Buổi sớm của ngày cuối trong mùa kể, con sông Hậu nằm như một tấm vải thô đã phơi đủ nắng, dẻo vừa, mùi bùn ròng dưới phên gom lại thành thứ ấm mượt như cháo gạo rang trên bếp hiền, mùi lá dứa mẹ hãm từ canh khuya treo trong không khí như sợi khói còn chưa chịu tan, Thu An mở then, đưa tay miết qua mép phên nơi vết dầu bóng đã hóa da, nghe trong đầu ngón một tiếng “yên” bé xíu như tiếng cá lia thia cựa nhẹ dưới tay đứa nhỏ, nó rót hai chén nước, một chén đẩy về phía mẹ theo nếp đã thuộc đến mức không cần nghĩ, chén kia đặt sát mép khăn, để hơi ấm như một lời chào nhỏ đi dọc đường chỉ xanh, buộc lại mối đã quen từ ngày nó quyết định quay về bờ.
Tin báo của thủ từ ao đình gửi từ tờ mờ trong một phong thư chữ mảnh “chiều nước ròng, bến rộng, mời gánh nối bờ cho một suất trả lễ”, dòng chữ ngắn nhưng có mùi mát của gian hậu đình, như mùi bóng mát liễu rủ hôm Lớp yên dã ngoại, trưởng ấp ghé ngay sau, tay cầm tờ giấy của Phòng văn hóa, giọng vừa đủ “đêm kết mùa, không cần vé, đề nghị giữ yên như bữa trước”, anh thợ dây dựng dựa vào cột một bó đèn dầu đã chỉnh bấc, nói “để hơi ấm đi đường ngắn”, nhóm nước ở góc râm treo lại tấm giấy “Xin uống nước chậm” mép đã loang mưa mà chữ còn hiền, bảo xin giữ thêm tuần cuối, ông chủ quán cà phê sách nhắn sẽ đem theo một rổ ly sạch khác, để ai tới tay không mà thèm nước ấm thì có chỗ mà rót, dì Tám gửi qua rổ bánh ít lá gai còn nóng, tờ bút lông “ơn” chị bán hàng viết vẫn cài trên quai gánh, chữ đen như mộc, ấm như lò.
Bà Bảy nhìn mọi thứ như người chủ bếp trước buổi giỗ, tay nhón muối thả vào ấm một động tác nhỏ mà giữ chặt mạch bờ, mắt sâu như giếng cũ nhìn con gái dài hơn thường, nói chậm như dặn một sợi chỉ “bữa nay kể cho xong mùa, nhớ cột thêm mối ‘về’”, Thu An cười, nghe trong hai tiếng “cột thêm” kia có bóng của bao đêm nó lặng lẽ vẽ trong không khí sợi dây nối bờ nhà với ao đình, nối ao đình với công viên, nối công viên với hiên bếp, nối hiên bếp với một đêm trăng mỏng như vỏ hến mài, nó đáp “dạ”, rồi đi một vòng, chạm vào sào, chạm vào phên, chạm vào nút tháo khẩn ở sào thứ ba, chạm vào tấm vải thô căng làm “màn nghỉ”, chạm vào tấm bảng “Xin nói nhỏ” đã lau khô, chữ phấn còn vết in của bàn tay con Nụ, chạm vào bốn chữ “rành - vừa - yên - nghe” dán ở cột, sờ qua chữ “nhịn”, cúi thấp tay chạm vào chữ “ơn” đặt sát chân như viên đá kê sào, ngước nhìn chữ “chia” ông Trọng mới treo hôm “đêm không vé”, rồi mỉm cười vì thấy hết thảy đang ở đúng chỗ hẹn.
Đến gần trưa, gió từ đầu vàm đưa vào một hơi mặn lẫn mùi lúa, tấm phên khẽ rít như sợi chỉ lướt qua da, Tín chống mái ra giữa dòng thử nước, anh Hai gõ nhẹ vào đầu cọc tre mới vót, tiếng vang gọn như tiếng ai gõ cửa đón người thân, cô Ba lau mặt đồng bằng khăn ấm, đặt thử mũi ngón tay áp út vào mép xem tiếng đã nằm thấp chưa, ông Sáu vuốt sợi tơ, kéo hai dây như người xoa lưng một đứa nhỏ ngủ trưa, My mở ống giấy, lôi ra mảng “mồ hôi vảy cá” định để dành mùa nước lớn nhưng bữa nay muốn cho bọn trẻ tới sớm sờ lần cuối, vì mùa qua chúng đã lớn hơn một hạt mưa, Khoa ôm hộp máy dựa cột “ơn”, bảo tối nay bật ít, ghi dài hơn mười giây mà vẫn ít hơn phố, chỉ để giữ lại hơi thở sau một khoảng im, Phúc đeo máy ảnh nhưng nói đứng xa, kể bằng miệng, để chữ lên chậm, ông Trọng mở ống mực tàu, bảo bữa nay treo một chữ cuối cho mùa, chữ “về”, viết thấp, để người đi lỡ bước còn thấy đường.
Buổi xế, trời gom mây lại như ai kéo màn bếp, mùi mưa không gắt, chỉ làn như người rót nước vo gạo lần hai, trưởng ấp đi dọc bờ dặn “lối vào bên trái, lối ra bên phải”, tay giữ cây thước gỗ sến mòn cạnh như giữ một câu đã thuộc, nhóm thanh niên đã biết việc từ bữa “đêm không vé”, đứng nép ở góc bến, tay cầm dây mềm buộc vạch phấn cho khỏi trôi, không giục, không chỉ, không xua, chỉ gật, chỉ mỉm cười, con Nụ chạy như con chích vào ra, ôm bảng, thỉnh thoảng dừng lại lau đi vệt phấn long do mưa trước còn lảng bảng, cặp răng sún lóe lên như hai bông súng non mới trồi, nó nghiêm có khi như lính gác đình, nhưng thi thoảng lại nhón chân chấm vào mặt nước một cái, rồi rụt tay, cười, như con cá tới sát cọc bờ rồi bơi ra.
Người làng tới sớm vì rút kinh nghiệm, chỗ ghế tre lót chiếu đầy dần, ông cụ đội nón cối lần trước giận dỗi ao đình nay đã thôi, ngồi cạnh chú Bảy Còng, hai người nói những câu không dài mà không cộc, mấy anh công nhân ca ngày ngồi sau lưng nhà giáo hưu trí, giữa họ là cô gái công nhân may tay còn đeo thước dây, mấy sinh viên kiến trúc cũ tìm đúng chỗ gió đã học, mở sổ mà không viết, một nhóm người thành phố lần trước rụt rè nay tới sớm, tự ngồi hàng cuối, đọc bảng xong thì cất điện thoại, chị bán hàng để rổ bánh ít cạnh tờ “ơn”, ông chủ quán cà phê bày ly sạch ở góc râm, anh thợ dây chỉnh lại bấc đèn dầu, tấm giấy “Xin uống nước chậm” như một chiếc bóng nghiêng che lên lưng người qua lại, làm ai cũng hạ vai.
Ngay trước hoàng hôn, bưu tá huyện đạp xe tới, áo khoác vắt sau lưng ướt loang, đưa một phong thư của Sở, giấy có dấu đỏ, chữ lễ mà mộc, ngắn gọn “đề án ‘di sản đương đại’ duyệt phần bờ với ghi chú ‘mùi đo bằng hơi - nước là họa sĩ’, xin giữ đúng hơi, xin cho mượn bốn chữ treo ở cột để treo ở sảnh, xin gửi lịch ‘không lời bình’ trong tháng sau”, bà Bảy đọc xong, “ừ” rất nhỏ, bảo “gửi, nhưng nhớ viết thêm ‘ngồi yên ba phút’ bên dưới”, ông Trọng nghe liền cười, bút đã nghiêng, như thể chữ tự nhảy lên giấy, còn Thu An thì thấy trong ngực một cái mạch nhỏ vỗ hai nhịp, không cao, không nhanh, như tiếng bấc đèn vừa hạ xuống.
Trăng bật lên khỏi đọt bần như cái vỏ hến mài, mỏng mà đủ, bờ người đã chật mà không dồn, đèn dầu đặt sau tấm vải thô hắt ra hơi ấm không chói, mùi lá dứa chờ đúng nấc mới thả, dây tơ đờn nằm im trên tay ông Sáu, mặt đồng của cô Ba nằm im trong lòng, chờ một ngón tay gọi dậy, Thu An nhìn kim đồng hồ không số, biết đã tới lúc, nó nhón tay chạm công tắc, hạ bật rồi rút xuống nửa nấc, ánh đi sau tiếng như đã thành lời thề, ông Sáu kéo dây đầu tiên như kéo môi cười của một người già hiền, cô Ba gẩy chập chõa như gõ cửa bếp, mùi lá dứa thả đúng lượng ghi trong sổ mấy đêm trước, đi ngang mép phên mà không vội, con cá gỗ lưng dầu bóng lướt vào nước, nhận đợt sóng thứ nhất như người đặt chân qua khung cửa, đợt thứ hai như người nhẫn vai qua bậc hiên, đợt thứ ba như người được đỡ lưng bằng bàn tay vô hình, người bờ thở ra đồng loạt như vừa đặt chén xuống mâm không kêu.
Câu chuyện đi, không phải bằng một lối mới, mà bằng một nhịp đã tìm được tiếng của nước, Thu An kể tích Mộc Tinh như bà ngoại đã từng kể mà nó chỉ thêm vài mối thắt bằng đèn, bằng mùi, bằng tiếng, có chỗ nó rút tay khỏi công tắc nhường cho gió chở, có chỗ nó hạ mùi để mắt người nhìn sang nhau, có chỗ nó kéo tiếng xuống để tai người nghe được tiếng thở của bờ, tới giữa đoạn, một đám mây mỏng quẩn qua, mặt sông đẹp như tấm lụa người khéo ủi, trăng chạm vào lưng cá, vảy gỗ không lấp lánh như kim tuyến mà mịn như da trái bưởi non, cậu bé lần trước hỏi “rồng đâu” ngồi trên đùi cha nay không hỏi nữa, tay đặt lên ngực, mắt nhìn mặt nước như đã biết câu trả lời, người cha nghiêng đầu chạm trán con, cả hai thở cùng một hơi.
Giữa đợt thứ tư, Thu An không vội đẩy cá lên, nó để cá nằm im, ánh lùi nửa bậc, chập chõa im, đờn im, bờ im, khoảng im dài hơn mọi bữa, đủ để người lỡ tay hăng sẽ nghi ngờ, đủ để người quen vội sẽ so vai, đủ để người đi phố thấy mình đã để quên hơi thở ở đâu đó, nhưng bờ này đã học yên, người không loay hoay, chỉ cúi đầu, khói lá dứa dừng một nấc rồi tan, vệt trăng mỏng trên mặt nước rút rồi buông, gió đứng, nước đứng, tiếng côn trùng ở ruộng dệt một đường đều như khung cửi, rồi con cá rung lưng một cái, như một dấu “ừ” nằm ở cuối câu, không cao, không dài, không giành, chỉ đủ cho người bờ gật trong ngực.
Tới khúc “Cá hóa”, Thu An không cho cá bốc khỏi mặt ánh, nó để cá lướt ngang qua lớp bạc non như một người chọn đi qua cây cầu gỗ chứ không nhảy, lưng cá ngóc lên một phân vừa để ánh trăng dính vào, thành ra rồng không hiện ở chỗ ai mong mà hiện ở chỗ ai chịu đợi, ông Sáu đẩy dây lên nửa cung rồi rút, cô Ba gõ một tiếng xa đặt cạnh một tiếng gần, hai tiếng ôm lấy nhau như hai người quen cũ đứng hai bờ gọi khẽ, mùi lá dứa lùi về nấc thấp hơn thường, mở lối cho một mùi khác rất mỏng đi qua, mùi lúa từ cánh đồng bên kia, bờ người mỉm cười, một bà cụ thì thầm “đủ rồi”, Khoa đứng ở góc “ơn” nhẹ tay bấm một khung, chỉ một khung rồi cất, Phúc khẽ hắng giọng như muốn nói một câu mà rồi thôi, vì biết chữ nói ra lúc này sẽ thừa, ông Trọng đưa ngón tay dính mực đặt lên cạnh cột có chữ “về” mới treo, mắt rướm nước mà không cho rơi.
Màn chính khép lại, không tiếng “bis”, không tiếng gọi thêm, chỉ tiếng “dạ” rơi xuống bờ như hạt cốm, lớp “tay nghề bờ bãi” mở ra tự nhiên như bếp mở sau mâm cúng, tụi nhỏ xếp hàng, mỗi đứa một sợi dây chuối, một con cá lá dừa, một chén nước đầy tới miệng, bài thi “đi chén” lần này không chấm điểm, ai đổ thì làm lại, ai giữ được thì ôm bảng của con Nụ một phút, đứa nào cũng có lượt ôm, con Nụ đứng nhìn tụi bạn ôm bảng mà cười sún, mắt long lanh như vừa bắt được con đom đóm, cô gái công nhân may bữa trước tới đứng thẳng giữa hàng, buộc một nút trượt vừa tay, gỡ một nút khẩn gọn chỗ, cười mà mắt ươn, anh thợ dây đưa một ngọn đèn dầu nhỏ vào tay cô, bảo “cầm thử cho ấm”, cô nhận, người bớt run, tiếng chập chõa ở góc gần hạ thấp như một cái chăn mỏng đắp qua vai ai vừa khỏi sốt.
Đúng lúc ấy, mưa rút mỏng vào đâu đó, trời nép mây, một vệt gió từ phía ao đình đưa qua như người quen gõ cửa, thủ từ không tới nhưng như có mặt, bởi tiếng mõ đâu đó trong trí nhớ của bờ gõ một tiếng rất khẽ, tiếng ấy làm con cá lướt thêm một vòng, như chào người không tới mà vẫn ngồi, Thu An nhìn qua tấm ảnh đen trắng của ông nhà treo ở gian nhỏ, bỗng thấy đường chỉ xanh trên khăn nơi bàn thờ như dài thêm, kéo một mối nữa, mối “về”, mối nối những bữa đã kể với bữa sắp ngừng, nối những người đã tới với những người đang tới, nối một đứa trẻ sún răng ôm bảng với một bà cụ răng đen nheo mắt chờ chữ “đủ”.
Sau buổi, người rời bờ như người rời mâm cơm, không giẫm lên chân nhau, không đẩy, không chạy, vài người cúi chào một cái rất nhỏ, vài người đến chạm đầu ngón tay vào cột có chữ “về”, như chạm vào tấm lưng của một người thân sắp đi xa ít ngày, đoàn thanh niên nhặt những vỏ kẹo lạc, cột lại dây mềm, nhóm nước ở góc râm gấp tấm bảng “uống chậm” mà xin để lại một hôm nữa, chị bán hàng ôm rổ bánh ít vơi hơn nửa, nói “no ‘ơn’ là no bụng”, ông chủ quán cà phê gom ly sạch mà miệng vẫn cười yên như người vừa đọc xong một đoạn sách dài, con Nụ chạy theo người cuối cùng, giơ bảng lên như giơ tay chào, rồi chạy về bậc tre, ôm bảng gục đầu ngủ khi chưa kịp bỏ xuống.
Dọn bờ đêm cuối giống như dọn bếp nhà sau một mùa làm rộn mà không ồn, anh Hai cuộn dây, đặt sào vào chỗ cũ, Tín tháo nút, hơ khô sợi, My lau phên bằng khăn vắt kỹ để mùi lá dứa còn thấm một chút, ông Sáu thả lỏng dây tơ như tháo giày cho ngón chân, cô Ba phủ mặt đồng bằng mảnh vải mỏng, Khoa mở hộp kiểm một khung duy nhất đã ghi rồi gập lại, Phúc tháo tờ “Chậm” cất vào ống bìa, nói mai viết tiếp “Về”, ông Trọng gấp tờ giấy dó có chữ “về” treo thấp đem vào, bút mực đặt lên mép tách, bà Bảy rửa mấy cái ly sạch của quán sách, phơi nghiêng để ráo, nhón muối thả vào ấm nước như đã thả bao mùa, rồi lấy chiếc khăn có đường chỉ xanh đặt lại lên bàn thờ Tổ, đường chỉ nằm thẳng như bờ vừa được vuốt bằng lòng tay ấm.
Thu An ngồi xuống bậc tre, mở sổ, tay viết một hàng chữ dài mà gọn “mùa kể tròn - bờ không lấn - nước không cãi - mùi đi trước - đèn đi sau - tiếng giữ yên - chữ treo thấp - người ngồi đúng chỗ - ‘đủ’ hiện đúng lúc - ‘về’ đứng cạnh ‘ơn’”, nó chép thêm tên người góp vào một mùa như chép tên vào một tấm chiếu đan chung: thủ từ ao đình gửi tiếng mõ; dì bếp múc chè sen; cô giáo thị trấn dắt trẻ ngồi yên; đoàn thanh niên giữ vạch mềm; anh thợ dây sửa bấc; ông chủ quán cà phê đem ly; nhóm nước treo bảng uống chậm; chị hàng rong viết chữ “ơn”; cô công nhân may gỡ nút; cậu bé hỏi “rồng đâu” rồi học cách đợi; người lái xe tắt máy đẩy bộ qua bến; những ông già gật; những bà cụ cười; những sinh viên cất sổ; những người thành phố bỏ điện thoại; một cơn gió đúng chỗ; một vệt trăng không tròn; một khoảng im đủ dài; mỗi cái tên như một hạt lúa bỏ vào bồ, mùa tới mở ra sẽ thơm.
Khuya xuống dịu như ai đặt một tấm chăn mỏng lên vai người vừa rửa tay xong, bờ sông Hậu thở tiếng rì rầm quen, đom đóm ngoài ruộng gom lửa muộn, mái rơm hạ bấc, trong chòi, con Nụ ôm bảng ngủ sâu, mép phấn in một vệt trắng lên gò má như dấu tay của một người bạn cùng lớp, bà Bảy thắp một nén nhang nhỏ, khấn vắn tắt “cám ơn”, không thêm, không bớt, rồi ngồi đối diện con gái, mắt sâu như giếng xưa, nói “mai nghỉ một bữa cho dây tơ mềm, rồi sang ao đình phụ dọn ao, nhớ mang bảng, nhớ buộc lại mối ‘về’ trên khăn”, Thu An dạ, ngón tay vô thức vẽ trong không khí một sợi chỉ mới, sợi chỉ nối chữ “về” treo thấp ở cột với đường chỉ xanh trên khăn, nối đường chỉ ấy với mũi ghe Năm Tỵ đang ngủ dưới chân sào, nối mũi ghe với nút tháo khẩn ở sào thứ ba, nối nút ấy với lưng cá gỗ đã khô mùi dầu, nối lưng cá với tấm vải thô “màn nghỉ”, nối tấm vải với chén nước đầy tới miệng tay đứa nhỏ, nối chén nước với tờ “Xin nói nhỏ” phấn còn vương vệt tay con Nụ, nối tờ ấy với ống mực tàu ông Trọng, nối ống mực với khung máy của Khoa, nối khung máy với góc ảnh của Phúc, nối góc ảnh với rổ bánh ít lá gai của chị bán hàng, nối rổ đó với thau nắp chai dưới bảng uống chậm, nối thau ấy với ghế tre không tên, nối ghế với vạch phấn lối vào lối ra, nối vạch phấn với bậc đá ao đình, nối bậc đá với liễu rủ, nối liễu rủ với tiếng mõ, nối tiếng mõ với dây tơ, nối dây tơ với tiếng chập chõa, nối tiếng chập chõa với tiếng thở của bờ, nối tiếng thở với tiếng tim người, sợi chỉ đi một vòng rồi trở lại chỗ nó bắt đầu, nằm ngay ngắn trên đường chỉ xanh, không siết, không trùng, như một mạch bùn hiền dưới mặt nước.
Sáng kế đó, trời trong như lòng chén mới rửa, mùi bùn ròng thanh như nước lá dứa pha đúng tay, tiếng bước chân ngoài hàng dâm bụt lách cách, trưởng ấp ghé, đưa một tờ giấy mỏng “thị trấn hỏi bữa sau ‘không lời bình’, có chịu không”, bà Bảy cười, bảo “chịu, miễn họ ngồi yên ba phút”, ông chủ quán cà phê gửi lời “ly sạch còn nhiều”, nhóm nước nhắn “bảng uống chậm vẫn treo”, anh thợ dây hỏi “cần dây mới thay cọc già không”, dì Tám nói “bánh lá gai còn nóng”, chị bán hàng viết thêm cái dấu sắc cho chữ “ơn” đêm qua bị mưa làm nhạt, Phúc nhắn từ sáng sớm “bài ‘Về’ lên trang trưa nay, câu chốt ‘về cho kịp mùi’”, Khoa gửi một khung phim đúng mười lăm giây chỉ có trăng rơi xuống mặt nước rồi bật lên như tiếng thở, ông Trọng nhắn “đem chữ ‘về’ qua ao đình treo tạm ngày dọn”, thủ từ nhắn “nước ròng, bậc đá lộ, mời gánh qua”.
Thu An bưng ấm, nhón muối, rót hai chén, đưa một chén cho mẹ, nâng một chén ra hiên, nhìn mặt sông đầu ngày yên như một tờ giấy dó chờ mực mà đã thơm mùi bếp, nó nghĩ về những lời mời ở phố, về bồn nước trong nhà, về ánh trùm, về lịch cố định được hứa bằng giấy in, về chữ “đủ” bữa trước nằm gọn trong mắt bà cụ, về tiếng “xin lỗi bờ” của người lái xe tắt máy đẩy bộ, về cô công nhân may cười ướt, về đứa bé hỏi “rồng đâu” rồi biết đợi, về chị cán bộ treo chữ “chậm” cạnh chậu lan đá, về nhóm thanh niên giữ vạch mềm, về bảng “uống chậm” đứng ở góc râm như một người thân, về bốn chữ treo ở cột đã thành câu cửa miệng, về chữ “nhịn” giúp tay hạ, về chữ “ơn” giúp miệng gọi tên đúng, về chữ “chia” giúp ghế tre ai ngồi cũng vừa, về chữ “về” giúp người không còn muốn đứng mãi ngoài bờ người lạ, nó uống một ngụm, nghe trong cổ ấm đi một đường.
Trưa, ghe Năm Tỵ chở đồ qua ao đình dọn bờ, gió từ rìa rừng tràm phả vào mũi mùi nắng cũ, liễu rủ đổ bóng mát như người cũ dang tay đón, bậc đá lộ ra những vệt rêu non, thủ từ đứng đợi, tay cầm cây gõ nhỏ như cầm tay đứa cháu vừa ngủ trưa dậy, bà Bảy cúi chào, Thu An cúi chào, mùi trầm trong gian hậu dịu đi như nghe tiếng bếp bên sông, mọi người bưng bê, cười thấp, nói nhỏ, dọn rác kẹt ở rễ liễu, cạo rêu trơn ở bậc đá, phủi bụi mỏng ở khung ảnh ông nhà, treo tạm chữ “về” dưới góc mép, treo thấp, để ai cúi là thấy, thủ từ chỉ tay ra mặt ao, bảo “dọn cho gió đi cho đúng”, câu nói như một lời dặn cho hết thảy những mùa sau.
Chiều chạng vạng, công việc vừa đủ, bờ liễu sạch như cái bếp sau khi đã rửa chén, hong ráo, xếp thớt, cất cối, trăng non mài mảnh một vệt trên mặt ao, tiếng côn trùng từ ruộng xa rót lại, một đứa trẻ làng bên chạy tới hỏi “bữa nào kể nữa”, Thu An xoa đầu, nói “đợi nước nói”, đứa nhỏ cười, “dạ”, tiếng “dạ” nhỏ rơi gọn xuống rễ liễu, không bật lại, nhưng làm ai nấy mát cổ.
Đêm, quay về bờ nhà, cửa vừa khép là nghe tiếng nước dưới phên đổi giọng như người nhớ tên một người vừa gặp, Thu An đặt ấm, nhón muối, rót hai chén, đặt một chén lên đường chỉ xanh, bưng một chén ra hiên đưa cho mẹ, nhìn xuống sông, tay vẽ trong không khí một sợi chỉ nối mùa vừa tròn tới mùa sắp qua, nối câu chuyện đã kể với câu chuyện chưa kể, nối con cá gỗ với con cá lá dừa, nối tiếng chập chõa với tiếng mõ, nối mùi lá dứa với mùi trầm, nối ánh đèn dầu với vệt trăng mỏng, nối bảng “Xin nói nhỏ” với vạch phấn lối ra lối vào, nối chữ “rành - vừa - yên - nghe - nhịn - ơn - chia - chậm - đủ - về” thành một chuỗi như tràng hạt ở tay bà ngoại, lần tới đâu thì người dịu tới đó, lần hết rồi lại tiếp, không đứt, không rối.
Trước khi tắt đèn, bà Bảy đặt tay lên vai con, mắt ướt mà không rơi, giọng nhỏ như tiếng nước rút trong lạch “mình không thắng mưa, không thua gió, mình đi theo, bữa nào nước bảo ‘kể’, mình kể, bữa nào nước bảo ‘im’, mình im, bữa nào nước bảo ‘về’, mình về, miễn mỗi bữa rót được hai chén lá dứa, đặt một chén lên đường chỉ xanh, bưng một chén ra hiên, miễn bờ còn nhớ gọi tên đúng chỗ”, Thu An dạ, tiếng “dạ” ấy không ngắn cũng không dài, như vừa bằng độ của một hơi thở, nó kéo bấc đèn xuống một chấm mờ, nằm nghiêng, tay vẫn vẽ sợi chỉ cho tới khi ngủ, sợi chỉ đi qua trăng mỏng, qua mái rơm, qua ngọn đèn dầu còn ấm, qua mặt phên, qua mép khăn, qua mắt một đứa trẻ đang ôm bảng trong mơ, qua tiếng máy ngoài vàm đã tắt, qua tiếng ếch dưới ruộng, qua mùi bánh ít còn ấm trong rổ, qua chữ “chậm” treo ở phòng ai xa, qua chữ “về” treo ở góc ao, rồi nằm xuống như một đường gân mảnh dưới da bờ, chờ sáng.
Sáng khác nữa, khi mặt trời chạm đọt bần, khi Phòng văn hóa nhắn “tháng sau bữa không lời bình”, khi quán sách hẹn đem ly, khi chị hàng rong hỏi “viết thêm chữ chi kề bên ơn”, khi nhóm nước xin giữ bảng thêm một mùa, khi những đứa nhỏ thị trấn gửi vẽ chén nước đầy, khi anh thợ dây khoe đã bớt thói treo ẩu, khi thủ từ gọi qua bờ nói “ao sạch hơn tiếng tuần trước”, khi người thành phố dòm đồng hồ rồi cất vào túi, khi tiếng máy ngoài vàm rút xuống như người nhớ lời, khi trăng tới mùa đổi chỗ, khi mưa đến mà hiền, gánh sẽ lại mở then, rót hai chén, đặt một chén lên đường chỉ xanh, bưng một chén ra hiên, nhón muối, cười, nói khẽ với nước như đã nói từ bữa đầu “hôm nay mình kể tiếp”, kể chậm, kể ít, kể bằng hơi, kể bằng tay, kể bằng mùi, kể bằng ánh đi sau tiếng, kể bằng tiếng đi sau yên, kể bằng yên đi sau người, để rốt lại, ai ngồi bờ cũng mang về một sợi chỉ rất nhỏ, rất bền, cột vào nơi cần yên nhất trong nhà mình, một sợi chỉ dẫn lối về bến.
Bình luận
Chưa có bình luận