiệu canh tư vừa qua canh năm lại đến thì tiiếng rao hàng từ những sạp nhỏ của người bán rong cũng chậm rãi ngân vang giữa làn sương mai. Tương thành không ồn ào như chốn kinh đô phồn hoa, cũng chẳng heo hút như vùng xa xứ mà tựa như bản giao hưởng của một khúc nhạc thời thịnh thế, lấy yên vui làm phúc, lặng lẽ ngân nga giữa lòng đất trời.

    Tư Lăng chuyển đến nhậm chức còn chưa tròn nửa tháng, hơi sơn mới quét vội trên cửa vẫn còn phảng phất hòa lẫn với mùi gỗ mới và mùi giấy triện đỏ dán trên khung cửa còn chưa phai màu.

   Dân trong thành từ lão nông cất nón ngoài cổng quan cho tới nho sinh tụ hội luận bàn ở quán trà ven đường đều gọi y là “vị quan trẻ có khuôn mặt như họa” – y mắt thanh mày sáng, da trắng như lụa non mới dệt, đôi môi khẽ cong vẽ một nét cười mơ hồ khiến dung mạo y càng thêm phần thư nhã, dễ gần. Ấy thế mà mỗi lần nhìn vào đôi mắt hạnh cong cong tưởng như hòa nhã kia lại như thấy cả một mặt hồ tĩnh lặng giữa đêm trăng, chẳng khác nào tấm gương ánh lên thứ sáng trong như có thể soi thấu lòng người.

    Người ta kể rằng dáng y thanh mảnh mà cứng cáp, bước đi khoan thai mà vững vàng, tấm lưng luôn thẳng như thân tùng trước gió. Giọng nói của Tư Lăng ôn tồn, chậm rãi, nghe như tiếng nước suối trong róc rách chảy từ đầu nguồn chảy về, lành lạnh nhẹ nhàng thấm vào lòng người. Y không quát tháo, cũng chẳng cần lớn tiếng ra uy, chỉ cần một ánh nhìn kia cũng tựa như mũi kim khẽ chạm, nhẹ nhàng mà xuyên thủng lớp ngụy trang của cả lớp người.

    Cuộc sống thường nhật của y cũng rất đạm bạc. Ngoài những giờ thẩm án và kiểm tra sổ sách, mỗi ngày Tư Lăng thường ngồi trước hiên uống một chén trà nhỏ, lật đọc vài trang sách, cảm nhận không khí an lành của đất trời, đôi khi còn xuất khẩu thành thơ. Trong phủ đệ không có gì phô trương cùng chẳng chuộng ồn ào, chẳng bày biện trướng rủ ngọc thạch hay hương liệu xa hoa, người hầu kẻ hạ cũng chỉ vọn vẹn năm, sáu người cùng một quản gia, mỗi người mỗi việc, từ lo trà nước đến chăm sóc sân vườn. Sân trong cũng chỉ có mấy khóm trúc cùng với một hòn non bộ nước chảy róc rách từ khe đá chẳng kể ngày đêm, chỉ cần một ngọn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ vẽ nên một khoảng lặng.

    Khi màn đêm buông xuống vạn vật, y thường cho thư đồng mài mực lui về nghỉ ngơi rồi ngồi một mình bên bàn án, giá nến đỏ ánh lên ngọn lửa vàng leo lắt bên tay.  Một bên y là chồng sách cổ xếp gọn gàng thành chồng, đang mở ra là cuốn sách Luận Ngữ quen thuộc, còn bên kia ấy thế mà lại là chiếc hộp gỗ nhỏ sơn son thiếp vàng hôm nào, nơi cất giữ cuộn tranh trắng ấy, chẳng hề đổi chỗ. Thi thoảng y còn lấy cuộn tranh ra ngắm, dù trên tranh chẳng có gì ngoài mặt lụa trắng muốt thì trong lòng y vẫn cảm thấy an ổn đến lạ.

    Vì công việc, Tư Lăng đôi khi phải ra ngoài tra án hay đi kiểm tra các công trình trong thành, hoặc vào một ngày nắng đẹp, y một thân thường phục đi dọc theo từng con phố, nơi những người buôn bán xôn xao hòa lẫn cùng với tiếng cười nói, tiếng rao hàng văng vẳng lại từ các quầy hàng nhỏ dọc hai bên đường. Cảm nhận từng chút từng chút một những niềm vui nhỏ nhặt trong cuộc sống của muôn dân, chính lòng y cũng cảm thấy thanh thản bình yên.

    Vào những ngày rảnh rỗi hiếm hoi, thú vui của y cũng chỉ là những văn thư cổ tịch xếp đầy trong thư phòng. Thư phòng của y không lớn, bày biện giản dị nhưng đầy ắp mùi giấy mực và trầm hương thoang thoảng trong làn gió nhẹ. Từng cuốn sách được xếp ngay ngắn trên giá gỗ lim, gáy sách ngả màu ố vàng nhuốm đượm màu của thời gian, từng trang sách lật ra như chứa đựng hơi thở của quá khứ, thì thầm những câu chuyện nhân sinh thăng trầm, thế vận đổi xoay... Tư lăng lật qua một trang sách mới, ánh mắt nhàn nhạt dừng lại trên một câu: “Thời bất khả thất, chí bất khả loạn” (1). Những câu chữ nhỏ bé ấy như hóa thành từng dải lụa vờn quanh tâm trí, lặng lẽ khuấy động nơi đáy lòng y, gợn lên từng làn sóng nhẹ nhàng rồi dần tĩnh lặng.

    Có lẽ, điểm Tư Lăng không ngờ tới nhất trong cuộc sống thường nhật của mình lại chính là bức tranh lụa trắng kia. Thi thoảng khi đi qua những gian hàng bán tranh thủy mặc, ánh mắt y thường không tự chủ được mà dừng lại ngắm ngía, trong tâm trí lại bất chợt hiện lên hình ảnh bức tranh lụa trắng tinh trải dài trên án thư đêm hôm ấy, giống như phủ thêm trên mình một lớp bạc dưới ánh trăng.


Chú thích:

(1) “Thời bất khả thất, chí bất khả loạn” – Thời cơ không thể bỏ lỡ nhưng chí cũng không nên rối loạn.

Hàm nghĩa: Chí báo thù còn đó, nhưng khi thời chưa tới, cũng phải vững lòng, giữ yên tâm trí, tức cũng chính là sống an trong hiện tại.

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout