Chiều cuối thu Hà Nội, gió heo may se lạnh luồn qua những con phố nhỏ, mang theo mùi lá khô và hương hoa sữa thoảng nhẹ. Tôi đứng dựa vào gốc cây bàng già trước cổng trường Đại học Y, tay siết chặt tờ giấy nhập ngũ còn thơm mực. Đường phố vắng lặng khác thường, như thể thành phố đang nín thở trước cuộc chia ly.
Linh xuất hiện từ dãy phòng học, chiếc áo blouse trắng bay nhẹ trong gió. Dáng cô gầy hơn sau những đêm thức trắng ôn thi, nhưng đôi mắt ấy vẫn sáng ngời như ngày đầu gặp gỡ. Tôi giơ tay vẫy, nụ cười cố nén nỗi nghẹn ngào. Cô chạy vội đến, hơi thở gấp gáp: “Anh… Anh đăng ký rồi phải không?”
Tôi gật đầu, đưa tờ giấy cho cô. Linh cầm lấy, ngón tay run run lướt qua dòng chữ “Phạm Ngọc Huy, Tình nguyện nhập ngũ”. Đột nhiên, cô ôm chặt lấy tôi, khuôn mặt chôn sâu vào ngực áo. Tiếng nức nở của cô như dao cứa vào tim: “Sao anh không nói với em từ sáng? Em… Em còn định đăng ký cùng anh…!”
Tôi xoa lưng cô, cố giọng bình thản: “Em còn phải học Y để cứu người. Anh ra trận, em ở lại hậu phương, thế mới là đồng đội chứ!” Linh ngẩng mặt lên, nước mắt lăn dài trên gò má hồng. Tôi lau vội cho cô, giọng đùa cợt: “Nào, cô bác sĩ tương lai! Khóc thế này mai mốt ai dám làm bệnh nhân?”
Cô đấm nhẹ vào ngực tôi, mím môi cười qua hàng mi ướt: “Anh đúng là đồ ngốc!”
Chúng tôi dạo bước ven Hồ Gươm, tay nắm tay chưa bao giờ siết chặt đến thế. Ánh chiều tà nhuộm Tháp Rùa thành màu đồng cổ kính. Linh ngồi xuống bậc đá, lấy từ túi xách ra cuốn sổ tay đầy ký hiệu y khoa: “Anh phải nhớ kỹ nhé! Vết thương phần mềm thì rửa bằng nước sạch, băng ép cầm máu. Sốt cao thì chườm khăn ấm…” Giọng cô run run nhưng rành rọt từng chi tiết, như thể đang giảng bài cho cậu sinh viên năm nhất.
Tôi giả vờ nhăn mặt: “Em định biến anh thành bác sĩ dã chiến à?” Linh trừng mắt: “Cứ đùa đi! Anh mà để bị thương không biết xử lý, em sẽ…” Cô bỗng lặng bặt, mắt lại rưng rưng. Tôi vội kéo cô vào lòng, hát khẽ mấy câu “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ…” Linh cười trong nước mắt, giọng líu lo hòa theo: “Anh trai làng có đi chiến dịch mùa xuân…”
Nắng chiều dần tắt, bóng tối mềm mại buông xuống. Tôi nghiêng đầu hôn lên mái tóc cô, hơi thở thoảng hương hoa nhài. Linh quay lại, đôi môi ấm áp chạm vào môi tôi, nụ hôn mặn vị nước mắt: “Em sẽ đợi anh về.” Giọng cô thì thầm như lời thề.
Bỗng Linh đứng phắt dậy, kéo tay tôi chạy: “Đi với em!” Chiếc xe đạp cà tàng của tôi rít lên ken két dưới sức nặng hai người. Cô vòng tay qua eo tôi, má áp vào lưng áo trắng đã ngả màu. Gió lạnh ùa vào mặt, nhưng chỗ tay cô nắm lại nóng hổi.
Chùa Trấn Quốc hiện ra thấp thoáng sau rặng liễu rủ. Chúng tôi quỳ trước điện Phật, khói hương quyện vào tiếng chuông chùa thong thả. Linh chắp tay run rẩy: “Con cầu xin hòa bình sớm lập lại, để người con thương được trở về…” Tôi thì thầm bên tai cô: “Con cầu duyên này nếu không trọn, xin kiếp sau được nối lại…”
Cô xoay sang ôm chầm lấy tôi, nước mắt thấm ướt vai áo: “Không được nói vậy! Anh phải về, dù là…” Tôi đặt tay lên miệng cô, nuốt nghẹn nỗi đau vào trong: “Em đừng khóc, anh nhất định sẽ về!” Hoàng hôn nhuộm tím mái chùa, bóng hai đứa in dài trên sân gạch như muốn níu kéo phút giây cuối cùng.
Trên đường về, Linh ghì chặt tay tôi như sợ gió cuốn đi mất. Bài hát “Lá Xanh” vọng lại từ chiếc loa phường, lời ca rộn rã vui tươi mà sao nghe xót xa: “Đi đầu quân! Đi đầu quân! Tất cả cho tiền tuyến, Mau lên đi, Hỡi các anh trai làng.”
Căn nhà nhỏ phố Khâm Thiên chìm trong mùi khói bếp lẫn mùi nước mắt. Tôi bước qua ngưỡng cửa, tiếng xoong chảo lách cách trong bếp im bặt. Mẹ đứng tựa vào cánh tủ gỗ, tay cầm chiếc đũa cả dính cơm cháy, mắt đỏ hoe nhìn tôi như thể tôi vừa từ cõi chết trở về.
“Con về rồi à?” Giọng mẹ khản đặc.
Tôi gật đầu, cất tiếng cười gượng: “Mẹ nấu canh cá phải không? Thơm quá!” Mẹ vội quay đi, dùng tạp dề lau vội mặt. Trên mâm cơm, bát canh cà bốc khói nghi ngút, đĩa cá kho nghệ vàng ruộm, toàn những món tôi thích. Bố ngồi phịch xuống chiếc ghế mây, chai rượu nếp cẩm đã vơi nửa. Ông chẳng nói chẳng rằng, chỉ gõ đũa lên mâm kêu “lách cách”, tiếng động khô khốc xé toang không khí.
Hoàng lén ném cho tôi ánh nhìn lo lắng từ góc nhà. Thằng bé cầm chiếc quạt nan phe phẩy cho mẹ, nhưng mắt cứ dán vào tờ giấy nhập ngũ tôi để trên bàn thờ.
“Ăn đi các con!” Mẹ vừa xới cơm vừa khóc, tay run đến nỗi hạt cơm vương vãi khắp mâm. Bát cơm trước mặt tôi chất cao như núi, có cả miếng cá phần bụng béo ngậy mẹ thường dành cho bố. Tôi cắn trái cà muối chua, vị chát nghẹn lại cổ họng.
Bỗng bố đập mạnh chén rượu xuống bàn: “Bà nó im đi không? Não hết cả ruột!” Cả nhà giật mình. Mẹ nuốt ngược tiếng nấc, đôi vai gầy rung lên từng hồi. Tôi đưa tay nắm tay mẹ, những ngón tay chai sạn vì làm lụng thắt chặt lấy tôi.
“Con… Con không mang theo áo len này sao?” Mẹ lấy từ trong rương ra chiếc áo dệt kim cũ kỹ, đường chỉ đã bạc màu: “Mùa đông năm ngoái con mặc vừa mà, lát nữa mẹ vá lại cổ cho…”
Tôi lắc đầu: “Mẹ ơi, quân đội có phát đủ đồ ấm rồi.” Mẹ giằng lấy ba lô tôi đang xếp, nhét vào đó nào xà phòng thơm, lọ dầu gió, cả gói kẹo lạc tự gói bằng giấy báo: “Cứ mang theo, phòng khi…” Bà bỗng lặng đi, như sợ nói ra điềm gở.
Bố đứng dậy, hơi rượu nồng nặc phả vào không khí. Ông vịn vai tôi, bàn tay thô ráp như vỏ cây: “Nhớ nghe lời cấp trên. Đừng cậy giỏi toán mà bàn lùi, chiến trường không như phòng thi!” Giọng ông khàn đặc, mắt đỏ ngầu. Tôi gật đầu, ngạc nhiên khi thấy bố ôm tôi, cái ôm đầu tiên từ khi tôi biết nhớ.
Hoàng lấp ló ngoài cửa, tay ôm quyển sổ da đã sờn góc: “Anh… Anh cầm cái này.” Thằng bé đẩy vào tay tôi cuốn sổ nó vẫn giấu như báu vật. Trang đầu tiên có dòng chữ nguệch ngoạc: “Ngày 15/3/1967: Anh Huy dạy mình giải bài tập hình, ước gì mình thông minh như anh…”
“Anh hứa sẽ viết thư mỗi tuần nhé!” Tôi vỗ vai em trai, cố nuốt trôi cục nghẹn trong cổ. Hoàng khóc nức nở, nước mắt rơi lên trang giấy làm nhòe nét mực đen.
Đêm ấy, căn gác xép nhỏ vang tiếng dế kêu não ruột. Tôi trằn trọc nghe tiếng thở dài từ phòng bố mẹ, tiếng mẹ khóc nghẹn trong gối, tiếng bố hút thuốc lào từng hơi dài. Dưới nhà, Hoàng trở mình kêu cót két trên giường tre.
Tôi mở lá thư Linh đưa chiều nay. Trên góc tờ giấy, cô vẽ nguệch ngoạc hình trái tim có hai chữ H-L, bên dưới là dòng chữ run run: “Nhớ giữ ấm, đừng để bị ốm.” Mùi mực vẫn thoang thoảng hương hoa nhài, bông hoa cô kẹp theo lá thư.
Bỗng tiếng chân nhẹ bên cửa. Hoàng đứng đó, tay ôm gối: “Anh ơi… Em ngủ với anh được không?” Thằng bé cuộn tròn trong chăn như con nhộng, đầu tựa vào vai tôi: “Anh hứa sẽ về dạy em giải toán nhé? Em… Em sợ không có anh…”
Tôi xoa đầu nó, giọng cười vỡ vụn: “Lớn rồi còn khóc nhè! Mai mốt anh về, mày phải giải được phương trình bậc hai không cần anh chỉ đó!” Hoàng cười hức hức, nước mắt còn đọng trên mi.
Trăng khuya lọt qua khe cửa, vẽ lên sàn nhà hình vuông ánh sáng mờ ảo. Tôi nghĩ về Linh, giờ này hẳn cô cũng trằn trọc bên cửa sổ nhà mình, đôi mắt hướng về phía Khâm Thiên. Tiếng mẹ thút thít vọng lên, tôi thầm hỏi không biết đêm nay, trên khắp Hà Nội, có bao nhiêu căn nhà cũng đang khóc như thế này?
Sáng hôm sau, tôi đạp xe qua phố Hàng Đào khi sương sớm còn phủ trắng mái ngói. Linh đứng tựa cổng nhà, tay ôm chiếc cặp da cũ kỹ đựng đầy thuốc men cô tự chuẩn bị cho tôi. Áo hoa tím của cô nổi bật giữa dãy tường vàng úa, như đóa lục bình mọc lên từ đống gạch vụn.
“Anh ăn sáng chưa?” Cô dúi vào tay tôi gói xôi nóng hổi còn thơm mùi lá dong. Tôi cắn một miếng, vị ngọt của đậu xanh hòa với mặn mà của thịt mỡ khiến bụng réo òng ọc. Linh bật cười: “Đúng là thằng đói! Ăn chậm thôi, không nghẹn đấy!”
Chúng tôi lang thang khắp những con phố quen thuộc. Nắng thu vàng óng trải dài trên vỉa hè, len lỏi qua kẽ lá me rụng. Linh chỉ tay về phía cổng trường Y: “Hồi mới vào trường, em từng lạc vào nhà xác buổi đêm. Sợ đến mức đánh rơi cả chìa khóa!” Tôi cười ngặt nghẽo: “Thế mà dám đòi vào chiến trường?” Cô đỏ mặt, đấm nhẹ vào vai tôi: “Anh đừng nhắc chuyện xấu hổ đó nữa!”
Bỗng tiếng loa phường vang lên rộn rã: “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ…” Linh khẽ hát theo, giọng trong trẻo hòa cùng điệu nhạc. Cô nắm chặt tay tôi: “Anh nhớ không? Hôm chúng mình gặp nhau ở thư viện, bài hát này cũng đang phát…” Tôi gật đầu. Ký ức ùa về như phim quay chậm, buổi chiều năm ấy, tôi ngồi đọc cuốn “Giải tích hàm”, để rồi mê mẩn những dòng chữ nắn nót Linh ghi bên lề sách hơn cả công thức toán học.
Chúng tôi dừng chân trước tiệm sách cũ trên phố Tràng Tiền. Linh lục tìm mấy cuốn y khoa, mặt hào hứng: “Anh xem này! Cuốn Giải phẫu học bản dịch tiếng Pháp này hiếm lắm!” Đang say sưa, cô bỗng chết lặng khi thấy tấm poster “Thanh niên lên đường tòng quân” dán ngay góc tường. Những người lính trẻ trong ảnh cười tươi nhưng đôi mắt Linh lại vội quay đi.
“Em ơi…” Tôi kéo cô ra bờ hồ, nơi những cô gái Hà Thành đang rủ nhau chụp ảnh kỷ niệm trước khi người yêu lên đường. Linh nhìn họ, giọng chợt trầm xuống: “Anh hứa đi, dù có thế nào cũng phải về. Nếu anh…” Tôi bịt miệng cô lại: “Nếu anh có thành thương binh, em sẽ phải chịu khó chăm sóc anh cả đời đấy!”
Cô đẩy tay tôi ra, mắt long lanh: “Em không sợ! Em chỉ sợ…” Một đoàn thanh niên xung phong đi qua, tiếng hô “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!” át đi phần còn lại trong câu nói của cô. Linh siết chặt tay tôi hơn, như muốn truyền hơi ấm qua từng ngón tay.
Chiếc xe đạp chở chúng tôi lượn vòng qua phố cổ. Trước cửa Nhà Hát Lớn, một bà mẹ đang thắt khăn cho con trai, giọng nghẹn ngào: “Con ăn ở cẩn thận nghe không?” Cậu thanh niên gật đầu, mắt đỏ hoe nhưng miệng vẫn cười. Linh quay mặt vào lưng tôi, tôi cảm thấy áo ướt đẫm một mảng.
“Anh này!” Cô bỗng xuống xe, kéo tôi vào quán nước ven đường. Linh lấy từ túi ra chiếc hộp thiếc nhỏ, bên trong là cuộn băng gạc và lọ thuốc sát trùng: “Đây là em tự làm đấy! Nhớ thay băng mỗi ngày, đừng để vết thương nhiễm trùng…” Tôi giả vờ thở dài: “Cô y tá tí hon của tôi khó tính quá! Thôi được rồi, anh hứa sẽ nguyên vẹn trở về như cục tẩy này!” Tôi lấy từ túi ra cục tẩy hình trái tim cô tặng năm nào.
Linh bật cười, nước mắt còn đọng trên mi: “Đồ ngốc! Cục tẩy thì dùng dần rồi cũng mòn đi thôi…” Tôi nắm lấy tay cô: “Nhưng tình em dành cho anh thì không bao giờ cạn, phải không?”
Chiều xuống dần, chúng tôi ngồi trên bờ đê sông Hồng. Những con diều giấy của lũ trẻ chấp chới giữa trời xanh. Linh tựa đầu vào vai tôi, giọng mơ màng: “Hòa bình rồi, mình sẽ xây nhà nhỏ cạnh bệnh viện. Anh dạy toán, em làm bác sĩ…” Tôi chỉ lên đàn chim én đang liệng: “Rồi mình sẽ có một đàn con như thế!” Cô đỏ mặt, đánh yêu vào tay tôi: “Ai đồng ý lấy anh đâu mà đòi đẻ!”
Bỗng cô nghiêm mặt: “Nếu anh không về…” Tôi ngắt lời: “Thì em cứ đi lấy chồng nhé!” Linh đứng phắt dậy, mắt lửa giận: “Anh dám nói vậy lần nữa, em sẽ đăng ký đi thanh niên xung phong ngay!” Tôi vội vã xin lỗi, hứa thề sẽ giữ mạng sống bằng mọi giá.
Trên đường về, chúng tôi gặp đoàn học sinh Trường Bưởi đang tập hợp. Bài “Lá Xanh” vang lên từ chiếc đàn guitar mộc: “Anh là lá trên cành ngại chi gió mưa…” Linh nắm tay tôi chạy ùa vào dòng người, cùng hát vang lời ca như thách thức định mệnh. Trong khoảnh khắc ấy, giữa những cái nắm tay siết chặt và nụ cười rạng rỡ, tôi tin rằng tuổi trẻ chúng tôi có thể đạp đổ mọi bom đạn chiến tranh.
Tối muộn, khi trả Linh về nhà, cô đưa tôi chiếc khăn tay thêu đôi chim bồ câu: “Em đã thêu suốt đêm đấy!” Cô hãnh diện chỉ những đường chỉ chập chờn. Tôi cười: “Chim câu này nhìn như… Giun béo!” Linh trợn mắt, giằng lại khăn: “Trả em!”
Chúng tôi đùa giỡn dưới gốc bàng già, tiếng cười vang xa trong đêm tĩnh lặng. Rồi đột nhiên, Linh ôm chầm lấy tôi: “Nhớ em nhé! Dù có ở đâu, gặp ai… Cũng phải nhớ em!”
Trăng non lơ lửng trên đầu như lưỡi liềm cắt đứt những lời hứa hẹn. Tôi đạp xe về nhà, để lại sau lưng bóng hình cô gái nhỏ đứng lặng dưới cột đèn vàng vọt. Bài hát “Lá Xanh” vẫn văng vẳng đâu đó, như lời nhắc nhở về một mùa xuân sẽ trở lại…
Sáng sớm hôm sau, phố Khâm Thiên chật cứng tiếng còi xe và tiếng giày đinh rầm rập. Tôi đứng trước cổng nhà, ba lô đè nặng đôi vai mà lòng nhẹ bẫng như chiếc lá khô. Bố vỗ mạnh vào lưng tôi, giọng khàn đục: “Cứ bình tĩnh mà làm nhiệm vụ!” Mẹ ôm chặt tôi một lần cuối, chiếc khăn mùi xoa ướt đẫm nước mắt ép vào ngực tôi. Hoàng dúi vào tay anh gói xôi nóng, mắt đỏ hoe nhưng cười gượng: “Anh nhớ… Nhớ gửi thư về!”
Linh xuất hiện cuối phố, áo trắng bay trong làn gió chớm đông. Cô chạy vội, hơi thở hổn hển, tay nắm chặt chiếc khăn tay thêu dở: “Em… Em thức cả đêm để hoàn thành nó!” Cô đưa cho tôi mảnh vải trắng tinh, nơi đôi chim bồ câu chụm mỏ vào trái tim còn thừa một nửa đường chỉ. Tôi cười, giọng nghẹn lại: “Chim của em… Giống gà con quá!” Linh bật cười trong nước mắt, đấm nhẹ vào ngực tôi: “Đồ vô duyên!”
Tiếng còi xe GAZ rú lên xé toang không khí. Đoàn tân binh xếp hàng lên xe, có người huýt sáo bài “Lá Xanh”, có kẻ cúi đầu nuốt ngược nỗi niềm. Tôi siết tay Linh lần cuối, lòng bàn tay cô ướt mồ hôi lạnh. “Anh phải về!” Cô thì thầm như lời cầu khẩn. Tôi gật đầu, nuốt chửng lời hứa vào cổ họng.
Bỗng tiếng loa phường réo gắt: “Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 15km…” Mẹ tôi ngửa cổ nhìn lên bầu trời, Hoàng túm chặt tay áo tôi. Linh mặt tái mét nhưng vẫn đẩy tôi về phía xe: “Anh lên đi! Em… Em sẽ vào hầm trú!”
Tôi trèo lên thùng xe, tay nắm chặt thành sắt lạnh ngắt. Chiếc GAZ rùng mình khởi động, khói đen cuồn cuộn phủ kín dãy phố. Linh chạy theo, chân đất đập mạnh trên mặt đường, gió thổi tung mái tóc dài. “Huy ơi!... Nhớ viết thư!” Tiếng gọi của cô tan vào tiếng máy nổ ầm ầm. Tôi vươn người ra ngoài, gió tạt vào mặt mang theo mùi khói và chút hương hoa nhài thoảng từ chiếc khăn tay.
Xe rẽ qua góc phố, bóng Linh nhỏ dần phía sau. Thằng bé bán báo hét vang: “TIN CHIẾN THẮNG TỪ MIỀN NAM!” Giọng non nớt mà đầy khí thế. Tôi nhìn xuống bàn tay đang nắm chặt chiếc khăn thêu, những đường chỉ chập chờn như trái tim rạn vỡ.
Bỗng tiếng máy bay tiêm kích của ta gầm rú trên đầu. Xe GAZ phóng vút qua cầu Long Biên, dòng sông Hồng cuộn sóng đỏ ngầu như máu. Tôi ngửa mặt nhìn lên trời, nơi những chấm đen đang lao vun vút. Bài hát “Lá Xanh” lại vang lên từ đâu đó xa xa, lời ca lẫn vào tiếng đạn pháo cao xạ xé gió.
Tôi ép chặt chiếc khăn vào ngực, mắt nhắm nghiền. Trong khoảnh khắc ấy, tôi thấy Linh đứng giữa cánh đồng đầy hoa cúc dại, nụ cười cô rạng rỡ hơn cả mặt trời ngày hòa bình…
***
=>Đọc tiểu thuyết "Trước Lúc Bình Minh" của Rewrite
Bình luận
Chưa có bình luận