Nhật Ký Tân Binh (2/2)





Nhật Ký, Ngày 10/12/1967

Đêm nay, rừng Bắc Kạn chìm trong màn sương dày đặc như lớp voan tang. Mình cùng đồng chí huấn luyện viên bò sát mặt đất, từng tấc một, qua những bụi sim gai góc. Bàn tay chạm vào đất lạnh buốt, hơi thở hòa vào sương đêm thành làn khói trắng mỏng manh. Phải im lặng như cái chết… Mình tự nhủ, cơ thể căng cứng như dây đàn. Tiếng lá khô xào xạc dưới khuỷu tay nghe vang động cả núi rừng.

Đồng chí huấn luyện viên ra hiệu dừng lại. Hai người nép mình sau tảng đá phủ rêu, tai dán xuống đất nghe tiếng bước chân giả định của “kẻ địch”. Tim đập thình thịch, mồ hôi lạnh thấm ướt sống lưng. Chỉ cần một tiếng động nhỏ, mọi thứ sẽ tan thành mây khói… Mình siết chặt khẩu K44, ngón tay run run chạm vào cò súng. Bỗng, tiếng cú mèo kêu não nuột vang lên phía xa, đồng chí huấn luyện viên khẽ đẩy vai mình: “Tiến lên!”

Hai bóng người lặng lẽ trườn qua đồi cao, chân như không chạm đất, hơi thở nín lại. Mình cảm nhận rõ nhịp tim đồng đội đập cùng tần số với mình, “Tích… Tắc… Tích… Tắc…” như chiếc đồng hồ sống. Đến đỉnh đồi, ánh trăng bất ngờ ló ra từ sau đám mây, rắc ánh bạc lên khuôn mặt đầy bùn đất của đồng chí huấn luyện viên. Ông nhếch mép cười, giơ ngón tay cái: “Tốt! Nhưng lần sau nhớ tránh ánh trăng, mày thành mục tiêu sáng nhất rừng đêm đấy!”

Trời gần sáng, đôi chân mình như bị đổ bê tông. Mười ngón tay tê cóng, đầu gối sưng đau vì va vào đá. Đồng chí huấn luyện viên dừng chân bên suối, lấy bình nước đưa mình: “Uống đi, còn 30 phút nữa là đến bài tập bắn!” Nước lạnh buốt cổ họng, tỉnh táo lại chút đỉnh. Mình nhìn lên trời, vầng trăng khuyết đang dần nhạt nhòa. Linh giờ này chắc vẫn đang ngủ, quấn trong chăn ấm… Nghĩ đến đây, bỗng thèm được nghe giọng nàng cười khúc khích một lần nữa.

Bình minh ló rạng cũng là lúc bài kiểm tra bắt đầu. Mười mục tiêu giả định được dựng từ 800m đến 1000m, nấp sau thân cây, hốc đá. Mình nằm phục trong hố cá nhân, má áp vào nòng súng, mắt dán vào kính ngắm. Hơi thở chậm lại, thế giới thu nhỏ thành vạch chữ thập màu đen. “Gió đông bắc, tốc độ 3m/s… Góc nghiêng 15 độ…” Mình lẩm nhẩm công thức, ngón tay khẽ bóp cò.

Phát đạn đầu tiên nổ ầm, vai mình đã quen với lực giật. Mục tiêu 800m vỡ tan. “Trúng!” Tiếng hô vang lên từ quan sát viên. Mình tiếp tục nhắm bắn, từng viên đạn bay đi mang theo nỗi căm hờn: Vì những đứa trẻ chăn trâu… Vì bà cụ nghèo không có thuốc… Vì Linh… Đến mục tiêu thứ 10, xa nhất và khó nhất, mình nín thở, căn chỉnh milimet cuối cùng. Viên đạn xé gió, xuyên qua tấm bia gỗ. “Bảy trên mười! Xuất sắc!” Đồng chí huấn luyện viên vỗ vai mình, mặt rạng rỡ.

Chiều xuống, đơn vị nghỉ ngơi bên bếp lửa. Mình ngồi tựa lưng vào thân cây, xoa bóp vai. Đồng chí Thắng lết đến, dúi vào tay mình củ khoai nướng: “Phần của anh! Hôm nay bắn giỏi quá!” Mình cười, bẻ đôi củ khoai: “Ăn đi, mình no rồi.” Thắng nhìn mình ánh mắt biết ơn, khiến lòng chùng xuống. Chắc nó cũng hiểu rằng, sự sống ở chiến trường mong manh như sợi tóc…

Đêm về, mình lẻn ra bãi tập cũ. Dưới ánh trăng, mình mở bức thư Linh gửi tháng trước. Nàng kể chuyện dạy Thi học bài, tối nào cũng bắt đứa em đọc thuộc thơ Tố Hữu. Mình đọc đi đọc lại bức thư ấy, nước mắt chực trào. Gió rít qua kẽ lá, mang theo hơi lạnh cắt da, nhưng trái tim lại ấm áp lạ thường.

***

Nhật Ký, Ngày 15/12/1967

Hôm nay, được học về các loại mìn Mỹ rải xuống khu vực DMZ. Sau đó là được dạy võ thuật và cận chiến bằng dao. Lưỡi dao gỗ lạnh ngắt áp vào cổ, mình nín thở, toát mồ hôi lạnh. Đồng chí huấn luyện viên khẽ ấn nhẹ, giọng cười khàn: “Chết rồi, Huy ạ! Trên chiến trường, kẻ địch không cho đồng chí cơ hội gồng cổ lên thế này đâu!” Mình gật đầu, tay run run buông lỏng. Bài tập chiến đấu tay không hôm nay khiến cả tiểu đội thấm thía một sự thật: chiến tranh không chỉ cần tầm ngắm chuẩn xác, mà còn đòi hỏi sự tàn nhẫn cần thiết. Ừ, thằng Mỹ cũng là con người, nhưng nó sống thì mình chết.

Buổi chiều, đơn vị tập võ trên đồi cỏ tranh vàng úa. Gió đông bắc thổi qua từng đợt, cuốn theo hạt mưa bụi mặn chát. Mình đứng thế tấn, hai tay giơ cao đỡ đòn đá của đồng đội. Đầu gối kêu răng rắc, nhưng phải cắn răng chịu đựng. “Đánh mạnh vào! Đây không phải trò chơi!” Tiểu đội trưởng quát tháo. Một cú đấm trúng vào hông, mình ngã chúi về phía trước, mặt đập xuống đất. Đất cát mặn chát lấp đầy miệng.

“Dậy đi! Lính bắn tỉa mà yếu thế này thì chỉ thành mồi cho địch!” Giọng nói đanh lại. Mình lồm cồm đứng dậy, phủi bụi trên ngực áo. Đồng chí Thắng đứng bên lườm mình, mắt đỏ ngầu: “Anh phải chiến đấu như kẻ không có gì để mất!” Mình gật đầu, nuốt trọn lời cay đắng ấy vào cổ họng.

Chiều muộn, đơn vị nghỉ chân bên con suối nhỏ. Mình ngồi bó gối, nhìn những đứa trẻ chăn trâu hái sim trên đồi. Chúng cười đùa, ném quả sim chín vào nhau, nước tím bắn lên áo. Một bé gái chạy đến dúi vào tay mình nắm sim: “Chú bộ đội ăn đi! Sim chín ngọt lắm!” Nó cười, để lộ hàm răng sún. Mình cầm trái sim tím sẫm, vị ngọt chua nơi đầu lưỡi gợi nhớ ngày nhỏ theo mẹ ra chợ, được mẹ mua cho bánh kẹo. Giá như chiến tranh kết thúc, mình sẽ dạy chúng viết chữ, làm toán, kể cho chúng nghe về Nguyễn Du, về Hồ Xuân Hương… Ý nghĩ ấy chợt hiện lên, khiến tim đập rộn ràng.

Tối đến, cả tiểu đội quây quần bên nồi cháo ngô. Đồng chí Hải rút từ túi ra chiếc kèn lá, thổi bài “Tiến Bước Dưới Quân Kỳ”. Tiếng kèn nghèn nghẹn, nhưng đủ để mọi người nhẩm theo lời ca. Mình lặng lẽ mở cuốn sổ tay, vẽ nguệch ngoạc hình những đứa trẻ chăn trâu. Linh ơi! Hôm nay anh gặp một nhà thơ tí hon. Nó tặng anh trái sim…

Đêm khuya, trăng treo lơ lửng như chiếc đèn lồng mỗi dịp trung thu. Mình trở mình trên giường tre, tai vẳng nghe tiếng đồng đội mê sảng: “Mẹ ơi… Con đói…” Giọng Thắng yếu ớt vọng ra từ góc lán. Mình rón rén bước đến, đắp lại chăn cho nó. Thắng co ro như con chim non lạc đàn, khiến lòng quặn đau. Chúng mình chiến đấu để những thế hệ tương lai không phải cầm súng… Mình tự nhủ, tay siết chặt chiếc khăn tay Linh tặng.

Sáng hôm sau, đơn vị hành quân qua bản làng. Mấy đứa nhỏ đứng xếp hàng bên đường, tay vẫy chào. “Chú bộ đội ơi, đánh thắng giặc Mỹ nhé!” Một bé trai hét to, giọng non nớt. Mình cười, ném cho nó chiếc kẹo lạc cuối cùng trong túi. Nhìn lũ trẻ tranh nhau viên kẹo, mắt chúng sáng lấp lánh, bỗng thấy mọi đau đớn hóa nhẹ tênh.

Trên đường về, mình nhặt được chiếc lông chim khướu. Màu lông xanh biếc như ngọc, gợi nhớ đôi mắt Linh. Mình cất vào ba lô.

***

Nhật Ký, Ngày 22/12/1967

Hôm nay, sương muối phủ xuống thao trường. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên cột gỗ cao vút, từng hồi trống dồn dập vang lên như nhịp tim của lịch sử. Mình đứng giữa hàng quân, ngực căng phồng dưới bộ quân phục đã sờn vai. Tiếng đồng chí chính trị viên đọc diễn văn vang vọng: “Các đồng chí đang tiếp bước cha anh, viết tiếp bản hùng ca Điện Biên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ…” Sau đó, bài quốc ca vang lên, gió thổi qua mang theo hơi lạnh cắt da, nhưng lòng mình cháy rực.

Buổi lễ kết thúc, đơn vị hành quân qua bản làng heo hút. Một cụ già tóc bạc phơ đứng tựa cửa, tay run run giơ nải chuối nếp: “Các chú bộ đội ăn tạm cho đỡ đói!” Mình cầm lấy, lòng nghẹn lại. Căn nhà lụp xụp của cụ, vách đất nứt nẻ, chiếc chõng tre mòn vẹt. Trên bàn thờ, di ảnh người con trai trong bộ quân phục cũ kỹ. “Nó hy sinh ở Điện Biên năm 54…” Cụ thở dài, đôi mắt đục mờ nhìn xa xăm.

Cụ rót nước chè xanh đặc quánh vào bát sứt. Mùi khói bếp cay nồng xộc lên mũi. “Cháu trai tôi cũng vào Nam rồi…” Giọng cụ nghẹn lại, tay nắm chặt tay mình. Bàn tay gầy guộc, chai sần như vỏ cây, nhưng hơi ấm từ lòng bàn tay ấy khiến mình nhớ đến mẹ. Mẹ cũng nắm tay mình như thế lần tiễn mình lên đường.

Chiều hôm ấy, đơn vị giúp cụ sửa lại mái nhà dột. Mình trèo lên cây cau già chặt lá, nghe tiếng đồng đội dưới đất cười đùa: “Huy làm khéo như thợ mộc!” Bỗng nhớ đến cha, người đã dạy mình cách đóng đinh từ năm mười tuổi. “Chắc cha cũng tự hào khi thấy con mặc áo lính?” Mình tự hỏi, tay vẫn thoăn thoắt buộc từng bó tranh.

Đêm về, cả tiểu đội ngồi quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Cụ già gắp cho mình miếng trứng kho, quả trứng gà duy nhất trong nồi. “Cháu ăn đi, người lính phải khỏe mới bắn giặc giỏi!” Cụ cười, để lộ hàm răng đen nhánh. Mình cắn miếng trứng mặn chát, nước mắt chực trào. Trong gian bếp tồi tàn ấy, tình người tỏa sáng hơn cả ngọn đèn dầu leo lét.

Trăng lên cao, mình lại ngồi viết thư cho Linh dưới ánh trăng mờ.

***

Nhật Ký, Ngày 30/12/1967

Cỏ khô đâm vào má, mình nằm bất động giữa lớp ngụy trang phủ đầy sương muối. Kính ngắm K44 dán chặt vào mắt phải, hơi thở khẽ rung lên mặt sống súng. “Nhiệt độ: 13 độ. Gió Tây Bắc, tốc độ 4m/s…” Mình lẩm nhẩm, ngón tay tê cóng co quắp trên cò súng. Đồng hồ đeo tay tưởng như đã đông cứng, kim giờ chỉ mãi ở số 3 như nỗi nhớ Hà Nội đóng băng trong lồng ngực.

Mục tiêu giả định vẫn im lìm sau tảng đá phủ rêu xám. Mình nhẫn nại chờ đợi, thân thể tê cứng như khúc gỗ mục. Bỗng, ánh nắng yếu ớt xuyên qua màn sương, chiếu lóa kính ngắm. “Chết tiệt!” Mình khẽ nguyền rủa, lách người sang hốc đá bên cạnh. Vai va vào đá lạnh buốt, suýt bật tiếng rên. Trong khoảnh khắc ấy, ký ức về một Hà Nội mùa đông ùa về: Linh co ro trong chiếc áo len cũ, tay xoa xoa hai má hồng lên vì lạnh, miệng cười tủm tỉm: “Anh thấy em như cây kem mút chưa?”

Buổi trưa, đơn vị ăn vội nắm cơm nguội lạnh ngắt. Mình ngồi tựa lưng vào thân cây, nhai từng hạt cơm khô như nhai ký ức. Mùi của rừng cây gợi nhớ mùi hoa sữa phố cổ, về những tối mùa đông hai đứa chạy qua phố Hàng Đào, hơi ấm từ bàn tay nắm chặt đủ xua tan cái lạnh. Giờ đây, bàn tay trái mình đã nứt nẻ, vết thương tê tái thành từng mảng tím ngắt.

Chiều tà, bài tập kết thúc. Mình lê từng bước về trại, chiếc dép cao su lạo xạo trên nền đất lạnh. Đồng chí Tiến đi cùng, giọng khàn đặc: “Nghe nói đơn vị mình sắp được phát áo ấm mới. Hy vọng đỡ rét!” Mình gật đầu, lòng chợt nhớ đến chiếc áo len tay mẹ đan năm ngoái. Mắt bà đã kém, vẫn cố luồn từng mũi kim.

***

Nhật Ký, Ngày 16/1/1968

Hôm qua hai tiểu đội đầu tiên đã lên đường vào Nam. Chắc hôm nay tới lượt tiểu đội của mình, từ sáng sớm đã có lệnh thu dọn đồ dùng cá nhân. Tiếng máy xe GAZ gầm rú ngoài sân tập. Mình đứng lặng trước doanh trại, hơi thở hòa vào sương sớm. Ba lô nặng trĩu vai, khẩu K44 đeo chéo ngực vẫn còn thoảng mùi dầu súng. Thao trường vắng lặng đến lạ, không tiếng hô hào, không bụi đất tung lên từ những bước chân huấn luyện. Chỉ còn gió rít qua rặng thông già, như tiếng thở dài của đất mẹ.

Mình mở cuốn nhật ký, lật từng trang đã viết. Những dòng chữ về đêm đầu tiên ở Bắc Kạn, về buổi tập bắn làm vai bầm tím, về cô bé cho sim chín… hiện lên sống động. Linh vẫn ở đó, trong từng trang giấy, nụ cười em ấm hơn cả lửa hồng đêm đông. Liệu mai này, mình có còn được nghe giọng em đọc thơ?”

Đồng chí huấn luyện viên bước đến, dúi vào tay mình gói kẹo lạc: “Mang theo. Đói lòng thì nhai.” Ông quay đi nhanh, nhưng mình kịp thấy đôi mắt đỏ hoe. Thắng, nhỏ hơn mình 2 tuổi, khẽ kéo tay áo mình: “Anh Huy ơi… Em sợ quá!” Mình xoa đầu nó, cười gượng: “Sợ thì hát to lên!”

Xe nổ máy dồn dập. Mình nhìn lại dãy lán trại đơn sơ, nơi từng đêm mình viết thư dưới ánh đèn dầu leo lét. Gốc cây già vẫn đứng đó, cành lá xạc xào như vẫy tay tiễn biệt. Mình nhặt viên đá cuội nhỏ dưới chân, cất vào ba lô. “Mang chút Bắc Kạn vào trận chiến vậy.”

Khẽ mở chiếc khăn tay Linh thêu tặng, mùi hoa nhài thoảng qua. Em gửi cả trời thương nhớ vào từng mũi kim. “Anh phải về…” Lời hứa ngày chia ly vọng lại. Mình thắt chặt khăn quanh cổ, như ôm lấy hơi ấm cuối cùng của quê nhà. Tạm biệt Bắc Kạn, tôi đi!

***

Nhật Ký, Ngày 17/1/1968

Chiều hôm qua, đoàn xe chở chúng tôi về tới Hà Nội lúc hoàng hôn chưa kịp tắt nắng. Đơn vị chỉ dừng chân hai tiếng ngắn ngủi. Mình mượn chiếc xe đạp cũ, đạp vội về phố Khâm Thiên. Con đường quen in dấu chân thuở thiếu thời giờ xuất hiện một hố bom, gập ghềnh như nỗi niềm đang xé nát tim. Đứng nép sau gốc me già cuối phố, mình nhìn về ngôi nhà nhỏ nơi bóng mẹ thoáng hiện sau khung cửa sổ mờ sương. Mẹ vẫn mặc chiếc áo nâu sờn vai ấy, tay vun vén mâm cơm chiều. Giật mình khi nghe tiếng Hoàng nô đùa với lũ trẻ hàng xóm, giọng cười trong trẻo vô tình khoét sâu thêm nỗi đau ly biệt. Thôi đừng vào… Để mẹ vui trong niềm tin mình còn ở Bắc Kạn… Mình tự nhủ, lòng quặn thắt. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên má, mặn chát như vị mồ hôi những ngày luyện bắn.

Vòng xe qua phố Hàng Đào, tim đập thình thịch khi tới ngõ nhà Linh. Cánh cổng gỗ đóng im lìm, chỉ có bé Thi ngồi thêu thùa trên thềm. Con bé ngước lên, đôi mắt tròn xoe: “Anh Huy! Chị Linh đi rồi, chị ấy vào Trường Sơn làm cô y tá từ tuần trước!” Gió chiều lướt qua hàng cây, mang theo hơi lạnh mùa đông. Tim mình chùng xuống, bàn tay nắm chặt ghi đông xe đến đau buốt. Linh ơi, sao em không đợi anh? Thương và lo cho em quá! Nhưng mình hiểu em đã chọn con đường của trái tim nhân hậu. Giữa núi rừng Trường Sơn đại ngàn, liệu chúng mình có vô tình bắt gặp nhau dưới tán lá rừng già? Những ngón tay em từng dịu dàng thêu đôi chim bồ câu, giờ sẽ nắm chặt băng gạc cứu thương. Chiến tranh chẳng phân biệt tiền tuyến, hậu phương, nhưng tình yêu của chúng mình cũng thế, mãi kiên cường giữa bão đạn.

Xe GAZ gầm lên tiếng giục giã, đưa chúng tôi rời xa Hà Nội, nơi ánh hoàng hôn đỏ như máu loang trên mặt nước. Tiếng pháo cao xạ rền vang, xé tan màn sương chiều. Từng chùm ánh sáng lóe lên phía chân trời Tây, tựa như lời tạm biệt cho cuộc chia ly không hẹn ngày gặp lại. Mình ngoái nhìn Hà Nội lần cuối, thành phố thân yêu đang thắt lưng nuôi chiến trường, vẫn kiêu hãnh, dịu dàng và kiên cường dưới trận mưa bom. “Hẹn em ở tuyến đầu Tổ quốc!” Mình thì thầm, tay chạm vào chiếc khăn tay Linh thêu, nơi đó còn vương hơi ấm một lời hứa. Bánh xe lăn về phương Nam, mang theo trái tim người lính trẻ, một nửa gửi lại mái nhà xưa, một nửa hướng về Trường Sơn đại ngàn…

***

"Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi,

Ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi.

Hà Nội ơi, phố phường dài ánh trăng mơ,

Liễu mềm nhủ gió ngây thơ, thấu chăng lòng khách bơ vơ.

* * *

Hà Nội ơi, những ngày vui đã ra đi,

Biết người còn nhớ nhung chi, hết rồi giây phút phân ly.

Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê,

Tóc thề thả gió lê thê, biết đâu ngày ấy anh về.

* * *

Một ngày mùa chinh chiến ấy,

Chim đã xa bầy mịt mờ bên trời bay.

Một ngày tả tơi hoa lá,

Ngóng trông về xa, luyến thương hình bóng qua.

* * *

Hà Nội ơi, nước hồ là ánh gương soi,

Nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình tiếng guốc reo vui.

Hà Nội ơi, kiếp đời buồn vướng buông trôi,

Nhớ về người những đêm rơi, nhắn theo ngàn cánh chim trời.

* * *

Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xưa,

Mắt buồn giăng những đêm mưa, não nùng hơi gió đong đưa.

Hà Nội ơi, nỗi lòng gửi gấm cho nhau,

Nhớ hoài chỉ biết thương đau, đắm say chờ những kiếp sau.

* * *

Hà Nội ơi, những ngày thơ ấu trôi qua,

Mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiều rủ bóng tiên nga.

Hà Nội ơi, mắt huyền ngây ngất đê mê,

Tóc thề thả gió lê thê, hãy tin ngày ấy anh về.

* * *

Một ngày tàn hương chinh chiến,

Lửa khói lặng chìm, tìm về nơi bờ bến.

Một ngày hồng tươi hoa lá,

Hát câu tình ca, nói lên lời thiết tha.

* * *

Hà Nội ơi, biết người còn có trông mong,

Hướng về ai nữa hay không, những ngày xa vắng bên sông.

Hà Nội ơi, những chiều sương gió giăng khơi,

Có người lặng ngắm mây trôi, biết bao là nhớ tơi bời."

(Lời bài hát Hướng về Hà Nội - Nhạc sĩ: Hoàng Dương)

​​​​​​​***

=>​​​​​​​​​​​​​​Đọc tiểu thuyết "Trước Lúc Bình Minh" của Rewrite

=>Danh mục các tác phẩm của Rewrite

0

Hãy là người bình luận đầu tiên nhé!

Bình luận

Chưa có bình luận
Preview Settings

Try It Real Time

Layout Type
    • LTR
    • RTL
    • Box
Sidebar Type
Sidebar Icon
Unlimited Color
Light layout
Dark Layout
Mix Layout