Ngày 31/1/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Đêm ấy, tiếng xẻng của chúng tôi cắt vào lớp đất đỏ khô cằn như dao cứa lên da thịt. Từng nhịp đập đều đặn, từng hơi thở gấp gáp hòa vào tiếng gió rít qua kẽ lá. Tôi, Phạm Ngọc Huy, vừa bước qua tuổi 22, lính bắn tỉa mới chân ướt chân ráo, vẫn không quên nở nụ cười với anh Tân: “Em xem, đất này cứng hơn cả đầu lũ Mỹ!” Tân, người đồng đội 25 tuổi đã trải qua năm mùa khô cháy, chỉ cười khà rồi chỉ tay lên trời: “Cẩn thận pháo địch, Huy. Đào sâu thêm tí nữa!”
Ba mươi ngày, ba mươi đêm. Đất đá sắc lẹm cào xước da tay, mồ hôi muối mặn thấm vào từng vết thương. Chúng tôi đào ba cửa hầm, nối nhau bằng đường hầm dài 40 mét. Những cành cây bằng cổ tay được tôi và Tân gùi từ rừng bên kia suối về để gia cố hầm, mỗi đêm hai chuyến. Con đường băng qua bãi mìn rộng hai mét, đủ để một người lặng lẽ bước, khiến tim tôi đập thình thịch mỗi lần đi, chỉ sợ buồn ngủ mà bước nhầm ra khỏi lối. Tân dặn: “Nhớ đặt chân đúng dấu chân hôm trước, Huy ạ. Lệch một phân thôi là bay lên trời!” Tôi cười khổ: “Má ơi! Vừa buồn ngủ mà còn phải tìm dấu chân hôm trước trong đêm tối.”
Những đêm không trăng, bóng tối dày đặc như nhung. Tôi bò qua con suối cạn, nước lạnh buốt thấu xương, tay ôm bó cây ướt sũng. Tiếng máy bay trinh sát L-19 ì ầm trên đầu, ánh đèn pha quét như mắt quỷ. Tôi nín thở, ép người vào vách đá, chờ bóng tối trở lại. “Mày không bắt được tao đâu!” Tôi thì thầm, nụ cười nở khẽ.
Trở về hầm, Tân đang ngồi bó gối, mắt đỏ quầng vì thiếu ngủ. Anh đưa tôi miếng lương khô, giọng khàn đặc. “Ăn đi, sáng mai còn đào tiếp.” Lương khô nghẹn nơi cổ, nhưng tôi nuốt trôi bằng niềm tin kỳ lạ. Trong túi áo, bức thư Linh viết vội trước ngày tôi lên đường vẫn còn thơm mùi mực tím: “Nhớ về em mỗi khi anh thấy sao trời…”
Ngày thứ mười lăm, trận pháo kích đầu tiên ập đến. Đất rung chuyển như động đất, khói bụi mù mịt. Tân kéo tôi chui vào hầm, hai cơ thể dính đầy bụi đất. “Chúng nó đang dò tín hiệu!” Tân nghiến răng, tay siết chặt khẩu AK. Tôi cười, giọng khàn khàn: “Thì chúng cứ bắn. Mình cứ đào. Xem ai kiên trì hơn!”
Những chiếc lá ngụy trang được chúng tôi cắm tỉ mỉ trên nóc hầm. Tân dạy tôi cách pha bùn với cỏ tranh để tạo màu đất tự nhiên: “Lính Mỹ thích dùng ống nhòm hồng ngoại, nhưng chúng không phân biệt được màu máu với màu đất đâu!” Anh nói, đôi tay chai sần vê từng nắm cỏ.
Đêm cuối tháng Hai, khi ba cửa hầm đã hoàn thành, chúng tôi ngồi tựa lưng vào nhau trong đường hầm chật hẹp. Mùi ẩm mốc xộc vào mũi, nhưng với chúng tôi lúc ấy, nó thơm hơn cả hương hoa. Tân vỗ vai tôi: “Chuẩn bị tinh thần đi em, ngày mai bắt đầu trò chơi!” Ánh trăng lọt qua khe hở chiếu vào nụ cười rạng rỡ của tôi, nụ cười mà Linh từng ví như nắng sớm.
Đột nhiên, tiếng pháo lại rú lên từ phía Tây. Tân kéo tôi chui sang cửa hầm thứ hai, hai bàn tay vẫn nắm chặt hai cái xẻng. Đất Mẹ vẫn thở dưới chân chúng tôi, ấm nồng và kiên cường…
Đầu tháng 3/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Mặt trời chưa ló dạng, sương mù vẫn quấn quanh ngọn đồi như tấm khăn tang. Tôi nằm sấp trong hầm số 1, má phải áp vào báng súng K44 còn thơm mùi dầu mỡ. Qua ống ngắm, hình ảnh căn cứ Tà Cơn hiện lên rõ mồn một: những chiến hào đan chéo như mạng nhện, lính Mỹ đi lại lờ đờ trong áo giáp nặng trịch. Tân khẽ thúc cùi chỏ vào sườn tôi, giọng trầm đều. “Nhắm kỹ. Đừng vội. Mỗi viên đạn phải lấy mạng một thằng!”
Phát đạn đầu tiên của đời lính bắn tỉa xé tan không gian lúc 5 giờ 17 phút. Từ khoảng cách 800 mét, viên đạn xuyên qua ngực một tên lính đang ngồi hút thuốc bên khẩu pháo 105mm. Tiếng nổ chát chúa của pháo binh quân ta vọng lên từ phía Tây Nam đúng lúc che lấp âm thanh phát súng. “Một!” Tân đếm khẽ, tay phải giơ ngón trỏ.
Hai phát tiếp theo cướp đi sinh mạng một xạ thủ súng máy và làm bể vai tên chỉ huy đang la hét. Mùi thuốc súng nồng đặc trong hầm. Tôi lùi về phía sau, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, ôm khẩu K44 trườn thật nhanh. “Chạy!” Tân hét lên, đẩy tôi về phía cửa hầm số 2. Hai cái đầu cúi thấp, bò như rắn qua đường hầm 20 mét. Đúng lúc ấy, loạt đạn đại liên 12.7mm của địch cày nát vị trí vừa bắn.
“Cậu là quỷ sao?!” Tân trợn mắt nhìn tôi khi chúng tôi nép vào vách hầm mới, đất từ trần rơi lả tả. Tôi nhếch mép cười, lấy ra chiếc khăn tay Linh thêu: “Người yêu em bảo đàn ông phải biết… Tiết kiệm đạn.” Cả hai đứa cười rú lên, tiếng cười nghẹn lại khi loạt pháo thứ hai rít ngang qua.
Ngày hôm đó, 3 sinh mạng địch bị xóa sổ, 4 thằng bị thương. Đêm xuống, Tân ngồi chép số liệu vào cuốn sổ nhòe mực, tôi thì thào: “Sao anh không viết thư cho người thân ở nhà?” Anh lặng đi giây lát, ngón tay chai sần vuốt trang giấy: “Viết làm gì khi chưa biết có sống qua trận này không…”
Những ngày tiếp theo, nhịp sống chúng tôi như chiếc đồng hồ quân sự: bắn, chạy, ngụy trang, quan sát. Tân trở thành đôi mắt thứ hai của tôi. Anh dùng ống nhòm đo gió, đếm nhịp tim mục tiêu, thậm chí đoán được lúc nào lính Mỹ buồn tiểu, đứng thẳng người để đái. “Thằng cha mặc áo đỏ kia, hắn cứ đứng lên ngồi xuống, chắc bàng quang yếu lắm đây!” Anh chọc tôi cười.
Đến ngày thứ năm, tôi phát hiện sự bất thường. Qua ống ngắm, những chiến hào phía Tây Nam căn cứ đầy xác lính địch phơi dưới nắng. “Sư đoàn 304 đã đào hào vào sát hàng rào!” Tôi reo lên. Tân gật đầu: “Cứ thế này, tháng Tư sẽ ăn mừng trong thành phố Huế!” Niềm vui chưa kịp thấm thì trực thăng UH-1 xuất hiện như bầy ong vò vẽ, chúng trút rocket. Sau đó là loạt bom napalm rơi xuống đồi phía đông, lửa nuốt chửng cả sườn đồi.
“Chúng nó nghi ta ở đây rồi!” Tân nghiến răng, kéo tôi xuống hầm sâu. Mùi xăng dầu cháy khét lẹt tràn vào đường hầm. Tôi ôm khẩu súng run run, đột nhiên nhớ lời Linh: “Anh phải sống… Phải sống!”
Đêm ấy, bầu trời Khe Sanh đẹp lạ. Tôi đang canh gác thì thấy vệt sáng xanh lét xé ngang chòm sao Thần Nông. Một ngôi sao băng rơi tòe đuôi dài như giọt lệ. Sao lại buồn thế nhỉ? Tôi tự hỏi, tay đưa lên lau má không hiểu sao ướt đẫm. Từ xa, tiếng Tân gọi vọng lại: “Huy! Xuống ngủ đi. Mai còn tiếp tục!”
Tôi ngoái nhìn lần cuối về hướng ngôi sao vừa vụt qua. Gió đêm mang theo mùi máu tanh nồng, nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi ngửi thấy hương hoa sữa phố Hàng Đào…
Giữa tháng 3/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Gió Lào tháng ba mang theo cát bụi đỏ quét ngang đồi, hạt cát lách qua khe hở hầm trú ẩn như tiếng thì thầm của tử thần. Tôi nằm im trong lớp ngụy trang bằng lá khô, mắt dán vào ống ngắm. Qua lớp thủy tinh phủ sương mù, một tên lính pháo binh Mỹ đang đứng chễm chệ trên chiến hào, tay vung vẩy điếu xì gà. Khoảng cách 1.050 mét, xa hơn cả tầm bắn danh định của khẩu K44.
“Gió đông bắc, tốc độ 3m/s, độ ẩm 70%…” Tân đọc số liệu từ kinh nghiệm thực chiến, khi dùng ống nhòm quan sát sự chuyển động của cây cỏ, giọng đều đều như giáo viên giảng bài. Tôi đẩy viên đạn đặc chủng vào nòng, hít sâu, ngón trỏ khẽ động vào cò súng. “Mày đang đứng trước mặt một sinh viên toán, thằng khốn ạ!” Tôi thì thầm, hình dung đường đạn như một phương trình parabol hoàn hảo. Tiếng pháo từ xa vọng lại đúng nhịp tim đập. Viên đạn xé gió, xuyên vào ngực tên lính khi hắn ngửa mặt phì phèo khói.
“Trời ơi! Cậu vừa lập kỷ lục trung đoàn đấy!” Tân siết chặt vai tôi, mặt đỏ bừng. Nhưng niềm vui chưa kịp thấm thì tiếng rotor trực thăng UH-1 đã rú lên từ phía tây. Chiếc máy bay chuồn chuồn sắt lơ lửng trên sân bay dã chiến, đám lính Mỹ khiêng cáng ùa ra.
Tôi lật ngửa khẩu súng, điều chỉnh thước ngắm: “Điều không thể thành có thể nhé, Linh ơi…” Tôi lẩm bẩm, đưa mũi súng chếch 45 độ về phía vầng mặt trời đang lên. Viên đạn 7.62mm lao vào thùng nhiên liệu phình to dưới bụng máy bay. Lửa bùng lên, một tiếng nổ long trời do đạn rocket gặp lửa tự kích nổ, ngọn lửa cam nuốt chửng cả phi hành đoàn, chiếc UH-1 nghiêng cánh đâm sầm vào khẩu pháo 105mm. Khói đen cuồn cuộn vẽ lên bầu trời thứ chữ ký bằng máu.
“Huy! Di chuyển ngay!” Tân hét lên khi hàng loạt rocket từ một chiếc trực thăng khác cày nát sườn đồi. Chúng tôi lăn xuống hầm số 3, đất đá rơi lộp độp như mưa. Tân móc từ túi ra chiếc kẹo lạc dúi vào tay tôi, mắt anh sáng lên: “Thưởng cho phát súng vừa rồi!”
Ngày thứ mười tám, chúng tôi phát hiện ánh sáng lóe lên từ ống kính ngắm địch. Một xạ thủ Mỹ đang lần theo dấu vết của chúng tôi. “Hắn dùng súng M40, chuyên gia đấy!” Tân nghiến răng, ép mắt vào ống nhòm. Hai xạ thủ thi nhau chơi trò mèo vờn chuột suốt ba giờ. Tân buộc khẩu AK47 vào một cành cây, rồi giả vờ thò mũi súng ra khỏi hầm, lập tức viên đạn xuyên qua nơi tôi vừa nằm trước đó.
“Bắt được mày rồi!” Tôi nhoẻn miệng cười, kéo cò K44 từ cửa hầm phụ. Từ cự ly 850m, viên đạn xuyên qua khe giữa hai bao cát, biến đầu tay xạ thủ địch thành quả dưa hấu dập nát.
Những đêm sau đó, tiếng pháo địch dội lên dồn dập hơn. Qua ống nhòm, tôi đếm được bảy hố bom mới trên các vị trí trú ẩn của đồng đội, những người cũng tham gia nhiệm vụ bắn tỉa giống tôi và Tân. “Họ như lá mùa thu vậy!” Tân thở dài, tay xoa xoa khẩu AK đầy bụi. Đột nhiên, anh chỉ tay về phía nam: “Xem kìa! Sư đoàn 304 đã vào sát hàng rào kẽm gai của sân bay!”
Trong lòng tôi chợt dâng lên niềm kiêu hãnh lẫn xót xa. Những chiếc mũ cối lấp ló trong chiến hào, thấp thoáng bóng áo xanh. “Mình phải sống để thấy ngày ấy, Huy ạ!” Tân vỗ vai tôi, nhưng trong đôi mắt anh thoáng nỗi buồn của người đã nhiều lần tiễn đồng đội.
Đêm cuối tháng ba, khi trận địa tạm lắng, tôi ngồi vuốt ve chiếc khăn tay thêu hai con chim bồ câu đã sờn rách. Ngôi sao băng đêm ấy cứ ám ảnh tôi, nó giống hệt nét bút của Linh. “Em đang ở đâu?” Tôi thì thầm vào khoảng không, tưởng như nghe thấy tiếng nàng hát từ hướng Hà Nội.
Đầu tháng 4/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn
Tháng 4, khói lửa mù mịt phủ lên đồi như tấm màn tang. Từ hầm quan sát, tôi nhìn xuống thung lũng Tà Cơn, nơi những chiếc xe tăng M48 Patton của địch đang bò lổm ngổm như bọ cạp sắt, đuôi phun lửa đỏ lòm. “Chúng nó sợ thành Điện Biên Phủ thứ hai đấy!” Tân cười gằn, tay xoay chỉnh tiêu cự ống nhòm. Đạn pháo 105mm, 155mm từ căn cứ địch rú lên từng chùm, cày nát những chiến hào phía Tây mà đồng đội đã đào suốt đêm.
Tôi ép má vào báng súng, mắt dán vào ống ngắm. Một chiếc C-130 Hercules đang lượn vòng thấp, cửa sau mở toang lộ ra những thùng tiếp tế màu vàng chói. “800 mét… Gió tây nam…” Tôi lẩm nhẩm, ngón tay đã quen với độ nảy của cò súng. Viên đạn xuyên qua bắp chân tên lính đang vác thùng hàng, hắn bò lê đau đớn, phát đạn làm cả toán lính ra lấy hàng tiếp tế ngã nhào, chạy đi tìm chỗ nấp. “Ai đó ra cứu đồng đội đi chứ!” Tôi thì thầm, mắt vẫn không rời ống ngắm. Hắn giơ tay cầu xin đồng đội kéo vào, sau vài cái co giật hắn nằm im, và tôi khẽ nhếch môi: “Bắn tỉa phải kiên nhẫn như giải tích phân, Linh ạ…” Tôi lẩm bẩm, nhớ đến những đêm cùng nàng ngồi đếm sao, đếm mãi, đếm mãi rồi lại đếm nhầm vào ngôi sao mình vừa đếm. Sau phát súng ấy, tôi chẳng buồn đếm số lượng mình đã giết.
Tân đột nhiên hích mạnh vào vai tôi: “Có thằng chó đẻ đang tìm mình! 11 giờ, dưới xác xe cháy!” Qua ống ngắm, tôi thấy ánh sáng lóe lên từ ống kính ngắm M40, sau đó biến mất như ma. Tay xạ thủ Mỹ này khôn hơn đứa trước, hắn dùng xác 2 chiếc xe jeep, làm chỗ ẩn náu, nửa người chìm hẳn dưới bụng xe. Hắn cứ bò qua bò lại giữa hai chiếc xe thông qua một đoạn hào, hắn khéo léo không để ánh lóa từ ống ngắm của mình phản xạ về phía tôi, hai vị trí bắn của hắn lúc nào cũng chìm trong một lớp bụi mờ bay là là theo gió từ sân bay thổi vào. Trời nắng gắt, nền đất chỗ hắn nằm luôn có một lớp ảo ảnh như gương.
Hai tiếng đồng hồ trôi qua như thế kỷ. Từ khoảng cách 900m. Chúng tôi thi nhau thử nghiệm nhau, hắn bắn xuyên qua khe hầm có khẩu AK47 dùng làm mồi nhử, tôi đáp trả bằng viên đạn làm văng nón sắt của hắn. “Hắn dùng đạn đặc chủng đấy!” Tân nghiến răng, nói vọng qua đoạn hầm. Tôi lau vệt mồ hôi trên trán, lấy viên đạn đặc chủng của tôi, lắp vào súng. Phải dụ hắn lộ sơ hở…
Tôi nghĩ đến khẩu AK: “Anh Tân, làm ơn bắn vài viên AK đi!” Tôi hét lên trong hầm. Tân trợn mắt nhưng ngay lập tức hiểu ý. “Bằng, bằng…” Tiếng AK kêu to, đúng lúc không gian im tiếng súng.
Ánh sáng lóe lên, viên đạn M40 xuyên qua cửa hầm của Tân. “Bắt được mày rồi!” Tôi nín thở, kéo cò K44. Viên đạn 7.62mm, loại D-46, xé toạc miếng đệm vai của xạ thủ địch, đẩy hắn ngã ngửa vào vũng máu.
Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, nước mưa hòa lẫn tro bom khiến da thịt rát bỏng, cả đoạn hầm ngập nước, tôi và Tân thay nhau tát. Lúc nghỉ mệt, Tân ngồi bó gối trong hầm, tay mân mê bức thư gia đình đã ố vàng: “Hồi đánh trận ở La Đrăng, tiểu đội anh có thằng Hiếu…” Giọng anh đột nhiên run rẩy: “Lúc đó nó đang bị thương, Hiếu đưa anh những quả lựu đạn còn lại, xong tự nguyện ra ngoài làm mồi nhử để anh em kịp rút, trước khi trực thăng xả đạn…”
Tôi im lặng, tay xoay vỏ đạn đồng trống trong lòng bàn tay. Đâu đó dưới chân đồi, tiếng loa phóng thanh của địch vọng lên lảnh lót: “Hãy đầu hàng! Các người không thể thắng được vũ khí hiện đại!” Tân nhổ nước bọt vào tường hầm: “Chúng nó không hiểu rằng…” Anh chỉ vào ngực tôi: “Thứ vũ khí mạnh nhất nằm ở đây!”
Đêm ấy, tôi trằn trọc không yên. Ánh sao băng lại hiện về trong giấc mơ, hóa thành vệt nước mắt Linh. Tôi giật mình tỉnh giấc, tay túm lấy khẩu súng khi nghe tiếng động lạ. “Chỉ là con nhím thôi!” Tân vỗ nhẹ vào lưng tôi, giọng trầm ấm như cha dỗ con: “Ngủ đi, ngày mai lại phải đếm xác lũ xâm lược đấy!”
Sáng hôm sau, khi sương mù còn vấn vương trên ngọn cỏ cháy, tôi phát hiện ra điều kinh khủng, những chiếc xe ủi đất Mỹ, được sự bảo vệ của xe tăng, đang cày nát các chiến hào phía Nam. Qua ống nhòm, tôi thấy rõ máu đồng đội thấm đỏ đất đai. “Phải làm gì đó…” Tôi siết chặt báng súng. Tân kéo tôi xuống: “Khoảng cách 1.500 mét, vượt tầm K44 rồi! Giữ lấy mạng sống mới là chiến thắng!”
Trưa đó, chúng tôi chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng, từng top máy bay F-4 Phantom II thả chất độc da cam và bom Napalm xuống rừng già phía Tây. Những cây cổ thụ ngả nghiêng như người say, lá cây cuộn tròn trong đau đớn. “Không biết các đồng chí ở bên ấy thế nào…” Tân thều thào, mắt đỏ ngầu. Tôi lặng lẽ tháo viên đạn cuối cùng khỏi băng đạn, tôi khắc chữ “Nhớ” lên vỏ đạn bằng mũi dao.
Khi hoàng hôn buông, tiếng đại bác bắn trực xạ vẫn rền vang, cày nát những viên đá cuối cùng trên sườn đồi. Tôi chợt hiểu ra rằng, trong cơn lốc sắt thép này, tình yêu và lý tưởng chính là thứ duy nhất không thể bị nghiền nát…
Đầu tháng 6/1968, sườn đồi phía Đông căn cứ Tà Cơn.
Gió mùa hạ thổi qua đồi cháy khét mang theo mùi tử khí. Ba tháng, chín mươi ngày đêm chiến đấu, đã biến hệ thống hầm của chúng tôi thành bộ xương khô trơ xương. Hai cửa hầm còn lại như đôi mắt mù lòa, nhìn xuống thung lũng đầy xác sắt và máu. Tân ngồi đếm từng viên đạn cuối cùng của khẩu K44, giọng khàn: “Còn 13 viên, 3 băng đạn AK, đủ để mở đường máu trở về…”
Tôi nhìn sang góc hầm nơi mười gói lương khô cuối cùng xếp ngay ngắn như nén hương tế đồng đội. “Hay mình nhịn ăn thêm vài bữa, bắn hết số đạn K44?” Tôi cười gượng, đẩy gói lương khô về phía Tân: “Anh còn phải về Nghệ An thăm mẹ nữa mà.” Tân lắc đầu, dúi vào tay tôi chiếc bật lửa Zippo đã mất khắc: “Cho cậu…”
Ngày 5/6/1968, ngày định mệnh ập đến với tiếng gầm rú của lũ quỷ sắt. Phi đội F-4 Phantom II lượn vòng như diều hâu đói, rồi tăng ga hết cỡ, nhắm thẳng vào sườn đồi, phi công nhấn nút cắt bom, những chiếc F-4 bay sượt qua đỉnh đồi, những quả bom lao vút tới nhờ lực quán tính, cắm vào sườn đồi như những mũi tên. Tân đang cúi xuống sửa đường hầm thì tiếng rít chát chúa xé toạc không gian. “Nằm xuống!” Tôi hét lên, nhưng đã muộn. Quả bom 250kg nổ cách hầm 3 mét, mảnh kim loại nóng đỏ xuyên qua đất, xuyên qua lưng anh như dao găm đâm vào bánh phồng.
Máu Tân phun lên tường đất, nhuộm đỏ cả đoạn hầm bị sụp xuống. “Không… Anh Tân, Tân không được chết! Anh còn chưa cưới vợ mà…” Tôi rú lên, tay bịt chặt vết thương đang sủi bọt hồng. Tân nắm lấy cổ tay tôi, đồng tử giãn ra nhưng nụ cười vẫn nguyên vẹn: “Đời lính… Thế đấy…” Bàn tay chai sần buông thõng, chiếc ống nhòm trên cổ anh vẫn nằm ngay ngắn trên ngực áo loang máu.
Hai ngày sau, tôi bắn viên đạn K44 cuối cùng vào bụng một tên lính Mỹ đang cầm ảnh gia đình: “Xin lỗi…” Tôi thì thầm khi hắn ngã xuống, tay vẫn siết chặt khung hình kỷ niệm. Khẩu AK-47 của Tân nóng rẫy trong tay tôi, mùi dầu súng hòa với máu khô tạo thành thứ hương liệu của tử thần. Ba quả lựu đạn được giắt vào thắt lưng, phòng khi…
Đêm 7/6, trăng non như lưỡi hái. Tôi trườn chầm chậm qua đống đổ nát, hướng lên đỉnh đồi, lớp ngụy trang rách rưới phủ lên bộ quần phục rách tả tơi, chân trái bị thương, băng bó bằng vải áo Tân. “Cứ theo hướng sao Bắc Đẩu.” Tôi nhớ lại lời Tân dặn. “Linh… Anh sẽ về!” Tôi thì thầm, bầu trời đêm đầy khói đen. Đột nhiên, tiếng pháo 155mm rú lên từ căn cứ Tà Cơn. Tôi ngửa mặt cười, nụ cười của kẻ đã thấy cái chết quá gần để sợ hãi.
Quả đạn đầu tiên nổ cách tôi ba mét, sóng xung kích hất văng khẩu AK xuống vực. Quả thứ hai rơi trúng tôi, khi tay đang đặt vào chiếc khăn tay trong túi áo ngực. Trong khoảnh khắc ấy, thời gian ngưng đọng. Tôi thấy Linh trên bầu trời đầy sao, áo blouse trắng tinh khôi, tay cầm ống nghe: “Hẹn anh ngày bình yên…” Nàng mỉm cười, đôi mắt long lanh như buổi sáng chia ly phố Khâm Thiên.
Vụ nổ xé nát tất cả. Cơ thể tôi tan thành mưa thịt, hòa vào đất mẹ. Chiếc khăn tay cũng tan vào không khí, những hạt bụi trắng, hóa thành vệt sao băng cuối cùng vút qua chiến trường.
Hôm ấy, trời Khe Sanh trong xanh lạ. Gió thổi xác thịt này vào hố bom, nơi một mầm cỏ non đang đội đất chui lên…
***
Theo dòng sự kiện: Ngày 13/5/1968, hội nghị Paris về Việt Nam chính thức khai mạc phiên họp đầu tiên. Ngày 26/6/1968, quân Mỹ tuyên bố rút bỏ Khe Sanh
Bình luận
Chưa có bình luận